Chánh Định - Henepola Gunaratana

CHÁNH ĐỊNH
Chánh định là bước quan trọng cuối cùng trên con đường đưa đến hạnh phúc (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật. Khi tâm đã khinh an, định tĩnh, thì những chướng ngại cản trở hạnh phúc không thể phát khởi. Hơn thế nữa, khi ngồi thiền, chúng ta có thể trụ tâm định tĩnh trên đối tượng tâm phát sinh cùng với thức. Định giúp chúng ta phá vỡ được vẻ bề ngoài giả tạo của các đối tượng này để có cái thấy rõ ràng về tính vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Với chánh định, ta càng tinh tấn hành thiền, và chúng ta đạt được nhiều tiến bộ trên đạo lộ.
Thông thường khi chúng ta nói rằng ai đó đang “định tâm”, ta muốn chỉ đến bất cứ điều gì từ việc đắm chìm trong một chương trình truyền hình, đến đăm chiêu trong một ván cờ, đến hoạch định một tội ác. Nhưng loại định mà Đức Phật dạy như là một chi phần của Bát Chánh Đạo có ba đặc tính đặc biệt: thiện, nhất tâm và sử dụng chánh niệm để phát triển trí tuệ.
Loại định này không dễ có được. Cũng giống như các khả năng khác, ta phải tu tập từng bước mới có được. Tâm phải được rèn luyện. Có thể phải mất từ vài thời tọa thiền đến vài năm tinh tấn nỗ lực để phát triển loại định có tính thiện, nhất tâm, và chánh niệm này. Một khi đã đạt được thiền định này, thiền giả phải tiếp tục tu tập các bước cho đến khi thiền giả có thể đạt được định dễ dàng, theo ý muốn.
Từ lúc đầu, chúng ta đã nói đến sự quan trọng của việc tìm được một vị thầy tốt để hướng dẫn ta tu tập. Một vị thầy có thể dành cho ta nhiều sự giúp đỡ lớn lao khi ta tu tập để phát triển thiền định. Khi ta cố gắng để hoàn thiện khả năng của mình, nhiều câu hỏi có thể phát sinh. Nếu không có thầy tốt, thì nguồn hỗ trợ kế tiếp là những quyển sách thuần về chủ đề này. Hơn thế nữa, rất khó cho tâm an định đủ để đạt được thiền định nếu như ta tiếp tục phải đối mặt với những vấn đề của cuộc sống đời thường mỗi ngày. Chúng tôi khuyên quý vị hãy dành một khoảng thời gian nào đó để thực hành thiền định, ví dụ như là suốt một tuần khi quý vị không bị các bổn phận làm gián đoạn. Dự một khóa tu chuyên sâu về thiền có thể là cách tốt nhất để bắt đầu.
THIỀN ĐỊNH
Không phải tất cả các
định đều thiện. Thí dụ một chú mèo đang chờ đợi để bắt mồi, đặt tất cả chú tâm vào con mồi. Chú mèo có sự chú tâm rất mãnh liệt, nhưng nó hoàn toàn không thiện. Tâm định thiện thì không có tham, sân, hay si.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể sử dụng sự chú tâm cao độ để giải một bài toán, để sửa một chiếc xe, hay để chuẩn bị cho một món ăn cầu kỳ. Loại chú tâm này có thể là thiện pháp nếu nó được kích thích bởi những ý nghĩ thiện như là từ bi, tình thương, hay bi mẫn. Nó sẽ bất thiện nếu xuất phát từ những trạng thái bất thiện như tham, sân, hay ác độc.
Các trạng thái bất thiện, kể cả năm chướng ngại, đều có mặt trong sự chú tâm hằng ngày của chúng ta, nhiều hơn chính ta có thể ý thức được. Thí dụ, khi bạn cố gắng để giải bài toán đố, có thể do bạn bị bám víu vào việc muốn có điểm cao trong kỳ thi; khi sửa xe, bạn có thể ngại công việc dơ bẩn; lúc nấu bữa ăn cầu kỳ đó, bạn có thể suy nghĩ một cách đầy bực tức về một thành viên trong gia đình, người sẽ được hưởng thụ món ăn đó. Loại thiền định do Đức Phật dạy không có mặt của các chướng ngại này.
Khi ngồi thiền cũng thế, nếu ta đạt định khi có mặt của bất cứ chướng ngại nào, thì đó cũng là bất thiện. Thí dụ, bạn có thể phần nào được định khi trải qua chướng ngại của hôn trầm, thụy miên. Bạn có thể ở trong trạng thái nửa mê, nửa tĩnh, mơ màng nghĩ đến những điều dễ chịu. Sau đó bạn có thể ảo tưởng rằng mình đã ngộ được điều gì lúc tọa thiền. Đó là si, không phải là thiện định.
Hành thiền khi tâm đang hờn giận cũng là bất thiện. Bạn có thể biết việc hành thiền của mình lúc đó đã sai vì bạn sẽ cảm thấy căng thẳng, lo lắng, kiệt lực. Có thiền giả còn bị nhức đầu vì đã cố ép tâm trụ vào đối tượng thiền quán, mặc dầu tâm đang sân hận hay bực bội. Những lúc như thế, bạn cần thực hành chánh tinh tấn để chế ngự các chướng ngại đó và để tạo nên một trạng thái tâm thiện trước khi bắt đầu. Lỗi lầm tệ nhất mà một thiền giả có thể làm là bỏ thì giờ thiền để nghiền ngẫm về một nỗi mất mát hay những tâm bất thiện khác. Dĩ nhiên, đem ý thức chánh niệm đến với các trạng thái này là thiền minh sát tuệ.
Do đó bước đầu tiên trong việc thiết lập chánh định là phải chắc chắn rằng sự thực hành của ta là thiện bằng cách ngăn chặn các chướng ngại tấn công tâm. Sau đây là những điều cần thực hiện thêm nếu bạn muốn đạt được định khi tọa thiền.
- Trong thời gian ngồi thiền, hãy buông xả tất cả mọi ý nghĩ bám víu vào hoàn cảnh, tư tưởng, con người, và các thói quen. Đừng nghĩ đến gia đình, bạn bè, quyến thuộc, nghề nghiệp, lương bổng, thuế má, sở hữu, hay trách nhiệm. Hãy tự nhủ: "Ta muốn dành thời gian đặc biệt này để hoàn thiện bản thân. Ta không muốn ngồi trên gối thiền này để suy nghĩ về tất cả những điều bình thường ta vẫn nghĩ. Ta sẽ sử dụng thời gian này thật tốt."
- Đừng lo lắng về những điều gì bạn làm còn dang dở, về những thứ mà bạn đã làm sai, hay về những lỗi mà bạn có thể phạm với người khác. Hãy nhớ rằng quá khứ đã qua, và điều gì đã làm, không thể làm lại được.
- Hãy dành đôi phút để phát triển những ý nghĩ về tình thương yêu để khiến tâm cảm thấy dễ chịu, sảng khóai để có thể chú tâm hành thiền. Sau đó hít vào ba hơi thở sâu.
- Trụ tâm trên đối tượng thiền quán mà bạn đã chọn như là hơi thở.
- Hãy giữ tâm ở giây phút hiện tại.
- Luôn kiên trì nỗ lực để giữ tâm không tán loạn.
- Nếu một trong năm chướng ngại có mặt, chế ngự nó bằng cách sử dụng những phương pháp ta đã học. Vun trồng tâm thiện đối nghịch với bất cứ chướng ngại nào đang có mặt. Thí dụ, nếu tham có mặt, thì hãy vun trồng tâm xả. Hãy để tâm trở nên nhẹ nhàng và trong sáng.
- Một khi chướng ngại đã được chế ngự, hãy hướng tâm trở về với đối tượng thiền quán đã được chọn như là hơi thở.
- Hãy nhớ, mục đích của thời khóa này là để thực hành phương pháp thiền. Ở thời điểm này bạn không nên đi vào chi tiết của những gì bạn đã trải nghiệm, mà chỉ giữ tâm trụ trên đối tượng thiền quán một cách đầy chánh niệm.
- Sau mỗi lần đạt được thiện định, bạn sẽ cảm thấy dễ dàng hơn và hăng hái lên. Không cần biết tâm định thiện đó ngắn ngủi hay mong manh, yếu ớt dường nào, chính yếu là bạn đã đạt được một điều gì đó bằng cách vượt thắng được những thói quen cũ và chuyển đổi được tâm.
Trong lúc đang tu tập thiền quán để rèn luyện tâm, ta nên bằng lòng với bất cứ tầng thiện định nào mà ta có thể đạt được. Khi ngồi thiền, tâm định tĩnh nạp thêm cho ta năng lượng, khiến ta cảm thấy thăng bằng và bắt đầu có niềm tin trong việc hành thiền. Hỷ phát sinh vì tâm định chế ngự các chướng ngại.
Ngay chính trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng phần nào cần đến tâm thiện định để có thể sống một cách đạo đức. Tâm thiện định giúp ta trụ vào những ý nghĩ, lời nói, và hành động thiện và tránh xa điều bất thiện. Tâm thiện định giúp ta giải quyết những vấn đề hằng ngày một cách công bằng, với một trạng thái tâm xả. Điều ngược lại cũng đúng. Ta có thành công trong việc phát triển tâm định hay không, tùy thuộc vào một nền đạo đức vững chắc. Khi cảm nhận của ta về đạo đức tiến bộ hơn, thì tâm định của ta cũng thế.
Loại thiền định mà chúng ta đã nhắc đến từ trước cho đến giờ, có thể gọi “thiện định bình thường." Loại thiền định này thì tương đối dễ đạt được. Tuy nhiên, tuệ giác phát sinh từ thiện định bình thường này cũng có thể chuyển hóa cuộc sống. Nó giúp bạn tránh xa những ý nghĩ, lời nói, và hành động bất thiện. Bạn không muốn làm việc gì có thể cản trở sự giải phóng tâm. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói rằng tâm thiện định bao trùm tất cả các trạng thái tâm thiện.
Khi Đức Phật còn là thái tử Siddhattha Gotama, thân phụ của Ngài, nhà vua, ngăn cản không cho Thái tử thấy bất cứ điều gì khiến Ngài đi theo con đường tâm linh. Cuối cùng khi Thái tử nhìn thấy bốn hình ảnh -một người già, một người bệnh, một xác chết, và một tu sĩ– đó là một bước ngoặc cho Thái tử. Quán tưởng trên bốn thứ này, Thái tử Siddhattha đạt đến một trạng thái định. Tuệ tri phát khởi đối với sự thật về khổ. Vì thế Ngài quyết định không trở về với cuộc sống đầy dục lạc nơi cung điện của vua cha mà đi tìm một giải pháp để giải thoát chúng sanh khỏi đau khổ.
Điều đó cũng có thể đúng đối với chúng ta. Khi ta quán sát sự vật với tâm thiện định, thì những thứ bình thường trong đời sống hằng ngày cũng có thể kích động tâm suy nghĩ sâu xa hơn. Tuệ tri xuất phát từ tâm định tĩnh này có thể thuyết phục ta rằng ta đã trôi lăn trong vòng khổ đau đủ lâu rồi và đây là lúc bắt đầu một trang mới của cuộc đời ta. Ta đã có một cái nhìn và tri giác mới về khổ trong cuộc đời. Ta thấy được sự mù quáng trong việc chạy đuổi theo hạnh phúc qua dục lạc; ta thấy những sự thỏa mãn vật chất phải trả bằng khổ đau, lo lắng. Ta không còn cố gắng để biện giải cho sự khổ sở của mình như là hạnh phúc.
Con đường thoát ra khỏi khổ đau cũng trở nên rõ ràng. Vì tâm định giúp ta nhận ra chân lý trong lời dạy của Đức Phật, ta cảm thấy có thêm động lực để phát triển các trạng thái định sâu sắc hơn để ta có thể đạt được tuệ giác thâm sâu hơn.
CÁC TẦNG THIỀN ĐỊNH
Tâm
định sâu xa có thể dẫn đến những sự chứng ngộ sâu sắc nhất được gọi là "thiền định” hay jhana. Thiền định thì luôn thiện và nhất tâm. Tuy nhiên hãy nhớ rằng tâm định này vẫn chưa phải là chánh định nếu chánh niệm không có mặt. Với tâm định viên mãn, mức tiến triển đến giác ngộ của ta được tăng tốc.
đây chúng ta nói về định với một ý nghĩa rất đặc biệt. Mỗi khi tâm trụ trên bất cứ đối tượng nào, dầu không quan trọng, định cũng phát sinh. Nhưng thường ta chỉ nhìn thấy bức tranh toàn cảnh, chứ không để ý đến từng chi tiết làm nên cảnh ấy. Thí dụ, khi đọc sách, mắt nhìn vào một chữ rồi chữ kế tiếp, hay từng câu, rồi câu kế tiếp, sau đó những thông tin này được chuyển lên não. Chúng ta không đọc từng chữ cái một. Tâm quá nhanh và khả năng chú tâm quá mãnh liệt đến nỗi chúng ta nhìn được cả câu hay cả dòng một lúc.
Nếu làm chậm quy trình đó lại, chúng ta có thể ý thức về từng sát na của định. Mục đích của công phu tu thiền là để duy trì sự tĩnh thức để tâm định có thể chuyển vào từng sát na tâm kế tiếp, liên tục không gián đoạn. Tuy nhiên mức độ tĩnh giác này rất khó. Từng sát na tâm quá nhỏ đến nỗi gần như ta không thể tưởng tượng ra.
Có người xin Đức Phật cho một thí dụ về sát na của tâm. Ngài trả lời rằng Ngài không thể cho một thí dụ nào. Ngài nói rằng không thể diễn tả được sự nhanh chóng, thoáng chốc của từng sát na. Tuy nhiên, giả sử có một màng nhện rất nhỏ, rất mong manh, và bạn muốn mang cây nến đến đốt. Bạn cần bao lâu để đốt màng nhện đó? Gần như cây đèn vừa được đưa đến gần, màng nhện đã cháy. Đức Phật dạy rằng trong chỉ một khoảng thời gian ngắn như thế, hàng ngàn sát na tâm có thể phát khởi, tăng trưởng, rồi qua đi. Với thí dụ này, Đức Phật muốn diễn tả rằng sự nhanh nhạy của tâm thì gần như không thể nghĩ bàn.
Mỗi sát na tâm thoáng qua này bao gồm ba sát na còn ngắn ngủi hơn nữa: giây phút phát khởi, giây phút viên mãn, và giây phút hoại diệt. Ngay sau giây phút hoại diệt, một sát na tâm khác lại phát khởi, theo cùng một quy trình như thế. Ba tích tắc sát na ngắn này tạo nên một sát na tâm toàn vẹn. Tâm định phát sinh với chỉ một số sát na tâm – có thể là một trong cả tỷ sát na. Tâm định viên mãn có thể nhìn xuyên suốt đến tận mức độ khi mỗi sát na tâm phát khởi, viên mãn, rồi hoại diệt. Một khi ta đã quán sát trực tiếp được sự phát khởi và qua đi của từng sát na tâm, chúng ta không còn nghi ngờ sự thật về tính vô thường của vạn pháp, và chúng ta phải buông xả thôi. Đó là lý do tại sao chúng ta cần một tâm định viên mãn để có thể nhìn thấy thực tại rõ ràng để đạt được giác ngộ.
Thiền định viên mãn gồm có một số giai đoạn hay tầng lớp. Đúng ra, có tám tầng thiền định (bát định) hay jhana mà người chưa giác ngộ có thể đạt được, và bất cứ tầng thiền định nào cũng có thể được sử dụng để đạt được giác ngộ. Tuy nhiên để đơn giản hóa, chúng ta sẽ chỉ nói về bốn tầng thiền định đầu tiên.
Ít nhất phải đạt được tầng thiền định thứ nhất mới có thể phát triển tâm lực cần thiết để tuệ giác mọi thứ như chúng thật sự là. Với sự chứng đạt được từng bậc của ba tầng định kế tiếp, ta sẽ dễ dàng nhận ra chân lý hơn. Ở tầng thứ hai, tâm định được cải thiện hơn do sự vắng mặt của quá trình suy tưởng. Ở tầng thứ ba mức độ chánh niệm trở nên mãnh liệt hơn, và ở tầng thứ tư càng nhiều hơn nữa, tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh với sự có mặt của xả.
Tầng Thiền Thứ Nhất
Để đạt được sơ thiền, tâm phải không còn chướng ngại và thiết lập được thiện định. Sau đó năm yếu tố tâm thức (thiền chi) phải cùng có mặt: ‘tầm", "tứ", hỷ, lạc và định.
Bất cứ một trong năm thiền chi này có thể phát khởi, đơn độc hay cùng với nhau, tùy theo những điều kiện khác nhau. Thí dụ, lạc phát khởi khi vắng mặt sân. Khi hôn trầm qua đi, “tầm” có thể phát sinh. Khi trạo hối không có mặt, ta có hỷ. Bất cứ khi nào ta có được giây phút của thiện định, hỷ sẽ phát sinh do sự vắng mặt của năm chướng ngại, và một vài thiền chi khác cũng có thế xuất hiện.
Thật là một cảm giác tuyệt vời với sự có mặt của một trong năm thiền chi này. Bạn có thể tưởng rằng mình đang ở cực lạc. Nhưng cảm giác tuyệt vời này không phải là thiền chứng, ngay cả khi tình cờ các yếu tố này cùng phát khởi, từng cái một. Phải tuân theo một hệ thống nhất định mới có thể chứng được sơ thiền.
Phương pháp này bắt đầu bằng thiện định bình thường. Niềm vui bạn tìm được trong trạng thái này sẽ đưa đến lạc. Hỷ và lạc là hai tình cảm khác nhau. Hý phát khởi trong sự chờ đón đầy hy vọng về lạc. Lạc phát sinh từ sự hài lòng là niềm hy vọng của mình đã thành sự thật. Đây là một ẩn dụ có thể giúp ta phân biệt giữa hỷ và lạc.
Bạn đang đi trên một sa mạc. Không có nước hay bóng cây -chỉ có cát. Bạn bước tới, mệt mỏi và khát. Bỗng thấy một người đang đi tới tóc tai ướt đầm nước. Quá vui mừng, bạn hỏi, “Nước ở đâu vậy?”
"Có một ốc đảo ngay phía trên kia."
Bạn tiến về ốc đảo. Đầu tiên khi nhìn thấy nước từ xa, bạn cảm thấy rất mừng (hỷ). Càng đến gần hơn, niềm vui (hỷ) của bạn tăng trưởng. Rồi bạn nhảy vào nước. Bạn uống nước. Bạn nhảy nhót dọc theo bờ nước, cảm thấy thật mát mẻ, sảng khóai. "Ôi thiệt là lạc thú! Lạc chính là đây.”
Người ta thường đồng hóa lạc (happiness) với sự hưng phấn (excitement). Thí dụ, ai đó vừa trúng số độc đắc. Người đó sẽ biểu lộ sự phấn khởi bằng cách la hét, nhảy lên nhảy xuống, ôm nhau, khóc, cười. Người đó nghĩ “Ta cảm thấy thật (hỷ) lạc!” Nhưng cảm giác đó không phải là lạc thật sự. Đó là sự phấn khích. Khi an lạc thật sự phát sinh, niềm hưng phấn sẽ biến mất và bạn cảm thấy thư giãn, bình an.
An lạc thật sự dẫn đến định tĩnh. Khi tâm đã trầm lắng, dĩ nhiên nó trở nên định tĩnh hơn. Khi tâm định của bạn sâu lắng hơn bạn có thể tiến tới việc rèn luyện để tâm đạt đến an chỉ định với những bước sau đây:
- Giữ tâm luôn trụ nơi hơi thở hay bất cứ đối tượng thiền quán nào. Không nên, ở thời điểm này, quay ra quán sát các đối tượng khác khi chúng phát sinh như là âm thanh hay tư tưởng. Hãy buông bỏ bất cứ thứ gì phát sinh, và trở lại với hơi thở. Hãy lặp đi lặp lại điều này, cho đến khi tâm không còn quan tâm đến thứ gì khác và trụ nơi đối tượng thiền quán.
- Dần dần hơi thở hay một đối tượng thiền quán nào khác mà ta đã chọn có vẻ qua đi và được thay bằng một bản sao của nó. Hình ảnh tâm linh hay cảm thọ đó – được gọi là "định tướng" (sign of concentration), trở thành một đối tượng thiền quán mới của bạn, và bạn trụ vào đó.
- Khi hình ảnh tâm linh đó cũng qua đi và tâm trú vào chính nó, là bạn đã đạt được đến tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền).
- Điều này xảy ra như thế nào? Khi thiện định sâu lắng hơn, tâm dần dần không còn quan tâm tới gì khác, mà chỉ trụ vào đối tượng thiền quán, như là hơi thở. Khi ta tiếp tục chú tâm vào đối tượng này, nó trở nên quá vi tế đến nỗi ta không còn để ý đến nó chút nào. Nhưng ở điểm của sự chú tâm, như là đầu mũi, sự ghi nhớ về hơi thở hay đối tượng thiền quán khác vẫn tiếp tục. Sự ghi nhớ này trở nên là một cảm thọ rất dễ chịu được gọi là "định tướng”. Tướng này có thể xuất hiện như là một hình ảnh, ánh sáng, hay như một sự xúc chạm nhẹ nhàng. Hình ảnh tâm linh này xuất hiện như thế nào tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Dầu tướng đó hiện ra như thế nào, hãy trụ vào đó. Hãy sử dụng cùng một tướng mỗi khi bạn thiền quán. Đừng chia sẻ với ai về tướng đó. Tướng của mỗi người đều khác, và ta có thể khiến người khác hoang mang. Lúc bắt đầu hành thiền, hơi thở vào, hơi thở ra của bạn là đối tượng thiền quán. Giờ bạn sử dụng tướng kia như là đối tượng thiền quán. Đức Phật đã khuyến khích đệ tử của Ngài "thực hành, phát triển, và sửa đổi,” tướng. (A IV (9) IV.4) Thực hành để đạt được định tướng nhiều lần, cho đến khi bạn hoàn toàn có thể kiểm soát nó, để bất cứ khi nào bạn muốn chứng nghiệm nó, thì tướng đó sẽ xuất hiện và bạn có thể hòa hợp tâm bạn vào đó.
Khi định tướng lần đầu tiên xuất hiện trong lúc ta đang hành thiền, thì nó có vẻ tĩnh tại. Do đó định có thể phát sinh dựa trên đó. Nhưng khi đặt tất cả sự chú tâm vào tướng đó, ta bắt đầu thấy rằng tướng đó tự nó thay đổi từng phút giây. Dần dần, giống như tất cả mọi hiện tượng tùy duyên khác, tướng tự nó sẽ hoại diệt. Khi tướng cũng biến mất, tâm không còn đối tượng nào khác ngoài chính nó để trụ vào, vì thế tâm trú định trong chính nó. Vào giây phút đó, “tầm” xuất hiện một cách ngắn ngủi. Đó là sự bắt đầu của sự nhất tâm thiện.
Khi tầm được duy trì khoảng vài giây, "tứ" có thể phát khởi. Giờ thì tâm trụ vững chãi vào đối tượng. Vì tâm không còn lang thang đây đó, một trạng thái hỷ vi tế hơn xuất hiện, và tiếp ngay sau đó bởi một trạng thái lạc vi tế hơn. Bốn thiền chi này khởi động thiền định. Giờ năm thiền chi của sơ thiền -tầm, tứ, hỷ, lạc, và định- cùng vận hành với nhau như một.
Người ta thường hỏi tôi, "Làm sao tôi biết là tôi đã đạt được sơ thiền?” Câu trả lời rất đơn giản: như chúng ta đã nói trước đó, chỉ khi nào tất cả năm thiền chi cùng vận hành nhịp nhàng với nhau thì lúc đó ta mới có thể nói rằng ta đã chứng được tầng thiền thứ nhất hay Jhana. Hãy tưởng tượng rằng bạn đang tìm kiếm một cầu vòng. Trước khi tìm được cầu vòng, bạn có thể thấy màu đỏ ở đây, màu xanh đằng kia, hay một màu hỗn hợp. Chúng có thể là những gam màu đẹp tuyệt vời. Nhưng đó không phải là hiện tượng của một cầu vòng. Chỉ đến khi đúng lúc ánh sáng mặt trời phản chiếu vào mây, tạo nên một vòng cung xuất hiện với tất cả các màu sắc xếp đặt theo một cách mà chúng phải là, thì bạn mới có một cầu vòng. Tương tự, chỉ đến khi ta có đủ duyên, và tất cả năm thiền chi đều xuất hiện, nếu không ta chưa chứng được thiền.
Một số người có ý nghĩ rằng tâm định phải trống rỗng. Họ tưởng tượng tâm của thiền giả phải không có cảm giác -giống như một hòn đá. Không có gì sai sự thật hơn thế. Tâm chứng thiền không ngưng động mà sôi động. Trong sơ thiền, tâm có được đặc tính mãnh liệt sau đây:
- Xả, một cảm giác cân bằng, không khó chịu mà cũng không dễ chịu.
- Thanh tịnh, không quan tâm với bất cứ điều gì trên thế giới, như là chính trị hay tình yêu.
- Nhất tâm.
- Các trạng thái tâm của xúc, thọ, tưởng, hành và thức.
- Tinh tấn, quyết định, năng lực và chú tâm.
Tâm định trú trong chính nó tạo ra một nội lực mạnh mẽ. Giống như một hồ nước xoáy, tạo ra một cột nước mạnh hơn bao giờ hết bằng cách vận hành trên chính nó. Nội lực mạnh mẽ này được gọi là "định lực”. Hãy nghĩ đến, thí dụ, nguồn năng lượng của thủy điện. Khi một lượng lớn nước chảy qua một lỗ thoát nhỏ, lực nước bị dồn nén rất mãnh liệt đến nỗi nó có thể làm chuyển động trục quay để tạo ra đủ năng lượng thắp sáng một thành phố. Đó là do dòng nước đó không chảy lan tõa đến các đối tượng bên ngoài, thì năng lượng của nó được tích tụ bên trong. Tương tự, khi tâm không bị chi phối bởi một đối tượng ở bên ngoài hay bên trong, tâm sẽ thâu tụ năng lực vào chính nó. Sau đó tâm cũng giống như nước bị đẩy ra một lỗ thoát nhỏ. Lực định của tâm lớn đến nỗi nó có thể quán sát trực tiếp tính vô thường ở mức độ cơ bản nhất, chi tiết nhất, vi tế nhất, của thân và tâm. Tâm chứng thiền là một trạng thái thiện của sự nhất tâm như thế.
Tâm định mãnh liệt này không giống như khi tâm bị "dính" vào đối tượng thiền quán. Đó sẽ là bám víu, sẽ khiến tâm dao động. Tâm định đó không phải là tâm hòa hợp với đối tượng; đó là tâm hòa hợp với chính nó. Đối tượng chỉ được dùng như là một đòn bẩy để vào tâm. Nếu tâm chấp vào một đối tượng, đó không phải là thiện; đó là tâm định với sự bám víu. Tiếc thay, đó là loại thiền mà một số thiền giả thực hành, nhưng nó không thể mang đến sự giải thoát.
Lần đầu tiên khi bạn chứng được sơ thiền, bạn sẽ tràn đầy niềm hỷ lạc đến nỗi các trạng thái tích cực này có vẻ như là một bộ phận không thể tách rời của thân. Giống như muối hòa tan hoàn toàn vào nước đến nỗi ta không còn có thể phân biệt muối và nước. Tương tự, khi toàn thân ta tràn đầy hỷ lạc, ta không thể tách biệt các cảm giác này và cảm giác nơi thân. Cảm giác an tĩnh thật tuyệt vời đến nỗi bạn muốn ở trong trạng thái định này mãi mãi!
Tầng Thiền Thứ Hai
Sau khi đạt được tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền), tôi khuyên bạn không nên cố gắng đạt được tầng thiền định thứ hai (nhị thiền) ngay lập tức. Đó là một việc làm khá dại dột, là một tham vọng tâm linh vô ích. Trước khi đạt được nhị thiền, bạn phải hoàn thiện sơ thiền. Nếu quá nôn nóng thì chắc rằng bạn sẽ không đạt được nhị thiền mà còn có thể đánh mất khả năng chứng sơ thiền trở lại.
Đức Phật đã so sánh một thiền giả quá nôn nóng như thế với một con bò khi vẫn còn chưa quen thuộc với cánh đồng cỏ này, đã đi sang các cánh đồng khác. Vì thế, con bò dại khờ này bị lạc trong các hang núi, không có đồ ăn, nước uống và không thể tìm đường trở về nhà. Đây không phải là lúc đi tìm niềm hưng phấn mới. Đây là lúc phải kiên nhẫn rèn luyện tâm.
Do đó, khi bạn chứng được tầng thiền thứ nhất, bạn cần nhớ lại mình đã làm gì để đến được đó. Đây là nơi bạn cần đến tâm chánh niệm của mình. Chánh niệm giúp bạn nhớ lại những bước bạn đã thực hành. Nếu tâm định ấy xảy ra cho bạn một cách bất ngờ, bạn không nhớ mình đã tu tập, thực hành như thế nào, thì đó thực sự không phải là thiền chứng. Có thể một vị thầy nào đó cho là bạn đã chứng được một trong các tầng thiền. Hãy tự mình thử nghiệm lại điều này. Đừng dễ dãi nghe theo những ý kiến mà người khác có thể tự do tuyên bố.
Sau khi đã quán xét lại các bước tu tập, sau đó bạn quyết định với tâm chánh niệm chứng sơ thiền lần nữa, quyết định duy trì trạng thái tâm định này lâu hơn, và quyết định khi nào trạng thái này sẽ chấm dứt. Sau khi đã lập ra ba quyết định này, bạn sẽ thực hành theo các bước cần thiết để chứng được sơ thiền nhiều lần.
Khi lặp đi lặp lại quá trình này nhiều lần, ta sẽ không còn quan tâm đến tầm và tứ nữa. Sự thay đổi này có thể xảy ra trong một hay nhiều thời khóa thiền. Thí dụ, bạn đã chứng được sơ thiền năm chục lần, mà mỗi lần chứng thiền bạn lại thấy bớt quan tâm đến tầm và tứ. Rồi, trong lần chứng thiền thứ năm mươi mốt, bạn hoàn toàn bỏ qua hai yếu tố này, không chú tâm gì đến chúng vì bạn đã hoàn toàn đánh mất sự hứng thú đối với chúng. Ngay giây phút điều này xảy ra, hai chi thiền đó biến mất, có nghĩa là bạn đã chứng tầng thiền thứ hai (nhị thiền).
Trong nhị thiền, không còn có những suy nghĩ khiến tâm bị quấy nhiễu và cản trở sự nhất tâm. Các thiền chi còn lại là nhất tâm, hỷ và lạc mạnh mẽ hơn. Hỷ và lạc trong nhị thiền ít hào nhoáng và nhiều vi tế hơn, vì nó không còn dựa vào việc tâm cảm thấy tự tại vì đã loại trừ được các chướng ngại. Giờ hỷ và lạc được dựa trên định. Một cảm giác tự tin mới mẻ cũng có mặt do thành quả mà bạn đã đạt được cho tới giây phút ấy -tự tin vào khả năng có thể tiến bộ của mình, tự tin vào phương pháp, và tự tin vào giáo lý của Đức Phật. Định cũng được tăng thêm sức mạnh.
Hãy tưởng tượng một hồ nước mát mẻ do nước từ một mạch suối ngầm trong lòng đất trào lên. Dòng nước trong lành từ mạch suối hòa lẫn với dòng nước mát lạnh của hồ, làm nước hồ luôn sạch mà không bị xáo trộn. Tương tự, trong nhị thiền, niềm hỷ lạc thanh cao do định mang tới tiếp tục dâng trào trong tâm. Tâm được tưới tẩm và thân hoàn toàn ngập tràn trong hỷ lạc.
Tầng Thiền Thứ Ba
Sử dụng cùng một quy trình như trên, hành giả tái lập tầng thiền định thứ hai nhiều lần. Lần đầu tiên khi đạt được nhị thiền, niềm hoan hỷ mà ta cảm nhận được thật tuyệt vời và mới mẻ. Tuy nhiên sự lặp đi lặp lại khiến niềm vui trở thành đơn điệu. Dần dần, ta bắt đầu lơ là với nó. Vì thế chi thiền hỷ cũng dần qua đi. Ngay giây phút hỷ rời khỏi tâm ta, ta chứng tam thiền.
Xả và định trở nên mạnh mẽ hơn. Điều này khiến tâm chánh niệm của ta trở nên vững chãi, mạnh mẽ hơn. Tâm ta tràn ngập lạc ở một mức độ sâu xa và vi tế hơn. Thí dụ hãy nghĩ đến một hồ đầy hoa lục bình nở trong nước. Những bông hoa này sinh ra trong nước, sống dưới nước và được nuôi dưỡng bởi độ sâu của nước. Chúng hoàn toàn thấm đẫm nước, bên trong cũng như bên ngoài, mọi tế bào của chúng chứa đầy nước. Tương tự, ở tầng thiền thứ ba, thân ta hoàn toàn thấm đẫm và tràn ngập lạc. Trong nhị thiền, phần nào có sự hoạt động, sự phấn khích, giống như sự di chuyển của dòng nước suối tươi mát đổ vào hồ. Nhưng ở tầng thứ ba này, ta không cảm thấy có nhu cầu phải được tưới tẩm bởi lạc đến từ bên ngoài. Tâm lạc vi tế có đặc tính của tĩnh lặng vì lạc đã hoàn toàn tràn ngập thân tâm.
Tầng Thiền Thứ Tư
Giống như các lần trước, hành giả lập lại tầng thiền định thứ ba nhiều lần, cho đến khi hành giả cũng không còn quan tâm đến lạc nữa. Khi lạc đã qua đi, tâm chánh niệm trở nên càng trong sáng hơn do sự có mặt của xả -cảm giác không khổ cũng không lạc của một sự cân bằng tình cảm hoàn hảo. Hành giả sẽ nhận thấy rằng chánh niệm và xả còn thanh tịnh hơn là lạc. Và khi đã hoàn toàn buông bỏ lạc, hành giả bước vào tầng thiền định thứ tư (tứ thiền), nơi chánh niệm được thanh lọc bởi năng lực của xả. Ta nhớ lại rằng trong tam thiền cũng có mặt của xả, nhưng vì ta chưa buông bỏ được lạc, nên xả chưa đủ mạnh để thanh lọc chánh niệm.
Ở tầng thiền định thứ tư (tứ thiền), tâm hoàn toàn lắng đọng, an định và vững chãi. Vì tất cả các trạng thái tâm tiêu cực đã được chế ngự, tâm không còn bị lay động. Tâm trong sáng, rõ ràng bao phủ toàn thân ta như một tấm vải trắng, sạch, mềm mại quấn quanh thân. Tấm vải sạch ấy mềm mại đến độ ta gần như không cảm nhận được nó; nhưng nó che chở ta khỏi nóng, lạnh, gió, côn trùng. Tương tự khi tâm trong sạch, rõ ràng, thì không có gì có thể khiến nó trở nên bám víu hay sân hận. Tâm duy trì được trạng thái xả ly. Ngay nếu như thân có bị côn trùng cắn rứt, bị nóng, hay bị lạnh, tâm vần không bị ảnh hưởng. Ngay cả khi có ai đó kéo áo ta, bắt chuyện, tâm vẫn không quan tâm đến sự phá rối này, vẫn giữ được định và không lay động.
Vào thời điểm này, hành giả đã biết được sức mạnh thực sự của định. Tâm đã được củng cố, trở nên trong sạch, rỡ ràng, thoát khỏi chướng ngại và vững chãi. Tâm nhu nhuyến nhưng bình tĩnh, mạnh mẽ và sắc bén trong nhiệm vụ quan trọng nhất của nó. Khi hành giả chú tâm định đó vào một đối tượng, hành giả sẽ nhín thấy nó như nó thực là. Nói một cách khác, tâm an định viên mãn đó có thể nhìn xuyên suốt vào bản chất thực sự của thực tại.
Bốn tầng thiền định quá tuyệt vời đến nỗi ta có thể muốn đắm chìm trong đó để tận hưởng an lạc, mà không màng đến việc hướng tâm đến tuệ giác. Tuy nhiên, nếu hành giả chỉ lo ‘an lạc’ mà không phát triển các phương cách để sử dụng tâm định, thì hành giả đã hạn chế sức mạnh của định. Tâm định của hành giả vẫn là thiện, và không có gì sai trái với điều đó. Nhưng nếu hành giả không sử dụng tốt tâm định của mình thì cũng giống như được tặng một con ngựa đua nhanh nhất thế giới đã được huấn luyện chu toàn, mà chỉ dùng nó để đi dạo quanh khu phố. Tâm thiền chứng cũng là một công cụ quá quý giá, không nên uổng phí. Nếu trong định, hành giả sử dụng chánh niệm để quán sát thực tại, định lực ấy có thể giúp hành giả đạt được giải thoát.
CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH ĐỊNH
Có ba thái
độ tốt nhất khi hành thiền. Đầu tiên là bắt đầu thời thiền bằng nỗ lực để chứng thiền. Một khi đã đạt được điều đó, hành giả sử dụng định để hành minh sát. Đó là hành giả sử dụng định để quán sát về tính vô thường, khổ và vô ngã (tam tướng) của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Phương cách thứ hai là bắt đầu thời khóa thiền với minh sát quán. Khi hành giả hành thiền minh sát thì bất cứ khi nào một đối tượng phát khởi, hành giả sẽ quán sát cho đến khi nó qua đi, quán sát tính vô thường, khổ và vô ngã của nó. Sau đó hành giả thư giãn rồi trở về với đối tượng thiền quán ban đầu, như là hơi thở. Mỗi lần trở về với hơi thở, thì tâm lắng sâu hơn. Nếu chướng ngại có sinh khởi, hành giả chế ngự nó, điều đó cũng giúp tâm lắng sâu. Khi tâm loạn động dần yên tĩnh, hành giả sẽ không còn quan tâm đến những đối tượng mà trước đây vẫn lôi kéo tâm chạy theo chúng. Các đối tượng này nhẹ nhàng qua đi trong tâm thức. Dần dần tướng định xuất hiện, theo sau bởi tầm và tứ, rồi cuối cùng định xuất hiện theo như đã diễn tả ở trên. Trong trạng thái định đó, hành giả tiếp tục minh sát, quán sát tính vô thường, khổ và vô ngã của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Phương cách thứ ba là bắt đầu hoặc bằng thiền minh sát hoặc nỗ lực đạt định, và chuyển qua, chuyển lại giữa hai cách này. Thí dụ, ta bắt đầu bằng cách chú tâm vào hơi thở, không quan tâm đến các đối tượng khác trong nỗ lực đạt định. Nếu không thành công, tâm trở nên bực bội, và ta sử dụng thiền minh sát để quán sát những chuyển đổi trong cảm xúc bực bội. Khi cảm giác này qua đi, ta xét xem có chướng ngại nào khác xuất hiện. Khi tâm đã vừng chãi, ta trở về quán sát hơi thở sâu lắng hơn, không quan tâm đến các đối tượng nếu chúng phát khởi, và lại nỗ lực để đạt định. Do đó trong phương cách thứ ba này, sự chú tâm và chánh niệm kết hợp nhuần nhuyễn với nhau để dần mang đến định sâu lắng và khiến tuệ giác thêm sắc bén. Rồi có một ngày, khi tuệ giác hầu như đã hoàn thiện khả năng thấy biết, và định gần như đã viên mãn, cả hai sẽ hòa nhập.
Do đó dầu bạn hành thiền bằng phương cách nào, niệm và định, được sử dụng một cách thiện xảo, rồi cũng hòa hợp, vận hành cùng nhau. Nếu khi ngồi xuống chiếu thiền, bạn thấy rằng các chướng ngại có thể dễ dàng được điều phục và tâm không tán loạn, thì bắt đầu bằng thiền chỉ tốt hơn. Trái lại, nếu tâm loạn động, không thể bắt nó yên ngay lúc đầu, thì bạn không nên cố gắng phát triển định mà nên bắt đầu bằng thiền minh sát. Hay chuyển đổi hai phương cách này qua lại. Bắt đầu bằng phương cách nào tùy thuộc vào trạng thái tâm của bạn lúc đó.
Dầu bạn bắt đầu bằng phương cách nào, một khi niệm và định đã kết hợp với nhau, bạn cần sử dụng chúng để diệt trừ ba kiết sử đầu tiên. Đã biết được mọi vật đều không có tự ngã, bạn không còn tin vào một cái ngã thường hằng, bất biến. Bạn sẽ thấy giới cấm thủ thật vô nghĩa lý. Nhận chân được Tứ Diệu Đế rõ ràng hơn bao giờ hết và không còn nghi ngờ gì vế con đường đến giác ngộ của Đức Phật.
Hãy sử dụng tâm định giống như tia laser để đốt cháy một vật cứng. Để nhắm tia laser chính xác, bạn phải dùng đến mắt nhìn. Nếu chỉ lo nhìn quanh quất, bạn không thể nhắm chính xác, cuối cùng thì vật không cần đốt bị đốt, hoặc là không có gì bị đốt cả. Và dĩ nhiên là nếu bạn không bật nút laser lên, thì dầu bạn có ngồi cả ngày cũng không đốt được vật gì!
Trong ẩn dụ này, đôi mắt giống như tuệ giác. Tia laser là tâm định. Tuệ và định vận hành cùng nhau. Không có tuệ, thì tia sáng của định cũng sẽ vương vải, hoặc nhắm sai đối tượng. Không có tia sáng của định, thì con mắt tuệ dầu có nhìn thấy đối tượng cũng không thể đốt cháy nó được. Chúng ta muốn đốt cái gì? Uế nhiễm. Tâm bất thiện. Chúng ta cần phải nhìn thấy chúng bằng con mắt tuệ và hủy diệt chúng bằng tâm định.
Như thế, một khi bạn đã đạt được chánh định, bạn sẽ nhắm vào đối tượng nào? Bạn nhắm nhất tâm thiện vào sự biến đổi không dừng của các thành phần cấu tạo nên thân và tâm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bạn chú tâm đến tính vô thường, khổ và vô ngã của các thành phần này. Khi bạn chú tâm đến một trong các thành phần này, bạn nhận ra rằng tất cả đều biến đổi. Bạn thấy được sự liên hệ giữa vô thường và khổ do sự bám víu của bạn vào các dục lạc chóng qua.
Nhận ra được tính vô thường, khổ và vô ngã của sắc, thọ, tưởng, hành và thức là nhiệm vụ chính yếu của thiền minh sát. Khi nhiệm vụ đó hoàn thành, bạn sẽ được giải thoát khỏi việc bám víu vào các uẩn hợp thành thân và tâm. Không còn gì để bám víu vào, bạn được giải thoát.
Khi các thiền giả vun trồng đủ định và niệm. Họ có thể lần trở lại trong tâm những hình ảnh của các sự kiện, thời gian, suy nghĩ, và hành động trong quá khứ cho đến khi họ nhận ra được sự kết nối giữa dòng chảy không dừng dứt trong hiện tại và các sự kiện, suy nghĩ, và hành động trong quá khứ. Sợi dây nối kết này là tham ái và vô minh. Họ tự nhận ra sự liên hệ giữa vô thường, lòng tham ái đối với vật chất vô thường, và khổ. Tuệ giác thậm sâu của vị thiền giả cũng nhận biết được tất cả mọi tiêu cực trong mọi khía cạnh và chúng phát sinh thế nào và tại sao. Tuệ giác nhận thức được rằng tất cả mọi tiêu cực đều đến từ sự bám víu; và sự bám víu này có thể chấm dứt, bằng cách chấm dứt chính tâm tham của mình.
Qua tuệ kiến này, thiền giả hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp nơi bản thân rằng mọi thứ đều vô thường, rằng bám víu vào bất cứ thứ gì vô thường đều mang đến khổ, và rằng tất cả vạn pháp hiện hữu đều không có một bản thể thường hằng. Hiểu được như thế là chúng ta thấy được cánh cửa đi vào giác ngộ.
Ứng Dụng Tâm Định
Vào
đêm giác ngộ, Đức Phật phát triển thiền định mạnh mẽ không phải để rồi thôi mà Ngài mang nó ra ứng dụng. Trong một sát na mãnh liệt, đầy uy lực, ba chứng ngộ về vô thường, khổ, và vô ngã, tất cả đã cùng bùng vỡ và Đức Phật đã đạt được mục đích của mình.
Mang sự chứng thiền ra để sử dụng là chìa khóa. Alarakarama và Uddaka Ramaputta, hai vị thầy trước kia của thái tử Sidhattha Gotama (Đức Phật trước khi Ngài giác ngộ), đã đạt được định. Tuy nhiên họ đã không tự rèn luyện để hướng sự chú tâm của họ vào sắc, thọ, tưởng, hành, và thức để có thể nhìn thấy được bản chất thực sự của chúng. Thay vào đó họ trở nên bám víu vào sự an lạc của định và nghĩ rằng cảm giác an lạc đó là giác ngộ.
Thái tử Siddhattha Gotama bảo rằng các vị thầy trước đó của Ngài, giống như Ngài, cũng có lòng tin, tinh tấn, chánh niệm, định, và tuệ. Giống như Ngài, tuệ giác đã giúp họ hiểu được sự nguy hiểm của các chướng ngại, và sự cần thiết phải chế ngự chúng. Nhưng không giống như thái tử Siddhattha Gotama, các vị thầy này không biết rằng họ chỉ sử dụng tâm định để đè nén chướng ngại, không phải để hủy diệt chúng. Họ không khám phá ra các kiết sử tiềm ẩn -nguồn lực trói buộc chúng sanh vào vòng sinh tử không dừng dứt. Chỉ riêng thái tử Siddhattha Gotama đã sử dụng thiền định của mình để thấy rõ ràng rằng các chướng ngại và kiết sử trói buộc chúng ta như thế nào.
Đức Phật đã đạt được sự hiểu biết gì? Như chúng ta đã biết, năm chướng ngại – tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, và nghi- cản trở thiền giả được chứng thiền. Do đó, lúc tu tập để phát triển định, thiền giả cố gắng gạt chúng qua một bên. Tuy nhiên các kiết sử, mà từ đó các chướng ngại nẩy sinh, tiếp tục hiện hữu trong tiềm thức của ta. Mười kiết sử là: tin rằng có một cái ngã hay linh hồn thường hằng (thân kiến), nghi, tin vào sự hữu hiệu của các nghi lễ (giới cấm thủ), tham, sân, ước muốn được tái sinh trong cõi sắc giới, ước muốn được tái sinh trong cõi vô sắc giới, ngã mạn, trạo hối và vô minh. Những huân tập bất thiện của tâm vẫn ngủ yên đó trong lúc ta tọa thiền. Vì các kiết sử tiềm ẩn này vẫn ngủ ngầm trong tâm thức, khi ta xả thiền, các chướng ngại trở lại. Lúc ta muốn chứng đạt trở lại một tầng thiền định, ta lại phải gạt các chướng ngại qua một bên, do đó dầu ta rèn luyện tâm, ta cũng gạt bỏ được các chướng ngại dễ dàng hơn.
Giống như khi chúng ta quét bụi trên mặt sàn bằng đất. Mặc dầu ta vừa quét xong, không lâu sau, bụi lại xuất hiện. Mặt sàn tiếp tục nứt, tường nứt, thế là ta lại có một đống bụi. Để thoát khỏi bụi ta có thể quét cả nhà, vẫy nước trên mặt sàn, hay đổ vài thùng nước để biến mặt đất thành bùn. Tuy nhiên, rồi bụi cũng sẽ trở lại. Nhưng nếu ta đào sâu xuống tận lớp đá, đổ bỏ tất cả cát bụi, rồi đổ cement vào đó thì bụi đất không còn là một vấn đề. Đào tất cả cát đất lên thì giống như thiền minh sát chế ngự các chướng ngại và kiết sử. Đổ cement tượng trưng cho việc bước vào giác ngộ -khiến cho tâm được cứng rắn, không thể lay chuyển bởi những cám dỗ thế gian. Một khi đã làm được điều đó, không có gì có thể lay chuyển tâm ta.
Các vị thầy của thái tử Siddhattha Gotama, Alarakarama và Uddaka Ramaputta, cũng có trí tuệ. Họ biết được sự nguy hiểm của dục lạc và ích lợi của thiền định, vì thế họ tạm thời xua đuổi được tất cả mọi chướng ngại và được chứng thiền. Tuy nhiên, các chứng ngộ này không đủ để giải thoát họ ra khỏi những kiết sử trói buộc họ với luân hồi sinh tử không dừng dứt. Chỉ thuần có định không thể hủy diệt các kiết sử. Để có thể hủy diệt chúng, ta phải kết hợp định, niệm và sự chú tâm. Nếu không, ta sẽ bám víu niềm hỷ lạc của định, giống như các vị thầy của thái tử Siddhattha Gotama, và không đi đến đâu cả.
Tuệ giác của Đức Phật rất đặc biệt. Với tuệ giác này Ngài không những thấy được sự nguy hiểm của dục lạc, ích lợi của thiền định, mà Ngài còn sử dụng tuệ giác này để vượt xa hơn thiền định. Ngài sử dụng trí tuệ của mình để khám phá rằng các chướng ngại mà Ngài đã chuyển hóa được trong trạng thái định chỉ là dấu hiệu của một vấn đề sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn: các kiết sử. Ngài thấy các kiết sử đã quấy nhiễu tâm như thế nào, tạo các ảo tưởng về thực tại, đưa đến cảm giác khổ về ngã. Với tâm chánh niệm thanh tịnh trong định, Ngài tìm ra được phương cách để chuyển hóa các kiết sử: nhìn thấy được tính vô thường, khổ, và vô ngã trong tất cả các pháp hữu vi. Khi chúng ta nhìn thấy được ba tính chất này ở mọi khía cạnh của hiện hữu, thì tham, sân, và si cùng với các kiết sử khác, sẽ mãi mãi không còn.
Đừng Tự Lừa Dối Mình!
Khi chúng ta cố gắng đem giáo lý của Đức Phật ra thực hành, chúng ta phải cẩn thận đừng tự lừa dối mình. Một số người bảo rằng khi họ vào sâu trong định, họ không cảm thấy gì, không nghe gì hay không có bất cứ suy nghĩ nào. Họ nói rằng họ chìm sâu trong định đến nỗi họ không còn nhớ tới thời gian đã qua. Ở các khóa tu thiền do chúng tôi tổ chức, tôi đã được gặp các vị ấy lắc lư giống như những thân cây mong manh trước gió. Sự bất thình lình rơi vào trạng thái vô thức không được gọi là định. Nó được gọi là ngủ! Một số vị còn ngáy nữa. Ngay khi chúng tôi đánh chuông để chấm dứt thời khóa thiền, thì các vị thiền giả này ra khỏi "định sâu xa” của họ và nói, "Tôi đã có một buổi tọa thiền tuyệt vời. Hôm nay tôi đã có thể đạt được tầng thiền thứ tư.”
Đừng tự lừa dối mình! Đó chỉ là một ảo tưởng. Nếu thiền giả thực sự đạt được bất cứ tầng thiền định nào, thì hôn trầm buồn ngủ biến mất, tâm sẽ có tất cả những tính chất tích cực như đã được nhắc tới ở trên. Thiền định chỉ có thể đạt được với chủ tâm. Ta sẽ thấy biết rõ ràng các bước mà ta đã trải qua để đạt được thiền chứng. Do đó ta có thể lặp lại các bước đó sau này khi ta muốn. Thiền định xuất hiện qua nhiều giai đoạn, và chỉ khi tâm định đó kết hợp với chánh niệm mới có thể giúp ta tiến trên con đường đến giác ngộ.
Ngoài ra, cũng đừng tự dối gạt mình với suy nghĩ rằng định cũng giống như là giác ngộ. Sự giác ngộ không quá dễ dàng và nhanh chóng như thế. Hành giả phải trải qua các quá trình chế ngự các chướng ngại, phải đạt được định và kết hợp tâm định tĩnh đó với tuệ để hủy diệt các chướng ngại và kiết sử. Không cần biết bạn đã ngồi thiền bao lâu – ngay cả khi bạn ở trong tầng thiền cao cả nhất– mà không hủy diệt được các kiết sử thì bạn cũng không thể đạt được giác ngộ, dù chỉ là giai đoạn đầu của giác ngộ.
Cuối cùng, đừng tự lừa dối mình với suy nghĩ rằng chỉ có tâm chánh niệm thôi cũng đủ để đưa ta đến giác ngộ. Chúng ta không thể nói, "Ta không quan tâm đến định hay giới. Tôi chỉ cần thực hành chánh niệm." Không thể tách chánh niệm ra khỏi các bước khác trên đạo lộ. Những người không thực hành các bước khác trong Bát Chánh Đạo thường nhận ra là họ không thể tận diệt được tham, sân, si, do đó không thành công trong sự thực hành chánh niệm của họ.
Hãy Kiên Nhẫn
Những người cố gắng đạt được an chỉ định để giúp họ thực hành thiền minh sát đôi khi lo lắng rằng họ không thể làm được điều đó. Đừng nản chí! Đôi khi phải mất hàng năm mới có thể đạt được định. Nếu hành thiền với sự dẫn dắt của chánh niệm, thì hành giả sẽ cảm thấy tự tại dầu hành giả có chứng thiền hay không. Đừng cố gắng để cố tạo ra định. Mỗi khi ta hành thiền, là ta tiến gần đến định hơn. Phải mất bao lâu tùy theo ta có hành thiền thường xuyên không và ta thực hành các ngành khác của Bát Chánh Đạo như thế nào.
Có ngày bạn chú tâm tốt, và có ngày thì chánh niệm tốt hơn. Nếu bạn đã từng đạt được định trong quá khứ nhưng không hành thiền mỗi ngày và không thực sự làm chủ được tâm định đó, thì khi cố gắng chứng thiền trở lại, bạn có thể gặp khó khăn. Tệ hơn nữa, nếu bạn để các chướng ngại tưởng đã ngủ yên, hoạt động trở lại, hoặc bạn đã làm điều bất thiện, thì việc đó gần như bất khả thi. Vào những ngày khi việc chú tâm hành thiền có khó khăn, bạn chỉ cần chánh niệm đến tâm đang hoạt động của mình chứ đừng tỏ ra quá lo lắng hay nói lên rằng bạn không thể hành thiền. Sự quán sát một cách đầy chánh niệm những gì đang xảy ra làm tăng thêm sự sắc bén của minh trí sâu sắc của bạn đối với thực tại mà bạn đang trải nghiệm. Khi nào bạn còn tiếp tục thực hành tất cả các bước trên đạo lộ (Bát Chánh Đạo) và tiếp tục cố gắng -mà không cố chấp- để đạt được định, thì bạn có thể tin rằng Chánh định sẽ dần xuất hiện, và bằng cách sử dụng công cụ đa năng này, bạn sẽ đạt được hạnh phúc tuyệt đối.
TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH ĐỊNH
- Những
điểm chánh yếu để đạt được hạnh phúc qua Chánh Định là:
- Chánh định có ba đặc tính: thiện, nhất tâm, và nó vận hành với chánh niệm.
- Đức Phật đã truyền dạy cho chúng ta một phương pháp tu tập dần dần, từng bước, để đạt được chánh định.
- Thiện định là loại định giải thoát ta khỏi tham, sân, si. Không còn có năm chướng ngại.
- Để phát triển được chánh định, trước hết phải thực hành thiện định bằng cách chế ngự các chướng ngại. Chú tâm vào hơi thở hay các đối tượng thiền quán đã chọn khác và không để tâm đến các đối tượng vừa mới phát sinh.
- Sau khi bạn đã thực hành thiện định một thời gian, hơi thở của bạn trở nên rất vi tế, gần như là biến mất. Sự ghi nhớ về hơi thở ở nơi ta đặt chú tâm, như là ở chóp mũi, sẽ được chuyển sang một cảm giác dễ chịu gọi là "định tướng” (sign of concentration).
- "Nhất tâm" ám chỉ tâm trụ vào chính nó sau khi định tướng đã biến mất. Nhất tâm là một yếu tố của thiền định hay jhana.
- Tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền) được đánh dấu bằng tầm, tứ, hỷ, lạc, và định vận hành với nhau.
- Ít nhất phải đạt được sơ thiền thì mới đạt được giác ngộ.
- Một khi bạn đã biết cách để đạt được sơ thiền, hãy quyết tâm để đạt được thiền chứng này lần nữa, quyết định xem bạn sẽ ở trong tầng thiền này trong bao lâu, và khi nào bạn muốn xuất định.
- Thực hành đạt được sơ thiền nhiều lần cho đến khi bạn hoàn toàn làm chủ nó.
- Nhị thiền (tầng thiền định thứ hai) phát khởi khi bạn đã đạt được sơ thiền quá nhiều lần đến nỗi bạn không còn quan tâm đến tầm và tứ nữa, khiến cho các chi thiền này biến mất.
- Tam thiền (tầng thiền định thứ ba) xuất hiện khi sự lặp lại thường xuyên của nhị thiền khiến tâm không còn quan tâm đến hỷ. Khi hỷ qua đi, lạc trở nên vi tế, lắng đọng và xả niệm trở nên rõ ràng hơn.
- Tứ thiền (tầng thiền thứ tư) phát khởi khi bạn không còn quan tâm đến lạc và tâm niệm của bạn trở nên thanh tịnh bằng sự buông xả sâu lắng.
- Trong trạng thái định, tâm đầy ấp các tính chất thiện, mạnh mẽ, quyết liệt, không trơ ra như đá hay giống như ai đó đang ngủ.
- Thiền định tạo ra chất lượng và sức mạnh cần thiết để thực hành thiền minh sát.
- Không cần biết bạn đã ở trong tầng định mạnh mẽ nhất trong bao lâu, nhưng nếu chỉ có thế, sẽ không mang đến giác ngộ cho bạn. Để đạt được giác ngộ, bạn phải hủy diệt được các kiết sử.
- Bạn có thể bắt đầu một thời khóa tọa thiền bằng phương pháp thiền chỉ, vun trồng an chỉ định hay bằng sự thực hành chánh niệm, tùy thuộc vào sự ổn định của tâm bạn ngày đó. Hay bạn có thể chuyển qua chuyển lại giữa hai phương pháp này.
- Không cần biết bạn đã bắt đầu một thời khóa thiền như thế nào, định và niệm phải đi với nhau để tạo thành một trí tuệ viên mãn.
- Bạn cần có một tri giác sắc bén để nhận ra được tính vô thường, khổ và vô ngã của tất cả mọi hiện hữu. Tuệ giác cho phép ta thấy được vai trò của tham trong việc mang đến khổ, để ta có thể buông bỏ nó.
- Chỉ có định hay chỉ có niệm không thể đưa ta đến giác ngộ. Giác ngộ chỉ có thể xảy ra khi định kết hợp với niệm để hủy diệt các kiết sử qua tuệ giác.
- Có thể chỉ cần vài ngày hay rất nhiều năm mới đạt được thiền định. Đừng nản chí nếu nó chậm đến và cũng đừng cố gắng để áp đặt nó.

-ooOoo-

Lời Kết
Lời Hứa Khả Của Đức Phật
Sự phân chia con
đường đạo của Đức Phật ra tám bước không có nghĩa là ta phải bước từng bậc. Không cần phải làm chủ được bước này trước khi tiến đến bước khác. Đạo lộ đó giống như một vòng xoắn ốc. Khi đã bắt đầu bước trên đường, là bạn đã có một số hiểu biết về tất cả tám bước. Khi bạn tiếp tục thực hành, các bước này ngày càng trở nên rõ ràng hơn trong tâm bạn, và bạn có thể tiến lên giai đoạn kế tiếp. Tuy nhiên, có một số phương cách có thể giúp ta nghĩ về đạo lộ đó như là một tổng thể. Rõ ràng là tham, sân, và si, là ba pháp bất thiện độc hại nhất và là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau. Đối nghịch với chúng là ba ngành quan trọng nhất của đạo lộ: Chánh Kiến về giáo lý của Đức Phật; Chánh Tinh Tấn để chế ngự tham, sân, si; và sự thực hành Chánh Niệm như là phương tiện để chế ngự các pháp bất thiện này. Ba ngành này – Chánh Kiến, Chánh tinh tấn và Chánh niệm- hỗ trợ lẫn nhau, vận hành cùng nhau để giúp ta tiến bước trên đạo lộ.
Muốn thấu hiểu được giáo lý của Đức Phật, hành giả cần có nhiều nỗ lực. Chắc chắn sẽ dễ dàng hơn nếu ta không phải cố gắng, không cần thay đổi, cứ sống dễ dãi và tiếp tục suy nghĩ, hành động theo như các thói quen mà ta đã huân tập. Tuy nhiên Đức Phật đã dạy rằng một khi chúng sanh không nhận biết chân lý, họ sẽ nghĩ rằng họ không có vấn đề gì hoặc vấn đề của họ không thể giải quyết được.
Tuy nhiên, nếu bạn có nỗ lực, bạn sẽ hiểu nhiều hơn. Chánh niệm có thể hỗ trợ bạn. Thật ra, nếu không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ hiểu gì hết! Bạn có thể nỗ lực; bạn có thể tranh đấu; nhưng nếu không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ tiến bộ trong sự hiểu biết của mình. Với chánh niệm, bạn có thể nhận biết chân lý về khổ, nguồn gốc của nó, sự tận diệt của nó và con đường dẫn đến sự tận diệt đó. Hơn thế nữa khi thực hành chánh niệm, bạn sẽ nỗ lực để giải thoát tâm khỏi tham, sân, và si. Do đó thực hành chánh niệm đòi hỏi phải có nỗ lực, và sự kết hợp của chánh niệm và nỗ lực giải thoát tâm khỏi tà kiến.
Các chi ngành khác trong Bát Chánh Đạo cũng dựa trên ba yếu tố này. Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh định chỉ có thể được vun trồng với sự hỗ trợ của chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm. Không có chánh kiến, bạn sẽ không thể hiểu tại sao việc tu tập để chuyển hóa cuộc đời bạn là quan trọng. Không có chánh tinh tấn, bạn sẽ không thể nào tiến đến mục đích chuyển đổi tích cực. Và chánh niệm là công cụ hoàn hảo bậc nhất của ý thức và chú tâm để giúp bạn chế ngự tâm bất thiện, và phấn đấu đến giải thoát.
Một cái nhìn khác về cách mà tám bước của Bát Chánh Đạo vận hành với nhau như thế nào là chia chúng thành ba nhóm: giới, định, và tuệ. Mỗi nhóm thúc đẩy bạn tiến đến việc thực hành nhóm kế tiếp tới và tiến đến sự thông suốt hơn về Bát Chánh Đạo như là một tổng thể. Làm thế nào để được như thế?
Nhóm đầu tiên bắt đầu với một số hiểu biết nào đó. Thí dụ, ta hiểu rằng tham khiến ta thất vọng như thế nào, vì thế ta bắt đầu thực tập xả. Ta cũng hiểu sân hận mang đến đau khổ cho ta và người khác như thế nào, vì thế ta quyết định thực hành thương yêu và bi mẫn. Ba tư duy này - xả, tình thương, và lòng bi mẫn- là chánh tư duy. Muốn vun trồng những tư duy tích cực này, ta phải có trí tuệ. Trí tuệ này phát xuất từ chánh kiến. Do đó, chánh kiến và chánh tư duy kết hợp với nhau như là một khía cạnh trí tuệ của Bát Chánh Đạo.
Nhóm thứ hai phát sinh từ nhóm thứ nhất. Khi quán sát cuộc đời mình với con mắt trí tuệ, ta sẽ thấy hạnh phúc và an bình biết bao khi ta biết suy nghĩ và hành động thiện. Trí tuệ cũng giúp ta hiểu rằng những đau khổ mà ta phải hứng chịu là do tham ái, bám víu mà ra, và rằng khi ta hủy diệt được những nguyên nhân này thì khổ sẽ chấm dứt. Sự hiểu biết này thúc đẩy ta sửa đổi hành động của mình. Vì ta thấy rằng nói dối, nói lời ác độc, nói lời thô tục và nói xấu đem lại đau khổ, ta tránh các loại ác ngữ và quyết định chỉ nói những lời lễ phép và đầy ý nghĩa. Vì ta thấy rằng đau đớn và thương tâm là do các hành động giết, trộm cắp, sử dụng các chất gây mê, và tà dâm, ta tránh những hành động tiêu cực này. Thay vào đó, ta tôn trọng sự sống của những chúng sinh khác và cố gắng để cứu họ; ta tôn trọng tài sản của người khác; ta tránh sử dụng những chất gây mê và không quan hệ tình dục bừa bãi. Vì ta hiểu có những khổ đau, tai họa gây ra do các phương tiện kiếm sống không lành mạnh, ta cố gắng kiếm sống một cách lương thiện để hỗ trợ cho sự tu tập tâm linh của mình. Những sự thay đổi bên ngoài do ảnh hưởng của chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng được nhóm lại với nhau như là một khía cạnh đạo đức (giới) của đạo lộ.
Nhóm thứ ba dựa trên sự hiểu biết rằng nếu chỉ có những sự thay đổi bên ngoài thôi, ta sẽ không thể chấm dứt được khổ. Ta cũng biết rằng hành động bắt đầu bằng ý nghĩ và những ý nghĩ bất thiện tự chúng sẽ đem đến cho ta rất nhiều khổ đau. Do đó ta cố gắng để rèn luyện, kỷ luật tâm. Khi bắt đầu quán sát tâm mình, ta thấy rằng dầu ta có ý hướng thiện, nhưng các bất thiện pháp như tham, sân, si, và nghi vẫn khởi lên trong tâm thức ta. Ta cũng nhìn thấy xa hơn nữa rằng phương cách duy nhất để chống lại các cạm bẫy của tâm là áp dụng sự tinh tấn miên mật và thành khẩn để tránh các thói quen suy nghĩ tiêu cực, để chế ngự chúng khi chúng phát khởi, và để gieo trồng, duy trì các thiện pháp. Hơn thế nữa, ta thấy rằng chánh niệm rất cần thiết cho sự chuyển hóa tích cực, ở ngoại tại cũng như nội tâm. Nếu không có định, ta khó phát triển được tâm chánh niệm, vì chính định giúp ta nhìn thấy sự việc như chúng thật sự là. Ba yếu tố này – chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định– kết hợp lại với nhau như là khía cạnh định Bát Chánh Đạo.
Vì thế, hết lần này tới lần khác, chúng ta luôn thực hành tám bước của con đường đạo này. Với mỗi lần thực hành, lòng tham, sân, và si của ta lại giảm bớt. Với mỗi lần thực hành, sự hiểu biết của ta về sự thật của khổ, nguyên do của khổ và cách để tận diệt khổ sẽ thâm sâu hơn. Không cần biết lúc bắt đầu, trình độ hiểu biết của bạn ra sao, kết quả của con đường đạo vẫn không khác -chấm dứt khổ đau, và cuối cùng, là mức độ cao nhất của hạnh phúc và bình an.
GIÁC NGỘ
Nhiều người không tin có giác ngộ. Trên các diễn đàn trong Internet (chat room) thảo luận về Phật pháp, tôi nhận thấy có một số người dùng lời lẽ mạ lỵ - những lời thô tục, giận dữ - để nói về giác ngộ. Có thể họ đã hiểu sai về giác ngộ. Giác ngộ không gì hơn là sự đoạn diệt niềm đau cháy bỏng do tham, sân, si tạo nên. Giác Ngộ dập tắt đi một lần và mãi mãi ngọn lửa của sinh, già, bệnh, chết, buồn, khổ, đớn đau, và thất vọng.
Có thể người ta chế diễu sự giác ngộ vì sợ rằng khi họ dập tắt ngọn lửa đó, họ sẽ không còn gì để sống tiếp trong bóng tối lạnh lẽo của thất vọng. Có thể họ đã lẫn lộn ngọn lửa nội tâm đau đớn với ngọn lửa đã khơi dậy nền văn minh, hay với ngọn lửa của điện lực. Nhưng khi ngọn lửa khổ đau của ảo tưởng được dập tắt, những gì hiện ra sau đó không phải là không khí lạnh lẽo của một đêm đông đen tối. Đó không phải là một trạng thái u ám, thiếu sinh khí. Không như thế chút nào. Khi ngọn lửa của tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, đau đớn, khóc than, phiền não . . . đã được dập tắt, kết quả là sự an bình trọn vẹn, thanh tịnh trọn vẹn, và hạnh phúc không thể diễn tả, trong khi tâm và các giác quan, cùng lúc, một trăm phần trăm trong sáng, thanh cao, đầy sinh lực. Giác ngộ là ánh sáng của nội tâm, sự chiếu sáng, sự ấm áp của nội tâm.
Khi đã đặt xuống gánh nặng của tất cả mọi phiền não trong tâm – tham, sân, si– thân và tâm sẽ cảm thấy thật khỏe khoắn. Chúng ta không quen với cảm giác nhẹ nhàng này. Chúng ta đã quen có một cái đầu đông cứng, một trái tim trĩu nặng, một thân thể phục phịch. Viễn ảnh có được một trái tim thanh thoát như thế khiến chúng ta e dè. Chúng ta sợ rằng sự nhẹ nhàng thanh thoát đó sẽ khiến đầu ta lơ lửng. Sự nặng nề, sự đau khổ đã quá quen thuộc đến nỗi chúng ta sợ rằng mình sẽ cảm thấy mất phương hướng nếu ta buông bỏ chúng.
Điều này đã xảy ra cho một người bạn của tôi. Do công việc anh ta phải chuyển nhiệm sở và dọn đến một căn hộ cạnh một ga xe lửa ồn ào. Lúc đầu, anh không thể ngủ được vì sự ồn ào nơi nhà ga. Một vài năm sau anh lại phải dọn nhà lần nữa. Căn hộ mới của anh rất yên tĩnh. Lần nữa, trong nhiều đêm, anh ta không thể ngủ. Anh đã trở nên quá quen thuộc với tiếng động, với sự ồn ào mà anh thực sự cần để thư giãn và đi vào giấc ngủ! Tương tự, chúng ta cũng đã quá quen thuộc với tâm phiền não, khổ đau đến nỗi chúng ta sợ sự thay đổi.
Điều này cũng khiến tôi nhớ đến câu chuyện về một người mà tôi đã đọc được trong báo khi tôi sống ở Washington D.C. Người này phải chịu án chung thân vì tội giết người. Nhờ chấp hành kỷ luật nghiêm túc, sau mười năm, anh ta được ân xá. Một phóng viên phỏng vấn anh. "Chắc ông rất hạnh phúc khi biết mình được ân xá?”
"Không. Đừng nói với tôi về việc ân xá," người đàn ông trả lời một cách bực bội. Anh nói rằng anh đã cảm thấy rất thoải mái với cuộc sống trong tù. Anh ta tận hưởng những quyền lợi như được coi ti vi, và cuộc sống trong tù không có những sự bất an như bên ngoài. Nhưng, tôi tự hỏi, có phải anh đã thực sự trở nên quá quen thuộc với sự bạo động trong tù, sự hà khắc, sự tàn nhẫn của những người cai tù? Có phải anh đã quên niềm vui được sống bên ngoài bức tường tù tội, cảm giác của không khí mát mẻ, không gian rộng mở thông thoáng, những món ăn ngon, sự tự do được gặp gỡ những người tự do khác, có phải anh đã trở nên quá bám víu vào những điều kiện bên trong tù đến nỗi được tự do có vẻ xa lạ và không hấp dẫn?
Những người chế diễu, mạ lỵ giác ngộ hẳn cũng giống như người đàn ông trong tù kia. Họ bám víu vào những gì họ đang có. Họ không muốn xa rời sự quen thuộc dễ chịu của khổ đau. Nhưng họ không biết họ thiếu sót, mất mát điều gì.
Giác ngộ không phải là một điều gì đó ta muốn là có được. Đó là một trạng thái mà bạn có được khi tất cả mọi ham muốn đã không còn. Như Đức Phật đã dạy,
Nếu nước ở khắp nơi,
ta cần gì đào giếng?
Nếu đã bứng sạch rễ tham,
ta còn tìm kiếm gì?
(Ud VII.9 [Do Ireland dịch])

Khi biết mình còn thiếu thốn điều gì đó, ta sẽ luôn đi tìm. Trái lại, khi đã có tất cả mọi thứ mình mong muốn, ta sẽ thôi không tìm kiếm. Vì đã đạt được hạnh phúc tuyệt đối, sự hòa hợp hoàn toàn, bạn cảm thấy bằng lòng để cho mọi người khác cũng được sống trong hạnh phúc và hòa hợp.
Ở cuối bài kinh Đại Niệm Xứ (Maha Satipatthana Sutta), Đức Phật đã đảm bảo rằng bất cứ ai thực hành thiền chánh niệm theo lời chỉ dạy của Đức Phật thì người đó chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ ngay trong kiếp sống này. Nếu không được hoàn toàn giác ngộ vì còn một số kiết sử vi tế cản trở, thì người đó ít nhất cũng trở thành một vị Bất lai (non-returner), đạt được Tam thiền. (D 22)
Đức Phật không hàm ý rằng vị hành giả chỉ thực hành một phần giới hạn của đạo lộ mà có thể đạt được Giác Ngộ. Muốn được giác ngộ bạn phải phát triển toàn vẹn mọi khía cạnh của giới, định, và tuệ. Hơn thế nữa, trong lời hứa khả đáng ngạc nhiên này, Đức Phật không chủ ý nói rằng một sự tu tập dễ dãi, không thường xuyên – lúc có lúc không – là đủ. Trái lại, Ngài có ý dạy rằng để đạt được giác ngộ, ta phải tu tập một cách tinh tấn, kiên trì và tự nguyện. Để đạt được định, sự nỗ lực của bạn phải được hỗ trợ bằng giới đức hoàn toàn trong sáng. Thiền chứng của bạn phải thiện và nhất tâm. Tâm định mãnh liệt này phải được vun trồng bởi tâm chánh niệm cũng mãnh liệt không kém. Rồi thì trí tuệ giải thoát sẽ xuất hiện với sự hỗ trợ của giới luật thanh tịnh và chánh định.
Tuy nhiên, một số người vẫn còn nghĩ rằng những lời của Đức Phật là những lời hứa không thực tế. Tôi không biết họ dựa vào đâu để nghi ngờ nó. Họ có giống như người ghét xuống nước lại nghi ngờ rằng làm gì có ai lội nhanh như các vận động viên Olympic? Hay giống như người chưa bao giờ chạy một bước lại nghi ngờ rằng làm sao có ai chạy được hai mươi sáu dặm marathon? Dĩ nhiên lời hứa khả của Đức Phật có vẻ không thực tế đối với những kẻ chưa từng ngồi trên gối thiền hay cố gắng quán sát hơi thở mình trong một phút! Và lời hứa đó cũng không chắc chắn đối với những ai đã ngồi thiền nhiều năm nhưng chẳng bao giờ thực hành cả tám bước của Bát Chánh Đạo bao gồm giới, định, và tuệ.
Thực hành thiền quán đòi hỏi những giới luật khắt khe. Bạn chấp nhận các giới luật này không phải để gây ấn tượng đối với ai, mà là để giải thoát tâm khỏi những đau khổ gây ra bởi chính những sự bất thiện của bạn. Nếu bạn đến với đạo lộ như một thú tiêu khiển, hay một sự sưu tầm, thì bạn sẽ không bao giờ thành công. Tám ngành của Bát Chánh Đạo không phải là những điều mà bạn chỉ nghiên cứu, tìm hiểu, rồi chỉ đem ra thực hành khi cần. Đúng là bạn chỉ thực hành Bát Chánh Đạo khi cần – nhưng bạn cần đến chúng mỗi giây phút trong cuộc đời bạn!
Tuy nhiên, sự chánh niệm của bạn về tám bước trên con đường của Phật, không cần phải hoàn thiện trước khi bạn có thể bắt đầu thực tập. Nếu sự chánh niệm của bạn về Bát Chánh Đạo có thể bị suy giảm, đừng lo lắng. Chỉ cần chánh niệm về sự không chánh niệm đó ngay khi bạn có thể. Sự thành công trên bước đường tu tập của bạn tùy thuộc vào việc bạn có giữ được ý chí mạnh mẽ để luôn chánh niệm, chứ không phải là việc bạn thực sự có khả năng làm được như thế hay không. Khi bạn tiếp tục nhắc nhở bản thân phải chánh niệm, thì sự xao lãng càng ngày càng ít hơn, cho tới một ngày, sự chánh niệm về con đường đạo trở nên tự động. Nếu bạn có được sự nỗ lực như thế, bạn sẽ tiến bộ rất nhanh. Lúc đó bạn sẽ là loại đệ tử mà Đức Phật đã nghĩ đến trong tâm khi Ngài lập lời hứa khả này.
HÃY ĐẾN ĐỂ THẤY
Quyển sách này chỉ
đưa ra những lời hướng dẫn căn bản để giúp bạn đi theo con đường đạo. Khi đã tiến bộ trong việc thực hành, nếu bạn thỉnh thỏang xem lại, bạn có thể thấy là nó vẫn còn hữu ích cho bất kỳ trình độ hiểu biết nào. Nhưng quyển sách này không thể giải thích tất cả những điều bạn muốn biết về Phật pháp, về sự tu tập, về kinh nghiệm của bạn và về những gì bạn sẽ đạt được. Mỗi cá nhân sẽ có căn bản giáo dục, ý thức, sự hiểu biết về Pháp, và những trình độ tiến bộ tâm linh khác nhau. Hơn thế nữa, ngày mai các câu hỏi của bạn sẽ rất khác với những câu hỏi của ngày hôm nay.
Ngay chính Đức Phật cũng không thể trong một bài kinh có thể nói hết về mọi khía cạnh cho mọi người. Đó là lý do tại sao Ngài đã có hàng ngàn bài pháp. Quyển sách này chỉ là một bảng tóm tắt của những điều này và một vài giải thích về những điểm quan trọng nhất của chúng. Những gì còn lại bạn sẽ phải thêm vào qua sự thực tập của mình. Giây phút hiện tại là thầy của bạn. Hãy biến nó thành một phòng thí nghiệm cho chính cá nhân bạn. Hãy chú tâm. Hãy quán sát. Chỉ có bạn mới có thể mang lại trí tuệ cho bản thân. Bạn thực hiện được điều đó bằng cách theo đuổi các thiện pháp.
Những thính giả có lòng nghi hoặc đã có lần hỏi Đức Phật rằng tại sao họ cần phải tin Ngài, khi họ đã nghe quá nhiều những vị đạo sĩ khác, ai cũng tự nhận mình nắm được chân lý. Đức Phật trả lời rằng họ không nên tin bất cứ điều gì chỉ vì một ai đó, ở đâu đó, đã nói rằng đó là chân lý. Những nguồn tin được nghe qua, được báo cáo, những niềm tin lưu truyền qua nhiều thế hệ, kinh sách được coi là thánh điển, lời của một vị thầy được kính tin, và giáo huấn từ một ai đó mà bạn nghĩ là rất thông thái -tất cả đều không có sự bảo đảm của chân lý. Đức Phật đã dạy rằng tất cả những điều này không nên được chấp nhận chỉ dựa trên lòng tin.
Đức Phật cũng dạy rằng ta không thể chỉ dùng lý trí để khám phá ra chân lý. Ngài thuyết rằng không nên tin một điều gì đó chỉ vì nó có vẻ logic, hoặc dường như mang ta đến gần với mục đích của mình hơn, hoặc thích hợp với chí hướng của ta hay có vẻ đúng sau khi ta đã suy nghĩ về nó. Tại sao? Vì Pháp vẫn còn một khía cạnh mà không có gì, ngay cả sự suy luận quán chiếu, có thể nắm bắt được: sự trải nghiệm của bản thân ta.
Đức Phật đưa ra một quy luật tổng quát đối với những gì chúng ta nên chấp nhận. Quy luật này không dựa trên bất cứ loại lòng tin hay lý luận nào. Đúng hơn, Đức Phật dạy, khi quán chiếu một hành động, hãy tự hỏi, dựa vào kinh nghiệm bản thân, rằng một hành động như thế có tổn hại cho ai không, kể cả bản thân ta. Nếu nó tổn hại, bất thiện, thì hành động đó không nên làm. Nếu nó hữu ích cho mọi người, kể cả bản thân ta, và nếu người trí cũng chấp nhận thì nó là thiện. và hành động đó nên làm. (A I (Ba) VII.65)
Sau đó Đức Phật dạy thêm rằng ta cần phải quán sát lại sau mỗi hành động đã thực hiện. Ta nên tự hỏi, "Hành động đó thực sự xảy ra như thế nào? Nó có thiện xảo không?" Nếu không, và ta "phải nhận lãnh hậu quả với nước mắt," thì hành động đó cần phải được tránh trong tương lai. Trái lại, nếu hành động đó thiện xảo, và ta "gặt được kết quả với niềm vui trong mắt,” thì hành động đó cần phải được làm lặp lại (Dh 67-68). Nếu ta chú tâm đủ và thành thật với bản thân về những gì ta biết là đúng, thì – không cần phải tin vào bất cứ điều gì người khác nói – ta có thể chọn lựa hành động để phát triển tâm thanh tịnh và trí tuệ, và điều đó mang đến nhiều hạnh phúc cho ta. Chỉ có ta là người giữ chìa khóa đi vào cửa giải thoát của mình. Chìa khóa đó là lòng quyết tâm để quán chiếu nội tâm và quyết định hành động nào là thiện, mang đến cho ta những kết quả tốt đẹp.
Bạn có muốn được thấy Pháp không? Hãy quán chiếu những trải nghiệm của mình. Hãy sử dụng kinh nghiệm bản thân như là một tấm gương phản chiếu Pháp. Tất cả bản tánh của mọi chúng sanh cũng phản chiếu qua đó. Trong cuộc sống hằng ngày và trong từng giây phút hiện hữu, ta có thể thấy tất cả những gì ta cần thấy ở bất cứ nơi đâu: nhân quả, vô thường được biểu hiện qua dòng chuyển đổi không dừng ở mọi mức độ, đau khổ có mặt ở bất cứ nơi nào có tham ái, chấp ngã, và sự thật rằng dầu ta có cố gắng để tìm kiếm tự ngã một cách khổ sở như thế nào, ta cũng không thể tìm thấy gì.
Bạn có muốn biết về kinh nghiệm của mình không? Hãy quán tưởng Pháp. Qua đó bạn sẽ thấy tất cả các thành phần và mẫu mực chung, không của riêng ai để tạo ra “con người bạn.” Ở đó bạn cũng thấy rằng những gì bạn đã trải qua, trên căn bản, cũng giống như những gì mà mọi chúng sanh khác đã trải qua. Pháp có mặt ở khắp mọi nơi. Thí dụ, ngay cả khi quán sát một con bọ đang vẫy vùng trong tô nước, có thể cũng bừng lên trong tâm trí bạn về thực tại của sự sợ chết mà bạn cũng như tất cả mọi chúng sanh khác đều cảm thấy. Vạn pháp đều hiển lộ trong tất cả mọi mặt của cuộc sống, trong từng giây phút, từng ngày. Nó có mặt ngay đó để ta nhận dạng, không cần có một niềm tin mù quáng hay một lý thuyết luận giải nào. Từ việc quán sát rốt ráo này, ta có được tự tin trong việc tu tập và tiến bước trên con đường đạo.
Nếu ta không trở nên quen thuộc, thành thạo với đạo lộ và nhận ra được chân Pháp từ chính kinh nghiệm bản thân, thì tri thức ta thu thập được từ quyển sách này sẽ chỉ là lý thuyết suông. Nếu tôi chỉ về hướng sao Bắc Đẫu, bạn có thể trố mắt nhìn tôi và tự hỏi, "Tại sao ông ta chỉ về hướng đó? Lý ra ông phải chỉ về hướng kia mà?" Làm sao ta có thể giải thích một ngôi sao với người chẳng bao giờ ngước mắt nhìn lên trời vào ban đêm? Cho đến khi bạn có thể ngửa đầu để nhìn các ngôi sao và theo dõi các phương hướng để quán sát bầu trời, hay cho đến khi bạn có thể chỉ ra sao Bắc Đẫu, thì nghi hoặc vẫn còn trong tâm bạn. Tâm nghi hoặc sẽ dẫn đến đủ loại câu hỏi. Nhưng khi bạn đã nhìn ra được sao Bắc Đẫu và tự quán sát cách mà mọi thứ khác vận hành quanh nó, thì bạn không còn nghi ngờ gì nữa cả.
Tương tự, trước khi đến đích của con đường, bạn sẽ còn nhiều câu hỏi về đạo lộ, về giáo lý, về sự thực hành của bạn, và về lý do tại sao tôi đã nói một số điều như thế trong quyển sách này. Làm sao có thể dùng từ ngữ để diễn giải được Niết bàn là như thế nào, khi Niết bàn không phải là điều có thể thử nghiệm được? Kinh nghiệm ta có được qua các giác quan, mà khi dùng bất cứ tên gọi nào để diễn tả những trạng thái không thể trải nghiệm được, cũng đều sai lạc, vì chúng dựa vào kinh nghiệm giác quan. Chúng ta đành phải bước theo các bước của Bát Chánh Đạo đến tận cùng, để tự mình được thấy.
Bạn đã từng thử chỉ cho con mèo thấy một vật gì từ xa chưa? Bạn càng cố đưa tay chỉ, con mèo càng muốn gậm ngón tay bạn, và không bao giờ muốn nhìn xa hơn ngón tay chỉ. Nếu bạn đọc xong quyển sách này và nói, "Chỉ có vậy thôi sao? Còn chân lý tuyệt đối thì ở đâu? Quyển sách này không giúp được gì cho tôi", thì bạn cũng đã làm giống như chú mèo rồi. Hãy nhìn xa hơn những gì đã được nói trong sách. Hãy hành động theo lời Đức Phật dạy để tìm ra một cách để hiểu khác. Hãy tự mình bước trên đạo lộ. Đạo lộ này trải dài xuyên suốt mọi kinh nghiệm sống của bạn khi bạn gieo trồng sự thiện xảo ngày càng nhiều hơn trong ý nghĩ, lời nói và hành động.
Khi bạn đã bước những bước vững chãi, khéo léo trên đạo lộ để thanh tịnh hóa tâm, cuối cùng bạn sẽ nắm bắt được chân lý về tính vô thường của vạn pháp, về khổ do tâm bám víu vào các pháp vô thường, và về sự thiếu vắng một tự ngã trong tất cả những gì vô thường và khổ. Bạn sẽ thấy tham ái sâu kết mọi khổ đau như thế nào. Lúc đó bạn sẽ tự mình thấy, và tất cả mọi nghi hoặc đều chấm dứt.
Nếu bạn không tin vào những mục đích lớn hơn được nói đến trong sách, cũng chẳng sao; quyển sách vẫn có thể ích lợi cho bạn. Hãy sử dụng quyển sách này để nó có thể giúp bạn tự vấn về những trải nghiệm trong đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra cho bạn cũng đem lại một bài học. Đức Phật thường dạy, "Hãy đến để thấy!" Qua đó, Ngài muốn khuyên ta hãy tự quán sát thân và tâm để tìm ra chân lý, đó là Pháp. Bạn sẽ không thể tìm được ở bất cứ nơi nào khác.
-ooOoo-

Hiệu Đính & Tài Liệu Tham Khảo
A: Anguttara Nikaya, Gradual Sayings, Kinh Tăng Chi Bộ, Chương 7, Số 65. Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo. D: Dighta Nikaya The Long Discourses of the Buddha, Trường Bộ Kinh (Thí dụ: D 22 ý chỉ Kinh số 22). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo.
Dh: Dhammapada, hay Word of the Doctrine, Kinh Pháp Cú. (Thí dụ: Dh 5 ám chỉ Kệ số 5). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo.
DhA: Dhammapada Atthakatha, hay Dhammapada Commentary, Chú Giải Pháp Cú. (Thí dụ: DhA 124 ý chỉ phần 124 của Chú Giải, giải thích Kệ số 124).
J: Jataka, hay Jataka Story, Chuyện Tiền Thân Đức Phật. (Thí dụ: J 26 ý chỉ chuyện số 26).
M: Majjhima Nikaya, hay The Middle Length Discourses of the Buddha, Kinh Trung Bộ ( Thí dụ: M 80 ý chỉ Kinh số 80). Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo.
MA: Majjhima Nikaya Atthakatha, hay Commentary to the Middle Length Discourses Buddha, Chú Giải Tăng Chi Bộ Kinh. (Thí dụ: MA i 225 ý chỉ Bộ 1, trang 225 Bản Kinh Pali).
Mhsv: Mahavamsa, hay the Great Chronicle of Ceylon (Bộ Ký của Ceylon). (Thí dụ: Mhvs V ý chỉ Chương 5).
Miln: Milindapanho, hay The Questions of King Milinda, Kinh Na Tiên Vấn Đáp. (Thí dụ: Miln 33 [V], ý chỉ trang số 33; Chương 5 được thêm vào để giúp tìm ra câu kệ).
S: Samyutta Nikaya, hay The Connected Discourses of the Buddha (Tương Ưng Bộ Kinh). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo.
Sn: Sutta Nipata, hay the Group of Discourses II (Thí dụ: Sn 657 ý chỉ câu số 657).
Thag: Theragatha, hay Poems of Early Buddhist Monks, (Các Bài Kệ Của Các Trưởng Lão Tăng). (Thí dụ: Thag 303 ý chỉ câu số 303).
Thig: Thergatha, hay Poems of Early Buddha Nuns (Các Bài Kệ Của Các Trưởng Lão Ni). (Thí dụ: Thig 213 ý chỉ câu số 213).
Ud: Udana, hay Verses of Uplift. (Thí dụ: Ud VI.2 ý chỉ Chương 6, chuyện số 2).
V: Vinaya, hay Book of the Discipline (Luật Tạng). (Thí dụ: V ii 292 ý chỉ Bộ số 2, trang 292, bản kinh tiếng Pali).
Vsm: Visuddhimagga, hay The Path of Purification, Thanh Tịnh Đạo. (Thí dụ: Vsm I [55] ý chỉ chương 1, đoạn số 55).
(1) Mindfulness In Plain English (Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán, dịch giả Nguyễn Duy Nhiên).
(2) Kinh Pháp Cú, Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên chuyển dịch (Lưu hành nội bộ).
(3) Con Đường Thiền Chỉ và Thiền Quán (Path Of Serenity & Insight, Thiền Sư Henepola Gunaratana), Tỳ kheo Pháp Thông dịch, NXB Văn Hóa Sài Gòn 2002.


-ooOoo-

Chánh Kiến - Henepola Gunaratana

Chánh Tư Duy - Henepola Gunaratana

Chánh Ngữ - Henepola Gunaratana

CHÁNH NGHIỆP - Henepola Gunaratana

Chánh Mạng - Henepola Gunaratana

Chánh Tinh Tấn - Henepola Gunaratana

CHÁNH NIỆM - Henepola Gunaratana

 
Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc
Theo Dấu Chân Phật
Eight Mindful Steps to Happiness
Walking the Buddha’s Path
Hòa thượng Henepola Gunaratana
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét