Trang

TINH HOA CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY - LOKANATHA, Giảng Thông dịch



TINH HOA CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY



Đề tài của bài thuyết giảng hôm nay là sự vinh quang của Phật Giáo Nguyên Thủy. Như tất cả quý vị đã biết, Nguyên Thủy (Theravada) là từ chỉ Phật Giáo Nam tông trái với Ðại thừa (Mahayana) chỉ Phật Giáo Bắc tông. Ai là tác giả của Phật Giáo Nguyên Thủy. Nhiều tác giả có tầm cỡ ở Tây phương như là Oldenburg, Rhys Dhavid, Dr. Neumann và nhiều học giả khác đã nhất trí rằng Ðức Phật Thích Ca là người tạo ra Phật Giáo Nguyên Thủy. Vậy thì Phật Giáo Nguyên Thủy là gi? Phật Giáo Nguyên Thủy là sự giản dị, trong Phật Giáo Nguyên Thủy chúng ta có tiếng Pali (Nam Phạn) là ngôn ngữ của Phật, tức là ngôn ngữ gốc, giống như tiếng Latinh là ngôn ngữ của các nhà tu Thiên Chúa La Mã. Vì vậy tiếng Pali là ngôn ngữ chung cho tất cả tu sĩ Phật Giáo dù họ là người Singapore hay Miến Ðiện, người Ðông Dương hay Thái Lan vẫn có thể hiểu nhau qua tiếng pha trộn này (Ý, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha). Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ có hai nhiệm vụ không hơn, tương phản với Phật Giáo Ðại Thừa phức tạp. Hai nhiệm vụ là gì? Ðó là nhiệm vụ theo đuổi việc nghiên cứu học tập và nhiệm vụ Thiền quán. Một Tăng sĩ phải nghiên cứu học tập Phật Pháp trong suốt 5 năm và sau đó nếu có khả năng thì được thầy giao cho một đề tài Thiền quán. Vị Sa Môn vào tu trong rừng đạt được mục tiêu tức là quả vị Alahán ngay trong đời mình. Như quý vị đã biết có 40 đề mục tham Thiền, vị Thầy chọn đề mục nào thích hợp nhất trong số đó, trao cho học trò, yêu cầu thực hành đề mục đó. Người đệ tử tiếp tục tham quán đề mục của mình cho đến khi chứng đạt quả vị gọi là Niết Bàn ở đây và ngay bây giờ.
Phật Giáo Nguyên Thủy có hai mục tiêu. Người ta có thể hoặc là chứng quả Niết Bàn ngay trong đời này hoặc là có thể đạt thành Phật quả tối hậu gọi là Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác hay Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Nhưng làm sao chứng quả Alahán ngay trong đời này? Có hai cách: một là Thiền chỉ có nghĩa là tịnh tâm cho đến khi đạt đến trạng thái tĩnh lự. Trong Pali gọi là Thiền (4 Thiền). Ðạt được Thiền định, ta nhiếp tâm vào ba đặt tướng (vô thường, vô ngã, khổ) và đạt mục đích. Thiền định rất hữu ích. Tại sao? Bởi vì họ vận dụng để tập trung toàn tâm vào một điểm; tâm được quy nhất. Thế nên, đương nhiên tâm trở nên mãnh liệt gấp 1000 lần trước kia. Tất nhiên nhờ phóng chiếu nhiều ánh sáng vào đề mục ba đặc tướng, lập tức ta quán triệt được ý nghĩa của ba đặc tướng và chứng ngộ. Nếu vị đó không có thì giờ hay không có khuynh hướng tu thiền thì có thể vị đó thực hành theo phương cách dễ hơn. Vị đó chỉ giản dị cố tu tập "Thiền Chỉ" hay chánh niệm ngay trong sinh hoạt hàng ngày. Vị ấy luôn luôn cố nhận ra ba đặc tướng của vạn pháp mà mình thấy, mọi điều mình nghe, mọi điều mình suy nghĩ, không cần phải tham thiền. Nhờ luôn luôn quán chiếu vào ba đặc tướng rồi một ngày nào đó hành giả mới bừng ngộ rằng ba đặc tướng này chính là ba tài sản quý giá của vũ trụ vạn hữu, nhưng muốn chứng ngộ cần tư duy liên tục, chú ý liên tục và quán chiếu liên tục về ba đặc tướng vô thường, vô ngã, khổ gọi là Tam Pháp Ấn. Ðây là những Pháp môn để chứng đạt quả vị Alahán ở đây và bây giờ.
Mặt khác, nếu bạn nhiệt tình hơn, nếu bạn không vội vã để cứu mình và nếu bạn phát triển tình thương vô lượng đối với tất cả nhân loại, vậy thì bạn hãy thực hành 10 pháp Ba La Mật, sớm hay muộn gì sau này bạn cũng đạt được quả vị Tam Miệu Tam Bồ Ðề (bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác). Ðó là quả vị Phật tối thượng. Mười Ba La Mật là gì? Phải, đúng như quý vị đã biết, đó là: bố thí, trì giới, từ bỏ, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, sự thực, cương quyết, tâm từ và tâm xả. Bằng sự quán chiếu 10 Ba La Mật này từ đời này sang đời nọ qua quá trình tiến hóa, bạn sẽ phát huy đến quả vị Phật tối thượng. Dĩ nhiên đó là một tiến trình lâu dài bởi vì một vị Phật tối thượng có nhân cách siêu đẳng như vậy cần trải qua nhiều thời gian tu tập.
Có sự khác biệt khá xa giữa một vị Alahán và một vị Phật tối thượng. Ðức Phật là một vị Thầy của Trời và người. Ngài là bậc cứu thế trong khi Alahán là bậc cứu mình. Vị Alahán cũng có thể cứu được một số người nhưng không cứu được toàn khắp nhân gian như Đức Phật. Bạn phải chọn lựa pháp môn nào bạn tâm đắc nhưng hãy nhớ rằng cho dù bạn cố đạt quả Alahán, cho dù bạn nhàm chán trần thế đến nỗi bạn muốn có Ba La Mật ngay đây và bây giờ, cho dù bạn không đủ kiên nhẫn để chờ nhiều chu kỳ từ thế giới này sang thế giới khác, cho dù bạn có quá ghê sợ "khổ đế” đến nỗi bạn muốn có con đường nhanh nhất để thoát ra, cho dù bạn nhìn thấy những ngọn lửa khắp nơi đang bừng cháy trong ngôi nhà lửa, và bạn chỉ muốn lối thoát ra nhanh nhất cửa sổ gần nhất; không có nguy hại nào. Con đường thuận lợi nhất mà một người có thể cứu được thế giới là bằng cách cứu lấy chính mình. Bạn không thể nào cứu được thế gian nếu trước tiên bạn không cứu được chính mình. Hỡi Y sĩ, hãy hàn gắn vết thương cho chính mình. Nếu một y sĩ không thể làm lành vết thương cho chính mình thì làm sao vị đó có thể chữa lành vết thương cho người khác?
Trong Phật Giáo không có Ngã, và nếu là Vô Ngã thì làm sao vị Alahán có thể ích kỷ lo cho bản thân mình, vì vậy thật là sai lầm. Bất cứ nơi nào, ai đó còn buộc tội vị Alahán có tự ngã chỉ lo cứu chính mình càng sớm càng tốt mà không cần bận tâm về sự khổ đau của nhân loại, họ hoàn toàn sai lầm. Ðối với bậc Alahán thì không có bản ngã hay tự ngã. Theo Ðại thừa Phật Giáo tất cả đều mong muốn trở thành những Bồ Tát, những vị Phật tối thượng. Họ không thích mục đích của vị Alahán ở đây và ngay bây giờ. Bởi vì họ coi quả vị ALAHÁN là ích kỷ. Họ sẵn sàng đình chỉ sự giải thoát của mình và dấn thân hoạt động từ đời này qua đời kia cho đến khi viên thành Phật đạo. Tất cả đều muốn thành Phật; nhưng nếu ai cũng thành Phật hết thì ai sẽ là đệ tử? Cũng phải có đệ tử chứ, đó là một cực đoan cho người muốn thành Phật. Hãy là những bậc Alahán vì rằng Ðức Phật phải có những đệ tử chúng ta không noi theo cực đoan nào của đạo Phật.
Phật Giáo là trung đạo, nếu mọi người muốn thành một vị Phật thì đó cũng là một cực đoan khác. Có người muốn thành Alahán, có người muốn thành Phật thì vị Phật sau cùng sẽ không có đệ tử nào. Ngài sẽ là một vị Phật kỳ lạ. Ngài không còn là bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ngài không thể cứu thế gian, bởi vì thế gian không còn nữa để được cứu. Vả lại quý vị phải nhận biết rằng thế gian này có nhiều khuynh hướng khác nhau, người ta không bao giờ có quan điểm giống nhau. Có một số người muốn tự cứu mình một cách khẩn trương; có số người lại kiên trì chờ đợi; nhưng từ bỏ Niết Bàn lại là chuyện khác. Một vị Bồ Tát là người từ bỏ Niết Bàn để cứu chúng sanh đang thống khổ.
Chắc quý vị nhớ rõ câu chuyện Hiền giả Thiện Tuệ vào thời Phật Nhiên Ðăng; Hiền giả Thiện Tuệ nằm dài xuống đất trên đống bùn để thỉnh Ðức Phật Nhiên Ðăng bước qua thân mình, sử dụng thân mình làm lối đi cho Phật bước qua. Ngay lúc đó Hiền giả Thiện Tuệ chứng đạt Niết Bàn ngay trong bàn tay. Nhưng sau đó Ngài lại tự nhủ: công dụng của Niết Bàn là gì? Ta là một người bơi dũng mãnh, không cần cho ta phải tự cứu mình mau như vậy, ta hãy từ bỏ Niết Bàn ngay lúc này. Ta hãy trì hoãn sự chứng đạt đó và ta hãy nỗ lực để trở thành như Phật Nhiên Ðăng–Thiện Tuệ bị cảm kích quá nhiều hào quang rạng rỡ của Ðức Phật Nhiên Ðăng, cứ tưởng Niết Bàn ngay đây và bây giờ quá nhỏ đối với mình. Quý vị phải nhớ rằng ngưỡng mộ sẽ đưa đến thán phục. Bởi vì Hiền giả Thiện Tuệ ngưỡng mộ sự rạng rỡ của Phật Nhiên Ðăng nên muốn bắt chước Ngài. Hiền giả tự nhủ: ta không muốn Niết Bàn chỉ cho riêng mình. Ta hãy trở thành một hình tượng hiện thân giống như Ðức Phật Nhiên Ðăng. Thiện Tuệ đã là một chúng sanh khổng lồ, không khải là một con người bình thường. Ngài có tấm lòng rộng lượng bao la như biển cả đại dương. Vì vậy Ngài muốn cứu vớt cả vũ trụ vạn hữu. Ðức Phật Nhiên Ðăng liền thị hiện trước mặt Hiền giả Thiện Tuệ và nói với mọi người: "Các Thiện hữu có thấy vị Ðạo sĩ khổ hạnh đây không, vị này đang hành pháp khổ hạnh. Các Thiện hữu có thấy vị đạo sĩ đang nằm dài dưới đất, một ngày kia cũng sẽ thành Phật như ta hôm nay, hiệu là Gautama".

Quả vị Alahán có thể đạt được tại đây và bây giờ. Nó không phụ thuộc vào thời gian. Quý vị Phật tử có nhận ra rằng quả vị Alahán tối thượng có thể đạt được trong nửa ngày. Trong Kinh Trung A Hàm–Phẩm Bồ Ðề Vương Tử Ðức Phật đã nói: "Này Bồ Ðề Vương Tử! Nếu ông đem cho ta một thanh niên có 5 phẩm hạnh sau đây ta sẽ thuyết pháp cho cậu ta nghe buổi sáng thì buổi tối cậu ta sẽ chứng quả Alahán. Hoặc ta thuyết giảng buổi tối thì ngay sáng hôm sau cậu ta sẽ liễu ngộ toàn bộ Giáo Pháp". Vậy thì 5 phẩm hạnh đó là gì để con người có thể thành tựu đạo quả trong nửa ngày. Năm phẩm hạnh đó là:
1) Vị đó phải là người quả quyết có niềm tin kiên cố tuyệt đối nơi Ðức Phật.
2) Vị đó phải có sức khỏe và thể lực tốt.
3) Vị đó phải chân thật, không gian dối quỷ quyệt.
4) Vị đó phải cương quyết, luôn dứt bỏ các trạng thái xấu ác của tâm.
5) Vị đó phải thông minh, đầu óc lanh lẹ vượt qua mọi thăng trầm của vạn pháp.
Với 5 phẩm tính này, Ðức Phật sẽ truyền Pháp cho vị đó buổi chiều và vị đó sẽ chứng quả ngay sáng hôm sau; hoặc Ngài giảng Pháp buổi sáng thì buổi chiều vị đó chứng quả. Vương Tử Bồ Ðề, sau khi nghe xong bài Diệu Pháp từ Ðức Thế Tôn, Vương Tử cảm thán: Tuyệt thay Ðức Thế Tôn, hay thay sự khai thị giáo Pháp. Khi một tu sĩ nếu được khai thị buổi sáng sớm có thể quán triệt giáo pháp vào buổi chiều; hoặc nếu được khai thị vào buổi chiều tối thì có thể lãnh hội viên mãn vào buổi sáng sớm hôm sau. Ðó là Phật Giáo Nguyên Thủy thành tựu đạo quả cấp thời.
Có câu "chần chờ là kẻ trộm thì giờ", ta không nên trì hoãn mục tiêu định thực hiện. Ðức Phật dạy: đã đến lúc phải chiến đấu với chính bản thân mình, bởi vì ai biết ngày mai ra sao, không ai có thể hối lộ thần chết được. Ðến lúc thân hoại mạng chung phải ra nghĩa trang. Nếu bạn nói với thần chết: "Thưa ngài tôi chưa chuẩn bị, hãy chờ tôi một thời gian nữa để di chúc vài điều". Thần chết sẽ trả lời: "Cảm phiền bạn, ta dành cho bạn nhiều thì giờ quá rồi, giờ đây đã quá trễ. Mau lên đấy! Ðừng bắt ta phải chờ nữa". Bạn nói: "Này thần chết quý kính của tôi, nếu Ngài không cho tôi thì giờ để viết di chúc, vậy hãy cho tôi thêm thì giờ để ký một chữ vào bản ý nguyện dù là không có lời nào". Thần chết gắt giọng: "Ngay một chữ ký cũng không được nữa ?". Bạn phải lên đường cấp thời và rồi thần chết kéo cổ bạn lôi về hướng tha ma nghĩa địa, nơi đó là quê hương tổ ấm sau cùng của bạn. Dù người ta tin hay không nghĩa trang cũng là quê hương tổ ấm của tất cả mọi người. Có câu: "không nơi nào bằng tổ ấm quê hương", nhưng tổ ấm nào là của chúng ta đâu? Bạn không nhận ra rằng chúng ta chỉ là những kẻ tạm trú sao? Bất cứ nơi nào, dù nhà đó loại gì, loại nhà kiên cố hay loại nhà chống được bom, chúng ta ngủ ở bất cứ nơi đâu, ngay cả trong nhà xí, chúng ta cũng chỉ là những kẻ tạm trú (kẻ đi thuê nhà), bởi vì chúng ta có thường trú nơi đó đâu, chỉ tạm trú vài ngày, vài tuần, vài tháng hay một số năm. Nhưng dù ở bao lâu thì chúng ta vẫn là kẻ tạm trú. Chỗ ở hiện nay chỉ tạm thời, chỗ ở thực sự của chúng ta là nơi tha ma nghĩa địa. Bởi vì chúng ta sẽ ở đó mãi mãi. Vì vậy người ta giải thích rằng nghĩa trang là chỗ ở thắm thiết nhất, không có nơi nào đậm đà tha thiết bằng. Nhưng có mấy ai lại thích căn nhà tổ ấm như vậy đâu. Thế mà họ vẫn mơ ước, vẫn thích căn nhà tổ ấm dù là kém hơn, tức là tại nghĩa trang. Nơi Phật Giáo Nguyên Thủy sáng chói không có nghi thức và cúng tế. Có mười kiết sử mà tôi sắp gởi đến quý vị bằng tiếng Pali. Dĩ nhiên quý vị nên học tiếng Pali sau này, nếu quý vị kiên trì học tập tiếng Pali, tôi rất hoan hỷ biết rằng quý vị đã khởi sự học rồi. Mười kiết sử hay những chướng ngại làm cản trở sự thành tựu Niết Bàn là:
1) Ngã kiến.
2) Nghi hoặc.
3) Giới thủ kiến.
4) Tham dục.
5) Sân.
6) Sắc dục.
7) Vô sắc dục.
8) Kiêu mạng.
9) Trạo cử.
10) Vô mình.
Phật Giáo Nguyên Thủy coi nghi thức và cúng tế là một chướng ngại lớn cho việc thực hành Ba La Mật. Ðó là lý do Phật Giáo được đánh giá là có tính khoa học. Khoa học thuần tuý thì hoàn toàn không có nghi thức và cúng tế. Vì lẽ đó mà tôi phải hô hào cùng quý vị một lần cuối và mãi mãi về sau rằng bất cứ ở đâu mà quý vị thấy còn diễn ra nghi thức và cúng tế, dù là ở ngay trong chùa thì quý vị đừng bao giờ tin đó là đạo Phật. Bởi vì đạo Phật chủ trương không có nghi thức và cúng tế, không hề có ca ngâm gì trong chân lý, bởi vì chân lý là tuyệt đối, không có ràng buộc, tuyệt đối xả ly. Sự buông xả tối thượng là chân lý. Bởi vì như quý vị biết không có bài ca nào du dương hay hơn bài ca chân lý bất tử. Quý vị cũng biết tất cả bài pháp mà tôi thuyết giảng tại Singapore đây đều là những ca khúc sự thật. Chắc chắn không có ca khúc nào hay hơn ca khúc sự thật. Ðó là ca khúc bất diệt, trường sinh bất tử.

Nơi Phật Giáo Nguyên Thủy, hàng xuất gia không có khuynh hướng tà nghiệp nào được cho phép, không đưọc bói toán số mệnh, không được hành nghề kinh doanh, không được tiên tri thời vận hay thiên văn địa lý để trục lợi. Trong Phật Giáo Nguyên Thủy cũng không cho phép suy niệm, biện chứng dù là vấn đề triết học. Ðiều này bị cấm triệt để, cũng không được biện luận rằng Ðức Phật hữu hạn hay vô hạn.
Ðức Phật dạy: “Cuộc đời như ngôi nhà đang bừng cháy. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đang bừng cháy. Khi các ngọn lửa đang cháy tứ phía, ta đang ở trong ngôi nhà lửa như vậy làm sao còn có thì giờ để tranh luận với người khác?"
Bạn có thể say mê suy niệm về triết học không? Suy niệm về triết học có nghĩa là ngu si (vô minh). Bởi vì người tìm chân lý là người đã nhận ra sự thật sẽ chẳng bao giờ suy luận. Bởi vì vị đó là bậc tri kiến–người thấy chân lý. Trực diện, vị đó đã nhận biết chân lý, vị đó là chân lý, là Phật. Thế nên không còn suy luận nào nữa khi người ta đạt được chân lý? Sự kiện hiển nhiên mà người ta còn suy đoán chứng tỏ rằng vị đó còn ở trong bóng tối. Những người suy luận giống như người mới sinh ra đã mù. Khi người ta đem đặt một con voi giữa họ. Người mù rờ đụng vào chân con voi liền nói nó giống như cái cột nhà. Một người mù khác rờ đụng vào cái vòi con voi và nói nó giống như con rắn. Người khác nữa nắm cái tai con voi và bảo nó giống như cái quạt. Người mù tiếp theo rờ đụng cái bụng voi liền nói nó giống như bức tường. Một gã mù khác chạm vào cái vòi và nói nó giống như cái giáo. Trong khi bất đồng ý kiến với nhau, những nhà thông thái mù lòa bắt đầu đánh đập nhau bằng những cú đấm đá, trang cãi nhau quyết liệt: con voi giống như cột nhà. Không! Nó giống như con rắn. Không! nó giống như cái quạt mà. Không! Nó là bức tường. Không! Nó là cây giáo!...Tất cả họ đều đúng và đều sai. Thế nên nhà vua là người nhìn rõ toàn bộ con voi, bèn mỉm cười trong tâm khi thấy các hiền giả mù lòa này đang đánh nhau để xác định con voi là gì. Họ chỉ thấy một phần con voi chứ không thấy toàn bộ con voi. Quý vị có thể gọi các triết gia thông thái như Platon, Aristote, Socrates hay bất cứ triết gia nào; họ đều là những người mù khôn ngoan chỉ thấy một phần con voi chứ không thấy toàn bộ con voi! Nhà vua đã mở rộng nhãn quan trông thấy toàn bộ con voi là ai. Ðó là bậc tối thượng, là Ðức Thế Tôn! Ngài đã thấy toàn bộ con voi. Nhờ có tầm nhìn rộng nên Ngài biết con voi là gì. Thế nên ta đừng bao giờ suy đoán. Ta nên Thiền định và đạt cho được mục đích, mở rộng tri kiến, hãy nhìn toàn bộ phận con voi và sau đó mới biết con voi là gì.
Ta sẽ biết Niết Bàn là gì khi nào ta đạt được Niết Bàn. Mọi suy biện đều vô ích bởi vì chúng ta không có thì giờ để suy biện trong khi ngôi nhà đang cháy. Chúng ta không có thì giờ để suy luận, bàn cãi, chúng ta phải chạy nhanh ra cửa. Sau khi chạy ra ngoài thoát khỏi ngọn lửa đó chúng ta mới có thì giờ để suy đoán bàn luận. Nhưng chúng ta không cần suy đoán; bởi vì chúng ta chưa thấy, chưa nhận ra sự thật, và sau khi trở thành sự thật thì chúng ta mới biết rõ sự thật là gì.

Một đặc điểm nữa trong Phật Giáo Nguyên Thủy là không có lễ cầu nguyện, chỉ có sự tôn thờ sùng bái. Chúng ta quy ngưỡng Giáo pháp, quy ngưỡng Tăng Già và Trưởng lão Thánh Tăng. Chúng ta không cầu nguyện. Lễ cầu nguyện có nghĩa là xin, yêu cầu điều gì. "Hãy cho chúng con bữa ăn hôm nay”, đó là xin. Chúng ta không xin Ðức Phật bữa ăn hàng ngày. Thực ra chúng ta dâng cúng phẩm vật đến Ðức Phật, chúng ta không yêu cầu Ðức Phật ban cho ta điều gì. Tại sao? Vì Ðức Phật đã cho ta món quà chân lý cao quý nhất rồi; so với việc cúng dường phần phẩm vật hư hoại qua đêm thì thật nhỏ. Khi Ðức Phật cho ta món ăn tâm linh bổ ích, món ăn này tồn tại mãi và giúp chúng ta giải thoát mọi khổ đau.

Một điểm trọng yếu nữa như tôi đã nói trước kia rằng trong Phật Giáo không có thần và linh hồn. Mặc dù không có thần trong Phật Giáo, song Phật Giáo vẫn có cách khác, nghĩa là chỉ có Phật Giáo mới có thần. Không có tôn giáo nào khác có thần ngoại trừ Phật Giáo. Quý vị thấy có kỳ lạ không. Một đằng thì nói không có thần trong Phật Giáo, đằng khác lại nói chỉ có Phật Giáo mới có thần. Tại sao không có thần trong Phật Giáo? Vì Phật Giáo không có thần sáng thế, bởi vì Phật Giáo không tạo ra thế giới đau khổ này. Ðức Phật chủ trương diệt trừ sinh tử luân hồi và cống hiến Niết Bàn. Do đó Ngài là ân nhân của thế gian. Ðức Phật cứu vớt nhân loại thoát cảnh trầm luân thống khổ. Trong khi đó Ðấng Sáng Tạo lại đẩy nhân loại vào thế giới bất hạnh. Tôi biết chỉ có một đấng sáng tạo đó là Vô minh. Thế giới được hình thành hàng triệu lần trong mỗi khoảnh khắc, bởi vì thế giới là động chứ không tịnh. Lòng tham ái của tôi tạo nên thế gian này. Thế nên tôi phải đoạn diệt tham ái của tôi, diệt trừ thế giới của tôi. Khi mọi người diệt trừ được tham ái là họ điệt trừ được thế giới của họ. Kết quả sau đó sẽ chỉ là thực tại. Thế giới hư ảo sẽ ra đi và Niết Bàn thực tại sẽ an trú vĩnh viễn.

Tôi đã cố gắng gởi đến quý vị phần tinh hoa rạng rỡ của Phật Giáo Nguyên Thủy. Quý vị đã nhận ra rằng Phật Giáo Nguyên Thủy nổi tiếng là giản dị, vì tất cả chân Pháp, vạn hữu đều đơn giản không có gì phức tạp cả. Thế giới còn trong trình độ mẫu giáo. Rất ít người vươn lên đạt tiêu chuẩn cao hơn. Và tìm ra được những người tốt nghiệp tâm linh thì hầu như tìm kiếm trong vô ích. Khi một người tốt nghiệp ở môi trường học thông thường, vị đó nhận văn bằng tốt nghiệp cử nhân văn chương, tốt nghiệp cử nhân khoa học, bằng cao học, bằng tiến sĩ.v.v...Khi một người tốt nghiệp từ trường đại học tâm linh, vị đó sẽ nhận văn bằng Tâm linh, văn bằng Tu Ðà Hườn. Ðó là bằng cấp của người nhập lưu. Người ta phải tu tập cách nào để đắc quả Tu Ðà Hườn? Vị đó phải tu tập đoạn diệt niềm tin vào sự hiện hữu của một linh hồn, một linh hồn bất biến và bất diệt. Ta phải triệt phá các mối nghi ngờ nơi Phật, Pháp, Tăng, nơi Thánh giới. Ta cũng cần loại bỏ sự tin tường vào hiệu quả của nghi thức và cúng tế mà tôi đã lưu ý trước kia. Ngay khi đoạn diệt ba kiết sử đầu tiên, vị đó chứng quả Tu Ðà Hườn. Vị đó đang đi trên con đường Bát Chánh, bám chặc trên đường Ðạo. Có phải quý vị cũng đang đi trên con đường Bát Chánh? Hãy tự hỏi mình câu hỏi này. Nếu quý vị không phải là bậc nhập lưu thì quý vị không đi trên Thánh Ðạo. Quý vị đang nỗ lực tiến tới Thánh Ðạo, quý vị chưa tiến đến nhưng quý vị đang bước gần đến. Một khi quý vị thành bậc nhập lưu, quý vị đang đi trên đường Ðạo, quý vị sẽ chứng đạt Niết Bàn ít nhất bảy kiếp nữa chứ không quá bảy kiếp.

Văn bằng kế tiếp là gì? Ðó là quả vị TƯ ÐÀ HÀM. Vị đó dập tắt ba triền cái đầu (thân kiến, nghi kiến, giới thủ kiến) và làm yếu hai triền cái sau (tham dục, sân), vị ấy làm yếu tham ái và sân (làm yếu đi phân nửa), quả vị TƯ ÐÀ HÀM chỉ trở lại thế gian một lần, không quá một lần.

Văn bằng kế tiếp nữa là A NA HÀM. Ta đoạn diệt hoàn toàn năm triền cái một lần cuối rồi thôi. Ta đoạn diệt được ba triền cái đầu tiên, triền cái thứ tư, thứ năm, tham ái, sân. Ta đoạn diệt vĩnh viễn năm triền cái. Vị đó không bao giờ trở lại trần gian này nữa. Quý vị cũng nên nhớ rằng hiện có nhiều vị Alahán trên vũ trụ này. Nếu quý vị muốn nhìn thấy họ hãy lên cõi Trời Tịnh Cư. Nhờ khoa học chúng ta có thể liên lạc với các vị Alahán. Chúng ta có thể nhìn thấy họ qua truyền hình. Nếu quý vị không thể thực hiện được và cũng không thể chờ đợi lâu việc cải tiến khoa học hiện đại, xin hãy vui lòng qua nước Tây Tạng. Tôi nghe rằng có nhiều vị Alahán đang sống ở Tây Tạng hiện nay. Sau chuyến hoằng Pháp ở Mỹ về tôi sẽ cố gắng sang Tây Tạng để học hỏi quý Ngài.

Văn bằng kế tiếp nữa của trường Ðại Học Tâm Linh là quả vị A LA HÁN. Vị này đoạn diệt tất cả mười triền cái: năm triền cái đầu và năm triền cái sau. Sắc dục là tham tái sinh trong cảnh giới sắc; vô sắc dục là tham tái sinh trong cánh giới vô sắc, kiêu mạn, trạo cử và vô minh. Ngay đến một vị Anahàm dù sẽ không tái sinh ở trần gian nữa, song vẫn còn kiêu mạn. Kiêu mạn là yếu điểm sau cùng của bậc Ðại Thánh.
Một khi bạn tốt nghiệp trường Ðại học Tâm Linh này bạn mới thực sự là người tốt nghiệp. Có nhiều người mãn nguyện với bằng cấp thế tục. Họ nỗ lực thật gian khổ trong các kỳ thi để lấy bằng cử nhân văn chương, gắn liền với tên tuổi mình, nhưng đấy chỉ là những văn bằng nhất thời không tồn tại bao lâu. Sau khi đậu văn bằng tiến sĩ, tuổi đời cũng qua mau, bạn sẽ già, sẽ chết, rồi bạn lại tái sinh, rồi lại khởi sự đến lớp mẫu gláo, rồi năm tháng chồng chất, bạn lại phải dẫm chân trên những bước đường mệt mỏi để thi cử, rồi lại đến đỉnh cao tiến sĩ v.v... cứ như vậy mãi trong chu kỳ luân hồi đau khổ bất tận.

 --- o0o ---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét