Trang

Những cánh hoa trí tuệ: Pháp trích lục

Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu. 

Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh rời cành. (Tương Ưng Bộ I. 18)
.

Nầy Cunda, sự tình này không thể xảy ra: một người bị rơi vào bùn lầy có thể kéo lên một người khác bị rơi vào bùn lầy. Này Cunda, chỉ khi nào một người không rơi vào bùn lầy mới có thể kéo lên một người rơi vào bùn lầy. Tương tự, Này Cunda, sự tình này không thể xảy ra: một người tự mình không được nhiếp phục, không được huấn luyện, không được hoàn toàn giải thoát, có thể nhiếp phục, huấn luyện và hoàn toàn giải thoát cho người khác. Chỉ khi nào, một người được nhiếp phục, được huấn luyện, được hoàn toàn giải thoát, mới có thể nhiếp phục, huấn luyện, hoàn toàn giải thoát người khác (Trung Bộ Kinh I. 106f). This situation does not occur, Cunda, when one sunk into mud will by himself pull out another who is sunk into mud. But this situation occurs, Cunda, when one not sunk into mud will by himself pull out another who is sunk into mud. This situation does not occur, Cunda, when one who is not tamed, not trained, not utterly quenched, will by himself tame, train, make another utterly quenched. But this situation occurs, Cunda, when one who is tamed, trained, utterly quenched, will by himself tame, train, make another utterly quenched (Majjhima-Nikaaya I. 45; Middle Length Saying I. 56).
Ở đây, Tỷ-kheo hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa trong khi chưa bị những lời nói bất khả ý xúc phạm. Và chư Tỷ-kheo, chỉ khi nào Tỷ-kheo bị những lời nói bất khả ý xúc phạm, khi ấy vị ấy mới được xem là hiền lành, mới được xem là nhu thuận, mới được xem là ôn hòa (Trung Bộ Kinh I. 286). Some monk here is very gentle, very meek, very tranquil so long as disagreeble ways of speech do not assail him. But when disagreeable ways of speech assail the monk it is then that he is to be called gentle, is to be called meek, is to be called tranquil (Majjhima-Nikaaya I. 126; Middle Length Saying I. 163).
Mạng sống bị dắt dẫn,
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già nua,
Không có nơi dừng bước.
Ai đem tâm quán tưởng,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy làm các công đức,
Ðưa đến chơn an lạc. (Tương Ưng I. 11f).
Life to its doom is led. Our gears are few.
Led to decay, for us no shelters stand,
Whoso doth contemplate this fear of death,
Let him so act that merit brings him bliss.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 2; Kindred Saying I. 4).
Thời gian lặng trôi qua,
Ðêm ngày luôn di động,
Tuổi tác buổi thanh xuân,
Tiếp tục bỏ chúng ta.
Những ai chịu quán sát,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy bỏ mọi thế lợi,
Tâm hướng cầu tịch tịnh. (Tương Ưng I. 13)
The hours pass by. Nights drive us ever on.
Stages of life in turn abandon us.
Whoso doth contemplate this fear of death,
Let him reject the bait of all the worlds,
Let him aspire after the final peace.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 3; Kindred Saying I. 4).
Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh rời cành. (Tương Ưng Bộ I. 18).
They make no lamentation o’er the past,
They yearn not after that which is not come,
By what now is do they maintain themselves;
Hence comes it that they look serene of hue.
By yearning after that which is not come,
By making lamentation o’er the past,
Hence comes it that the foolish wither up
E’en as a tender reed by sickle shorn.

(Sa"myutta-Nikaaya I. 5; Kindred Saying I. 8).
Không nên chế ngự ý,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Chớ có chế ngự ý,
Nếu tự chủ đạt được.
Chỗ nào ác pháp khởi,
Chỗ ấy chế ngự ý. (Tương Ưng Bộ I. 37)
Not on all sides should mind be held in check.
Restrain it not if self-control be won.
But whence soever evil things do rise,
Thence should the mind be curbed and held in check.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 14; Kindred Saying I. 21).
Những ai chỉ biết nói,
Hay chỉ biết nghe thôi,
Những hạng người như vậy,
Không thể nào tiến bộ.
Khó nhọc thay con đường,
Giúp kẻ trí giải thoát.
Nhờ Thiền định thiêu cháy,
Mọi trói buộc quần ma,
Kẻ trí không làm vậy,
Sau khi biết thế tình,
Với trí, chứng Niết-bàn,
Vượt chấp trước ở đời. (Tương Ưng Bộ I. 58)
Not if he merely talk or simply hear,
Shall he avail to make advance herein.
A hard and strenuous course is this, whereby
The strong in spirit liberation find
In contemplative work from Maara’s toils.
Not thus in sooth it is they do who strong
In spirit know the methods of the world,
And knowing, have attained Nibbaana here,
Safe crossing o’er where all the world sticks fast.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 24; Kindred Saying I. 34).
Cho ăn là cho lực,
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho đèn là cho mắt.
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị ấy cho tất cả,
Ai giảng dạy Chánh pháp,
Vị ấy cho bất tử.
(Tương Ưng Bộ I. 73)
He giveth strength who giveth food;
Who giveth gear gives comeliness;
He giveth sight who giveth lamp;
And he it is gives happiness
Who giveth vehicles; whoso
Doth give a dwelling giveth all.
Who in the Norm doth give instruction, this
Giveth Ambrosia [undying bliss].
(Sa"myutta-Nikaaya I. 32; Kindred Saying I. 43).
Nghiệp minh và tâm pháp,
Giới và tối thắng mạng,
Chính những diệu pháp ấy,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải vì dòng họ,
Không phải vì tài sản.
(Tương Ưng Bộ I. 76)
Goodwill, and wisdom, mind by method trained,
The highest conduct on good morals based:--
This maketh mortals pure, not rank nor wealth.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 33; Kindred Saying I. 46).
-- Vật gì tốt không già?
Vật gì tốt trường cửú?
Vật gì vật báu người?
Vật gì cướp không đoạt?
-- Giới là tốt không già,
Tín là tốt trường cửu,
Tuệ, vật báu loài Người,
Công đức, cướp không đoạt.
(Tương Ưng Bộ I. 81f)
-- What by the absence of decay brings luck?
What base and stay’s of happy augury?
What is the precious jewel of mankind?
And what is it that thieves should bear away?
-- Good morals bring us luck that ne’er decays,
Faith well-established doth good fortune bring,
Wisdom’s the precious jewel of mankind,
Merit it is that thieves should bear away.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 36; Kindred Saying I. 51).
Bạn đường, bạn đi đường,
Bạn ở nhà là mẹ,
Bạn bè khi cần thiết,
Mới là bạn thường xuyên,
Công đức tự mình làm,
Là bạn cho đời sau.
(Tương Ưng Bộ I. 84)
Escort’s a good friend to the wayfarer,
Mother’s the good friend dwelling in the home,
A comrade’s help where there has risen need,
Is a good friend again and yet again,
And meritorious deeds wrought by one’s self:--
That is a good friend in the life to come.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 37; Kindred Saying I. 51f).
Trên con đường khó đi,
Và có nhiều lồi lõm,
Kẻ phàm phu vấp ngã,
Trên đường mất thăng bằng.
Con đường đối bậc Thánh,
Là con đường thăng bằng,
Bậc Thánh bước thăng bằng,
Trên đường mất thăng bằng.
(Tương Ưng Bộ I. 111)
In that "rough path" non-Ariyans headlong fall;
To Ariyans the way is even. They
Walk in the uneven with an even stride.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 48; Kindred Saying I. 69).
Ở đây kẻ bị chết,
Làm các nghiệp công đức,
Làm các nghiệp ác đức,
Lấy cả hai đem đi.
Cả hai của kẻ ấy,
Như bóng theo dõi hình.
Cả hai theo kẻ ấy,
Do vậy hãy làm lành,
Tích lũy cho đời sau,
Công đức cho đời sau,
Là hậu cứ cho người.
(Tương Ưng Bộ I. 168f)
Man’s merits and the sins he here hath wrought:
-- That is the thing he owns, that takes he hence,
That dogs his steps, like shadow in pursuit.
Hence let him make good store for life elsewhere.
Sure platform in some other future world,
Rewards of virtue on good beings wait.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 72; Kindred Saying I. 98).
Phải cọng trú mới biết được giới đức của một người, phải cùng chung một nghề mới biết được sự thanh tịnh của một người, chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một người, phải đàm đạo mới biết được trí tuệ của một người, và phải trong một thời gian dài không thể khác được, phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ. (Tương Ưng Bộ I. 181) It is by life in common with a person, that we learn his moral character; it is by converse with another, that we learn whether he is pure-minded; it is in time of trouble, that we learn to know a man’s fortitude; it is by intercourse, that we learn to know a man’s wisdom, and then only after a long interval, if we pay good heed and are not heedless, if we have insight and are not unintelligent. (Sa"myutta-Nikaaya I. 78; Kindred Saying I. 105).
Thắng trận sanh thù oán,
Bại trận nếm khổ đau,
Ai bỏ thắng, bỏ bại,
Tịch tịnh, hưởng an lạc. (Tương Ưng Bộ I. 190)
Conquest engenders hate; the conquered lives
In misery. But whoso is at peace
And passionless, happily doth he live;
Conquest hath he abandoned and defeat.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 83; Kindred Saying I. 109f).
Các tài sản của người ấy mếu không thọ dụng chơn chánh, thời vua chúa sẽ cướp đoạt, hay trộm cắp cướp đoạt, hay bị lửa đốt, hay bị nước cuốn trôi, hay bị con cháu thừa tự thù nghịch cướp đoạt. Sự việc là như vậy, các tài sản nếu không thọ dung chơn chánh, đưa đến tổn giảm, không đưa đến thọ hưởng.
(Tương Ưng Bộ I. 202)
Those riches of his, not being rightly utilized, are either confiscated by kings or by robbers, or are burnt by fire, or carried away by flood, or are appropriated by heirs for whom he hath ho affection. That being so, riches that are not rightly utilized run to waste, not to enjoyment.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 90; Kindred Saying I. 115).
Lúa, tài sản, vàng bạc,
Hay mọi vật sở hữu,
Nô tỳ và lao công,
Các mạng sống tùy thuộc,
Vị ấy phải ra đi,
Không đem theo được ai,
Tất cả phải bỏ lại,
Khi ra đi một mình.
Chỉ có các hành động,
Về thân, miệng và ý.
Mới thật thuộc vị ấy,
Mang theo khi ra đi,
Nghiệp ấy theo vị ấy,
Như bóng không rời hình.
Do vậy hãy làm lành,
Tích lũy cho đời sau,
Công đức cho đời sau,
Làm hậu cứ cho người.
(Tương Ưng Bộ I. 207)
Grain-store and hoarded wealth, silver and gold,
Or whatsoever property there be,
Or all whose living doth on him depend:
His slaves, his craftsmen and hired menials--
All this he hath to leave, naught can he take;
All this is matter for abandonment.
But what he doth, by act or word or thought:
That is the thing he owns; that takes he hence;
That dogs his steps like shadow in pursuit.
Hence let him make good store for life elsewhere.
Sure platform in some other future world,
Rewards of virtue on good beings wait.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 93; Kindred Saying I. 117f).
Ví như tất cả đồ gốm do người thợ gốm làm ra, chưa nung chín hay đã nung chín, tất cả đồ gốm ấy đều phải bể, đều kết thúc trong sự bể, đều không vượt qua sự bể. Cũng vậy, tất cả chúng sanh đều phải chết, đều kết thúc trong sự chết, đều không vượt qua sự chết.
(Tương Ưng Bộ I. 217)
All the vessels wrought by the potter, whether they are unbaked or bakedỨ --all are breakable. They finish broken, they have breakage in prospect. Even so, all beings are mortal; they finish with death; they have death in prospect.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 97; Kindred Saying I. 122).
Mọi chúng sanh sẽ chết,
Mạng sống, chết kết thúc,
Tùy nghiệp, họ sẽ đi,
Nhận lãnh quả thiện ác,
Ác nghiệp đọa, địa ngục,
Thiện nghiệp, lên Thiên giới.
Do vậy hãy làm lành,
Tích lũy cho đời sau,
Công đức cho đời sau,
Làm hậu cứ cho người.
(Tương Ưng Bộ I. 217f)
All creatures have to die. Life is out death.
And they shall fare according to their deeds,
Finding the fruit of merit and misdeeds:--
Infernal realms because of evil works;
Blissful rebirth for meritorious acts
(Sa"myutta-Nikaaya I. 97; Kindred Saying I. 122).
Ngắn ngủi thay là tuổi thọ loài người ở đời này, rồi phải đi trong tương lai! Hãy làm điều lành. Hãy sống Phạm hạnh. Không có gì sanh ra lại không bị tử vong. Này các Tỷ-kheo, người sống lâu chỉ có một trăm năm, hoặc ít hơn, hoặc nhiều hơn.
(Tương Ưng Bộ I. 240)
Brief is the life of men--a matter of flitting hence, having its sequel elsewhere. To be wrought is the good; to be lived is the holy life. To him that is born there is no not-dying. He, bhikkhus, who lives long, lives but a hundred years or but little longer.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 108; Kindred Saying I. 135).
Loài người thọ mạng ngắn,
Người lành phải âu lo,
Như cháy đầu, hãy sống.
Tử vong rồi phải đến.
(Tương Ưng Bộ I. 241)
Brief time have sons of men on earth to live.
Let the good man herein much trouble take.
Acting as were his turban all a-blaze.
There is no man to whom death cometh not.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 108; Kindred Saying I. 136).
Phàm con người đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy thân.
Ai khen kẻ làm bậy,
Ai chê người làm hay,
Tự nhen nhúm bất hạnh,
Do chính miệng của mình.
(Tương Ưng Bộ I. 328)
In sooth to every man that's born
A hatchet grows within his mouth,
Wherewith the fool, whene'er he speaks
And speaks amiss, doth cut himself.
He who the blameworthy doth praise,
Or who the praiseworthy doth blame,
Builds by his mouth his evil doom.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 149; Kindred Saying I. 188).
Các hành là vô thường,
Có sanh phải có diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Tịnh chỉ chúng, an lạc.
(Tương Ưng Bộ I. 347)
Alas! Impermanent is everything in life!
Growth is its very nature, and decay.
They spring to being and again they cease.
Happy the mastery of them and the peace.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 159; Kindred Saying I. 197).
Kẻ ngu nghĩ mình thắng,
Khi nói lời ác ngữ,
Ai biết chịu kham nhẫn,
Kẻ ấy thật thắng trận.
Những ai bị phỉ báng,
Trở lại phỉ báng người,
Kẻ ấy làm ác mình,
Lại làm ác cho người.
Những ai bị phỉ báng,
Không phỉ báng đối lại,
Người ấy đã thắng trận,
Thắng cho mình cho người.
Vị ấy tìm lợi ích,
Cho cả mình và người,
Và kẻ đã phỉ báng,
Tự hiểu, lắng nguội dần.
Bậc y sư cả hai,
Chữa mình, chữa cho người,
Quần chúng nghĩ là ngu,
Vì không hiểu Chánh pháp.
(Tương Ưng Bộ I. 357)
The fool forsooth doth deem the victory his
In that he plays the bully with rude speech.
To him who knoweth how he may forbear,
This in itself doth make him conqueror.
Worse of the two is he who when reviled
Reviles again. Who doth not, when reviled,
Revile again, a two-fold victory wins.
Both of the other and himself he seeks
The good; for he the other's angry mood
Doth understand and groweth calm and still.
He who of both is a physician, since
Himself he healeth and the other too,--
Folk deem him fool, they knowing not the Norm.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 163; Kindred Saying I. 204)
Ai hại người hiền thiện,
Thanh tịnh, không cấu nhiễm,
Ác hạnh được chín mùi,
Phản lại hại người ngu,
Chẳng khác gì ngược gió,
Lại tung vãi bụi trần.
(Tương Ưng Bộ I. 358)
Whoso doth wrong the man that's innocent:--
Him that is pure and from all errors free--
His wicked act returns upon that fool
Like fine dust that is thrown against the wind.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 164; Kindred Saying I. 204)
Chánh pháp là ao hồ,
Giới là bến nước tắm,
Không cấu uế, trong sạch,
Ðược thiện nhơn tán thán,
Là chỗ bậc có trí,
Thường tắm, trừ uế tạp,
Khi tay chân trong sạch,
Họ qua bờ bên kia.
(Tương Ưng Bộ I. 403)
The Norm's a lake, virtue its strand for bathing,
Clear, undefiled, praised by the good to good men,
Wherein in sooth masters of lore come bathing,
So, clean of limb, to the beyond cross over.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 183; Kindred Saying I. 232f).
Ai nói lên lời gì,
Lời ấy không khổ mình,
Lại không làm hại người,
Lời ấy là thiện thuyết.
Ai nói lời ái ngữ,
Lời nói khiến hoan hỷ,
Lời nói không ác độc,
Lời ấy là ái ngữ.
Các lời nói chơn thật,
Là lời nói bất tử,
Như vậy là thường pháp,
Tử thuở thật ngàn xưa.
Bậc Thiện Nhân được xem,
An trú trên chơn thực,
Trên nghĩa và trên pháp,
Lời đồn là như vậy.
Lời đức Phật nói lên,
Ðạt an ổn Niết-bàn,
Chấm dứt mọi khổ đau,
Thật lời nói tối thượng.
(Tương Ưng Bộ I. 416f)
Whoso can speak a word whereby he works
No torment to himself, nor causeth harm
To fellow-men, that word is spoken well.
Whoso can speak a kindly word, a word
That's grateful to the ear, and lays not hold
Of others' faults, that word is kindly spoke.
Truth is ambrosial speech; of saints of old
This was the ancient Norm; on Truth and Good
And Norm, it is said, the saints do firmly stand.
The Word which the Awakened speaketh, sure
Safe guide to make Nibbaana ours, to put
An end to Ill:--that is the Word Supreme.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 188; Kindred Saying I. 240)
Ai hiếu dưỡng cha mẹ,
Kính trong bậc gia trưởng,
Nói những lời nhu hòa,
Từ bỏ lời hai lưỡi,
Chế ngự lòng xan tham,
Là con người chân thực,
Nhiếp phục được phẫn nộ,
Với con người như vậy,
Chư Thiên tam thập tam,
Gọi là bậc Chơn nhơn.
(Tương Ưng Bộ I. 508)
Whoso his mother and his father keeps,
The senior in his family reveres,
Converseth gently and with soft-toned speech,
And all that makes for slander puts aside,
Who sets himself all meanness to suppress,
A man of truth, his temper 'neath control:--
On such an one the Three and Thirty Gods
Do verily confer the name: Good Man.
(Sa"myutta-Nikaaya I. 228; Kindred Saying I. 294)
Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tinh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời.
(Trường Bộ Kinh I. 222).
Wisdom is purified by uprightness, and uprightness is purified by wisdom. Where there is uprightness, wisdom is there, and where there is wisdom, uprightness is there. To the upright, there is wisdom, to the wise there is uprightness, and wisdom and goodness are declared to be the best thing in the world.
(Diigha-Nikaaya I. 124; Dialogues of the Buddha I. 156).



Tịnh Tuệ sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét