Tứ vô lượng tâm là bốn tâm vô biên, vô lượng, không
có ngần mé, bao trùm tất cả chúng sanh. Tứ vô lượng tâm còn được gọi là bốn phạm trú (1) vì khi tu tập thành tựu bốn tâm
này rồi, sẽ cùng ở chung (cộng trú) với Phạm thiên, sẽ có đời sống phẩm hạnh
cao cả, thanh tịnh (2).
Tứ vô lượng tâm đó là: Tâm từ (mettā), tâm bi
(karuṇā), tâm hỷ (muditā) và tâm xả (upekkhā). Chúng chính là bốn đề mục (đối tượng, công án) để tu tập thiền định Sắc
giới, tức là thành tựu các trạng thái tâm thanh cao, lìa bỏ đời sống dục vật
chất. Nói cách khác, bốn tâm vô lượng này sẽ không được an trú nếu như các trạng thái tâm tham, sân, các tâm
sở bất thiện cũng như các triền cái chưa được yên lặng.
Tứ vô lượng tâm chỉ thật sự có mặt
trong nội tâm của người khéo tu tập, tinh cần và miên mật công phu thiền định
vậy.
A. TÂM TỪ (METTĀ)
Tâm từ là lòng từ ái, thiện ý, thiện ái, hảo tâm,
bác ái, nhiều tình thương... Dù với nghĩa nào đi nữa thì dường như vẫn không mô
tả được cái cốt lõi, tinh tủy, chân nghĩa của tâm từ. Người ta cũng thường nói
rằng, tâm từ là tình thương quảng đại, rộng lớn, bao trùm thiên nhiên, người
vật, cây cỏ. Định nghĩa ấy tương đối chính xác nhất. Tuy nhiên, mong rằng, tình
thương ấy không phải là lòng trìu mến, không phải là ái trước, không phải bắt
ta suốt ngày thương tưởng, không phải để ta "thể nhập", "đồng
hóa", "chan hòa" với chúng sanh, hoặc thấy ta với chúng sanh là
"một" (3).
Tâm từ là tình thương quảng đại, rộng lớn nhưng là cái gì làm cho ta và chúng
sanh cùng êm dịu, mát mẻ; là năng
lượng từ hòa thấm nhuần cả không gian, người, vật và cây cỏ. Nó bao trùm đồng
đẳng chứ không riêng biệt cho một ai. Nó bao la, mênh mông... với chân thành
ước mong cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, sức khỏe, trường thọ và hạnh
phúc.
Người
tu tập tâm từ phải lưu ý rằng: Tâm từ chỉ có thể nẩy nở, phát
triển trong môi trường mát mẻ, trong lành và hòa bình. Nó không dung chứa các
trạng thái tâm như sân hận, ác ý, hung dữ... Cũng có một số kẻ thù rất nguy
hiểm của tâm từ; chúng thường trá hình, hóa trang hoặc đeo mặt nạ... tới lui
lân la cận kề với tâm từ, rất khó nhìn ra chân tướng. Đó là tình thương liên
quan đến sắc tướng, hình thể, thân xác. Đó là luyến ái dung thường. Đó là sự
yêu thương chúng sanh chan chứa. Đó là những tình cảm tràn trề với tha nhân...
Tâm từ là tình thương rộng lớn, cao cả trong sáng;
không có bóng dáng của ái, của luyến, của chấp trước.
I.
Phương pháp tu tập tâm từ
Thông
thường người tu tập tâm từ và ban rải từ tâm hay niệm tưởng như sau: "Cầu cho tất cả chúng sanh đều
được hạnh phúc, an vui". Dĩ nhiên
với niệm tưởng như vậy cũng có một vài lợi ích nhất định; như lòng mình sẽ mát
mẻ, tâm mình được lớn rộng, xa lìa một phần nào đó cái tư kỷ của bản ngã. Nhưng
có điều ta phải biết, là tu tập tâm từ thuộc đề mục thiền định nên ta phải biết cách, phải có phương pháp,
phải biết tuần tự thứ lớp để thực hành. Nó đòi hỏi công phu, thời gian, tinh
tấn hành trì một cách nghiêm túc và đúng đắn. Nói rõ hơn, ta phải biết đi qua
các giai đoạn như sau:
-
Loại các chướng ngại ra khỏi tâm.
-
Những đối tượng chưa nên rải tâm từ.
-
Tuần tự thứ lớp những đối tượng nên rải tâm từ.
-
Phương pháp tu tập để có tâm từ và trưởng dưỡng tâm từ.
1. Loại các chướng ngại ra khỏi tâm
Những
chướng ngại của tâm từ là các trạng thái tâm lý: sân, ghét, ác ý, nóng nảy,
hung dữ... Nơi nào có mặt chúng là tâm từ không thể hiện hữu. Ta chẳng thể nào
gieo hạt mầm xanh giữa sa mạc lửa. Vậy, trước khi muốn tu tập tâm từ, ta phải
thu dọn tất cả chúng ra khỏi tâm. Muốn thế, hành giả phải niệm tưởng như sau: "Sân, ghét, ác ý, nóng nảy,
hung dữ... là mụn nhọt, là mũi tên tẩm độc, là cục bướu mưng mủ, là lửa nóng
địa ngục. Chính chúng thiêu đốt mọi thiện pháp, cản trở sự tiến bộ tinh thần;
tàn hại, hủy diệt mình và tất cả chúng sanh. Nói tóm lại là chúng sẽ giết chết
tâm từ từ trong trứng nước. Vậy ta phải làm cho chúng yên lặng, chúng vắng mặt,
loại chúng ra khỏi tâm vì hạnh phúc và an vui cho mình và người."
Hành
giả có thể đọc thành lời, có tiếng vang để trấn áp mình; sau đó, niệm tưởng
thầm ở trong tâm như vậy nhiều lần, hàng chục lần, hàng trăm lần... Tùy theo
công phu, nhiệt tâm, tinh cần... của từng người mà sự hiệu quả trải qua thời
gian khác nhau. Có người năm bảy ngày. Có người một, hai tháng... cho đến lúc
nào, khi tọa thiền, ta thấy tâm an ổn, vắng lặng, trong sáng, mát mẻ, nghĩa là không còn bóng dáng
của sân, ghét, ác ý, nóng nảy, hung dữ...
nữa, là ta có thể khởi sự tu tập tâm từ được rồi, tuy nhiên, còn có những đối
tượng chưa thể rải tâm từ được.
2. Những đối tượng chưa nên rải tâm từ
Sẽ
không hiệu quả, sẽ phản tác dụng, sẽ làm cho tâm từ thui chột, không tiên bộ...
khi ta rải tâm từ đến những đối tượng sau đây:
-
Người mà ta ghét: Đây là hạng người mà ta vốn có thành kiến,
ác cảm; người làm cho ta dễ phát sanh bực bội, cáu gắt, bẳn gắt, khó chịu. Với
đối tượng như thế, tức khắc sẽ là chướng ngại trực tiếp cho tâm từ. Vả chăng,
thật không dễ dàng gì, khi đặt một đối tượng đáng ghét như thế lên ưu tiên một
để biểu tỏ tình thương bao la, quảng đại của mình! Hãy lắng nghe phản ứng
nghịch của nó ra sao!
- Người mà ta rất yêu thương, trìu mến.
Với
đối tượng này thì dễ chịu quá, phải không? Nếu ta đặt đối tượng dễ chịu này vào
tầm ngắm thì tâm từ sẽ
thương ngay lập tức, sẽ dính đề mục
trong một sát-na! Và sự yêu thương, trìu mến kia sẽ tăng cường độ, áp sát, dính
mắc làm cho tâm từ không nỡ rời bỏ rồi phát sanh ái luyến nặng nề, rất nguy
hiểm vậy.
- Người mà ta không thương, không
ghét - tức là người ta thường dửng dưng: Với
đối tượng này mà bắt ta khởi tâm từ thì rất khó, rất mệt lòng. Nếu có nỗ lực,
cố gắng "thương" thì cũng phải trải qua thời gian rất lâu dài, người
thiếu trì chí sẽ rất dễ nản lòng.
-
Người mà ta thù hận: Với đối tượng này dĩ nhiên lại càng khó
khăn, vì hành giả sẽ nổi tâm sân ngay lập tức.
-
Người khác giới tính: Đây là đối tượng nguy hiểm đệ nhất. Người
nữ là nguồn cảm hứng ái dục vô biên cho người nam, và trái lại. Khi ấy ái dục,
ái luyến sẽ khoác áo và đeo mặt nạ từ tâm để lang thang yêu thương người này
người kia vô tôi vạ.
-
Người đã chết: Với đối tượng này mà tu tập tâm từ sẽ không
có hiệu quả; sẽ không tiến triển được chút gì, sẽ hoài công vô ích.
3. Tuần tự thứ lớp những đối tượng nên rải tâm từ
Trước
tiên, tâm từ phải được rải đến chính mình. Phải có từ tâm với chính mình trước
khi rải từ tâm đến kẻ khác. Tuy nhiên, ta và người khác phải bình đẳng nhất như trong làn khí của
tâm từ, sự tu tập mới có hiệu quả. Nếu
ta không hiểu điều ấy, mà cứ niệm: "Mong rằng tôi được an lạc, hạnh
phúc; mong rằng tôi thoát khỏi hận thù, oan trái và sống trong hạnh phúc, an
vui", thì dù niệm 100 năm, 1000
năm cũng không đắc định (4).
Ngược lại, ta niệm: "Mong rằng người ấy được an lạc, hạnh
phúc", thì tâm từ cũng không
thành tựu.
Hành
giả phải biết rằng, dù lấy bản thân làm đối tượng cho tâm từ, thì đồng thời,
tâm từ phải được bao trùm đến đối tượng khác. Phải niệm như sau: "Cầu mong cho tôi được an lạc,
hạnh phúc, và bạn tôi, cũng được an lạc, hạnh phúc như thế."
Những
đối tượng khác, chúng sanh khác có thể dễ dàng cho tâm từ hướng đến, đầu tiên
là những người khả ái, khả kính. Ví dụ: Thầy Hòa Thượng Thế Độ, Thầy Tiếp Dẫn
cho mình, thầy mình nương tựa hoặc các vị Giáo thọ sư đã không quản ngại công
lao dạy dỗ cho mình nên người.
Ta
có thể niệm tưởng: "Cầu
mong cho tôi được an lạc, hạnh phúc; và ước vọng rằng, con người hiền thiện,
đáng kính ấy cũng được an lạc, hạnh phúc như thế." Với đối tượng như thế, niệm tưởng như thế mới chính xác là tu tập tâm
từ.
Sau
đó, muốn tiến xa hơn, hành giả phải biết phá vỡ những hàng rào ngăn, rồi tuần
tự thứ lớp rải tâm từ đến những đối tượng khác, như sau:
-
Đến người bạn mà ta rất yêu mến.
-
Đến người mà ta dửng dưng.
-
Đến người mà ta ghét.
-
Đến người mà ta thù...
4. Phương pháp tu tập và trưởng dưỡng tâm từ
Thế
nào là phá vỡ hàng rào ngăn?
Khi
ta rải tâm từ bao trùm ta và đối tượng, tâm từ thuần thục, thì giữa ta và đối
tượng đã xóa mờ khoảng cách, không còn một chướng ngại nào. Nghĩa là, giữa ta và đối tượng đã thành tựu
tính bình đẳng nhất như. Sau đó mới
hướng tâm từ đến ta và đối tượng khác, và cũng phải thành tựu tính bình đẳng
nhất như như thế.
Vượt
qua các giai đoạn này là khi ta thấy giữa mình, người mình yêu mến, người mình
dửng dưng, người mình ghét, người mình thù..., chẳng ai quan trọng hơn ai,
chẳng ai không bình đẳng trong làn khí mát mẻ của tâm từ. Khi ấy gọi là tâm từ
đã được tu tập, đã được an trú.
Có
một ví dụ về tính bình đẳng nhất như, như sau: "Ta cùng với 4 người khác đang ngồi trong một khu rừng: một người
ta yêu mến, một người ta dửng dưng, một người ta ghét, một người ta thù! Có một
tên cướp đến bên ta, bảo: ông hãy chỉ một người để ta cắt cổ tế thần, ta sẽ tha
cho những người còn lại!" Trong trường hợp ấy thì ta sẽ xử
sự ra sao? Nếu ta chỉ một người nào đó, ngoại trừ ta, là tâm từ của ta chưa
bình đẳng với họ! Nếu ta lựa chọn mình để cứu bốn người kia, là tâm từ của ta
chưa bình đẳng với chính ta!
Xét
rằng:
- Trường
hợp thứ nhất là rơi vào ý niệm hại người.
- Trường
hợp thứ hai là rơi vào ý niệm tự hại mình.
Tự hại mình hoặc hại người đều là
chưa phá vỡ được rào ngăn, tâm từ sẽ chưa được tiến triển. Phải nuôi lớn tâm từ, trưởng dưỡng tâm từ,
cho đến lúc nào đó ta cảm nhận rằng: giữa ta và bốn người kia không nên
để ai bị cắt cổ cả. Tính bình đẳng
nhất như lúc ấy mới tựu thành, mới viên mãn.
Đến
giai đoạn này, tính bình đẳng nhất như này, do tưởng tạo
thành, sẽ hiện ra một tướng, hành giả cứ nhất tâm an trú vào tướng ấy.
Trải qua sự tu tập và an trú này, năm triền cái lần hồi sẽ được lắng dịu và năm
thiền chi sẽ tuần tự xuất hiện. Nếu nhiệt tâm và tinh cần thêm nữa, hành giả sẽ
đi vào cận hành định, rồi đạt an chỉ định, tức là định sơ thiền (có tầm, có tứ).
Từ
sơ thiền, vị ấy an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ. Cũng vậy,
phương thứ 2, phương thứ 3... vô lượng, vô biên, cao cả, không hận, không sân,
không não... rồi cùng khắp cả mười phương thế giới.
Tâm
từ nếu cứ tuần tự tu tập như vậy, lớn rộng thêm, quảng đại thêm, biến mãn hơn,
hành giả lần lượt đắc đệ nhị thiền, đệ tam thiền (5) (trong hệ thống tứ thiền. Hoặc đắc đến
đệ tứ thiền (trong hệ thống ngũ thiền). Và đắc các tầng thiền ấy được gọi là
Phạm trú (cộng trú với Phạm thiên).
II. Phước báu cùng sự lợi ích của người tu tập tâm từ
Đức
Phật dạy rằng: "Này
các thầy Tỳ-kheo! Khi từ tâm giải thoát đã được tu tập, được làm cho sung mãn,
được làm thành bánh xe, được có nền tảng vững chắc, được an trú khéo léo, được
củng cố bền bỉ, được huấn luyện thích đáng... thì sẽ có được 11 lợi ích to lớn
vậy."
Mười
một lợi ích ấy là như sau:
1. Giấc ngủ được an lành, an lạc: Ngủ không trằn trọc, không quay qua quay
lại, không ngáy, không rên, đi vào giấc ngủ một cách nhẹ nhàng, mát mẻ như đi
vào cõi thiền.
2. Thức trong an lạc: Sớm mai thức dậy rất thoải mái, không có bực dọc, cau có, không ngáp
ngắn, ngáp dài. Thức dậy với sắc mặt như đóa hoa tươi thắm trong nắng ấm ngày
xuân.
3. Không chiêm bao ác mộng: Nếu có nằm mộng thì
thường thấy mộng lành như thấy bảo tháp lộng lẫy, huy hoàng; thấy chùa chiền
trang nghiêm, thanh tịnh; thấy điện Phật ngạt ngào trầm hương; thấy hoan hỷ lễ
bái cúng dường; thấy nghe Pháp, tụng kinh; thấy rừng hoa thơm lừng nở rộ; thấy
những cung điện nguy nga, sang trọng ở các cảnh trời... Không có những ác mộng
như bị giặc vây, lửa đốt, té xuống vực sâu, thú dữ ăn thịt, hoặc thấy dao đâm,
tên bắn, cưa xẻ người, hầm phân dơ uế...
4. Được mọi người yêu mến: Ở đâu ai cũng thương, cũng mến; đến đâu cũng được người giúp đỡ, bảo bọc;
không có người ghét, kẻ thù.
5. Được phi nhân ưa thích: Phi nhân là không phải người, có thể là các loại địa tiên, thọ thần,
a-tu-la, dạ xoa... Người có tâm từ ở đâu là xung quanh đó đều được mát mẻ, an
lành; các loài phi nhân ở xung quanh được hưởng không khí hòa bình, an lạc, nên
thường được chúng quý trọng, mến yêu.
6. Được chư thiên hộ trì: Đối với người có tâm từ, chư thiên rất mến yêu nên họ sẵn lòng hộ trì,
che chở... như cha mẹ bảo hộ cho đứa con một.
7. Lửa, độc chất, khí giới không làm hại được: Khi hành giả an trú tâm từ thì thân tâm vị
ấy được bao trùm bởi một thứ điện năng đặc biệt, chẳng gì có thể xâm hại, xâm
phá được (Khi đang an trú tâm từ thì có năng lực như vậy, nhưng khi xả thiền,
không còn an trú từ tâm thì vẫn bị hại, bị xâm phạm).
8. Tâm không tán loạn: Tâm vị ấy luôn được tập trung, luôn luôn được dễ dàng an trú, luôn
định tỉnh, ổn định, trầm tĩnh. Vị ấy muốn đi vào định không thời gian nào cũng
được.
9. Sắc mặt luôn mát mẻ, khinh an, thư thái: Nghĩa là nhờ năng lực tâm từ tỏa ra, vị ấy
luôn tươi vui, hoan hỷ, không nói nặng lời ai, không nóng nảy; thường trực
khoan hòa, từ ái, dịu hiền, mềm mỏng... Khí sắc vị ấy luôn tươi nhuần phỉ lạc.
10. Lúc lâm chung không mê loạn: Do nhờ chánh niệm với từ tâm, vị ấy làm chủ được tử niệm cuối cùng nên
dễ dàng ra đi như đi vào một giấc ngủ ngon.
11. Sanh vào Phạm thiên giới: Nếu vị ấy không chứng quả cao hơn thì khi hết đời này, sẽ hóa sanh vào
Phạm thiên giới như thức dậy từ một bình minh đẹp trời.
Nhờ
những khả tính vi diệu của tâm từ như vậy, nên ta có thể cô đọng bằng mấy câu
lục bát tứ tuyệt:
"- Từ tâm suối ngọt trong lành
Từ tâm gió mát, trăng thanh đầy
lòng
Từ tâm rưới khắp cõi hồng
Trời, người an lạc - mênh mông thái
hòa".
B. TÂM BI (KARUṆĀ)
Tâm bi là lòng bi mẫn, biết thương xót, biết rung
động trước sự đau khổ, bất hạnh của người khác; là muốn xoa dịu, chia xẻ, ủi an
người khác trước hoạn nạn, trước nghịch cảnh, thống khổ, neo đơn, cô quả, tai
ương, tật nguyền, đói rách...
Tâm bi còn được định nghĩa là lòng trắc ẩn cao
thượng, nó bao trùm đồng đẳng tất cả những chúng sanh đau khổ, bất hạnh trên
thế gian. Và, cao cả hơn thế nữa, lòng trắc ẩn ấy còn bao trùm cả những
người có địa vị cao sang, quyền quý, cả những người đang sùng bái chủ nghĩa hư
vô, hiện sinh, tà kiến, tà giáo... Tâm bi
ấy thương xót những kẻ đang đắm say bả vinh hoa, quyền thế, quyền lực, danh
vọng, địa vị... sớm còn tối mất trên trần thế... rồi một mai kia khi phủi tay
hết cuộc sẽ gánh chịu những hậu quả đắng cay. Tâm bi ấy thương xót những kẻ lắm bạc nhiều tiền...
vẫn còn mải mê, trăm phương nghìn cách thâu góp của cải, tài sản...; mà đâu
biết rằng, tội báo, ác nghiệp và tử thần với lưỡi hái lạnh lùng sẽ không tha
thứ cho một ai? Tâm bi ấy rung
động, xót thương cả những người không biết gì về thiện ác, nhân quả nghiệp báo;
mãi sống trong bóng tối của hư vô và tà kiến; biết bao giờ ánh sáng sự
thật mới soi chiếu đến họ?
Quả
thật, nếu từ tâm có năng lượng mát mẻ, từ hòa, là dòng suối
ngọt cho nhân sinh, thì tâm bi chính
là trái tim dễ cảm ứng, không những sự đau khổ của người khác trong hiện tại,
mà cả hậu quả họ sẽ gánh chịu trong tương lai (Hiện tại chúng nghĩ là chúng
đang sung sướng, hạnh phúc).
Cũng
vì bi tâm rộng lớn này mà Bồ-tát của chúng ta trong rất nhiều kiếp tiền thân đã
ra biển tìm ngọc trai để giúp đỡ áo cơm đến người đói khổ. Nhiều kiếp đã bố thí
của cải, tài sản, áo cơm đến muôn người bất hạnh. Nhiều kiếp đã hy sinh một
phần của thân thể hay cả tính mạng vì sự sống hoặc vì an toàn cho chúng sanh
khác.
Cũng
vì bi tâm này mà Bồ-tát tu tập công hạnh ba-la-mật, tìm phương thuốc diệt khổ
cho chúng sanh. Cũng vì tâm
bi này mà đức Phật cứu độ kẻ sát nhân,
cô gái giang hồ cùng những kẻ tội lỗi hay người nô lệ, cùng đinh...
Tâm từ với năng lực quảng đại bao trùm đồng đẳng
thì tâm bi cũng vậy; nó không
phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, nam nữ, trẻ già, huyết thống, tên quần
rách áo ôm hay bậc vương giả vinh hoa xa xỉ... Hễ đâu có đau khổ là tâm
bi có mặt và sẵn sàng cứu giúp, chia
xẻ, hỗ trợ... với tâm rộng lượng.
Nói
tóm lại, trái tim và
đôi mắt xanh của tâm bi thường rung động và nhìn thấu suốt miền khổ đế của trần
gian.
Ngày
nay, trước các thế lực hiểm ác, bạo tàn do chủ nghĩa dân tộc cực đoan, do chiến
tranh kinh tế, chiến tranh tôn giáo, nạn khủng bố... đã làm đổ máu, điêu tàn và
tang tóc khắp mọi nơi. Các hiểm họa xì-ke, ma túy, mãi dâm, buôn bán trẻ con,
HIV, các bệnh dịch siêu vi, hạn hán, bão lụt, cháy rừng, động đất, ô nhiễm môi
trường... đang hăm dọa sự sống của cả hành tinh xanh, làm cho các bậc thức giả,
kẻ có lương tri, đã lên tiếng báo động S.O.S. Tâm bi cần có mặt trong lúc này hơn lúc nào hết
để hành động, để san sẻ, cảm thông, cứu giúp.
Điều
đáng mừng là ngày nay với nền văn minh tin học hiện đại, kinh tế toàn cầu, đã
làm cho các quốc gia xích lại gần nhau chỉ trong mấy nút bấm. Các lục địa giàu
đã biết đưa mắt nhìn qua các lục địa đói khổ, và tìm cách giúp cho những nơi
này phát triển cơm áo (6). Các tổ
chức hội đoàn từ thiện đã đi khắp năm châu bốn biển, và họ đã xem nhân loại,
trái đất là ngôi nhà chung để cứu ứng và tương trợ lẫn nhau.
Tất
cả đấy chỉ là hiện tướng một phần nào ở bên ngoài của tâm bi chứ chưa phải trọn vẹn, thực chất của tâm bi (7).
Tuy nhiên, chừng ấy cũng đã quý lắm rồi!
Cuối
cùng, điều ta cần biết rõ: Kẻ thù trực tiếp của tâm bi là
ác độc, tàn bạo. Nơi nào có ác độc, bạo tàn thì nơi ấy tâm bi bị đốt cháy, thiêu rụi. Kẻ thù gián tiếp
của tâm bi là những giọt nước
mắt bi lụy, sướt mướt, âu sầu, buồn bã. Tướng trạng của nó rất gần với tâm
bi, hóa trang khoác áo tâm bi nên chúng ta rất dễ ngộ nhân.
Ôi! Đóa hoa tâm bi dịu dàng, mềm mại, thơm hương,
tinh khiết dường bao giữa thế giới thiếu vắng trái tim, ác độc và bạo tàn này.
I.
Phương pháp tu tập tâm bi.
Cũng tương tự như tu tập tâm từ, không phải cứ có lòng trắc ẩn, bi mẫn với chúng sanh, thương cảm
trước nỗi khổ của chúng sanh là có được bi vô lượng. Nó là đề mục thiền định nên phải có phương
pháp tu tập, tuần tự thứ lớp thực hành, nhiệt tâm và tinh cần mới khả dĩ an trú
bi tâm được. Nói rõ hơn, ta phải kinh qua các giai đoạn
sau:
- Loại các chướng ngại ra khỏi tâm.
- Những đối tượng chưa nên rải tâm bi.
- Tuần tự thứ lớp những đối tượng nên rải tâm bi.
- Phương pháp tu tập và trưởng dưỡng tâm bi.
1. Loại các chướng ngại ra khỏi tâm
Nếu nóng nảy, ganh ghét, hung dữ, trái ý, nghịch
lòng, bất mãn... (sân ít, vừa phải) là chướng ngại của tâm từ, thì bạo tàn, độc
ác, thù hận (sân nhiều, bộc phát mạnh) là chướng ngại của tâm bi. Vậy muốn tu tập tâm
bi, việc đầu tiên là phải thu dọn, loại trừ các
trạng thái tâm lý chướng ngại ấy ra khỏi tâm.
Phải niệm tưởng rằng: "Độc ác,
bạo tàn, thù hận là mũi tên tẩm độc, là ung nhọt mưng mủ, là cục bướu gớm
ghiếc, là lửa nóng địa ngục. Chính chúng làm dơ bẩn tâm ta, làm uế trược tâm
ta. Chính chúng là thủ phạm thiêu đốt mọi thiện pháp, cản trở sự tiến bộ tinh
thần, tàn hại, hủy diệt mình và nhiều sinh chúng khác. Nơi nào có ác độc, bạo
tàn là nơi ấy giết chết bi tâm. Vậy ta phải làm cho chúng lắng dịu, vắng mặt vì
hạnh phúc an vui cho mình và người".
Chính nhờ sự niệm tưởng, nghĩ tưởng hoài như
vậy, ác độc, bạo tàn, thù hận (nếu có) mỗi ngày mỗi giảm nhẹ, lắng dịu; và đến
lúc nào đó, chúng sẽ biến mất. Chính ở đây, từ trạng thái tâm hòa bình, an ổn,
trong sáng, vắng lặng này; ta bắt đầu "hạ thủ công phu" để tu tập tâm bi
vô lượng.
2. Những đối tượng chưa nên rải tâm bi
Là những đối tượng sẽ không thích hợp với trạng
thái tâm tu tập sơ khởi của bi. Những đối tượng này sẽ làm
cho tâm bi không thể hiện khởi, phát triển, trái lại có thê
tạo phản ứng nghịch làm cản trở sự tu tập. Cũng có thể, nếu kiên trì sẽ thành
công nhưng phải trải qua thời gian dài lâu, và nếu vậy sẽ không có lợi cho sự
an trú tâm vào buổi đầu.
Sau đây là những đối tượng chưa nên rải tâm bi.
- Những người thân như cha mẹ, vợ chồng,
anh em, quyến thuộc...
Tại sao, đầu tiên, những đối tượng này không phù
hợp cho tâm bi? Ta phải biết rằng, đây là những người ta hằng yêu mến,
nếu lấy họ làm đối tượng để khởi phát tâm bi thì ta dễ
sai phạm biến từ thương
xót ra thương yêu. Từ thương yêu sẽ biến thành luyến ái buộc ràng, vô tình ta tạo
thêm chướng ngại đồng dạng khác rất nguy hiểm vậy. Là những người thân, ta hãy giữ nguyên địa vị họ là những người thân. Cứ để y như vậy đã.
- Những người bạn rất thân.
Tuy không trở ngại nguy hiểm như đối tượng trên,
nhưng nó cũng dễ sinh ra sự thương luyến, là bà con với ái luyến, nhưng cường độ nhẹ hơn một chút mà thôi. Và khi từ thương xót mà biến
thành thương luyến là ta đã đi sái ngoài phạm trù của tâm bi rồi. Đấy là một chướng ngại. Đối với những người bạn rất thân, ta hãy
giữ nguyên họ là những người bạn rất thân. Cứ để y như vậy đã.
- Những người dửng dưng.
Vì là người dưng, nước lã hoặc những đối tượng
ta dửng dưng thì quả là rất khó cảm qua cái nhìn ban đầu. Đã là khó cảm thì rất
khó khởi tâm thương xót. Nếu lấy những đối tượng này mà tu tập, lâu ngày không
thấy tiến bộ dễ sinh nản chí. Khi mà nản chí thì lòng tin (8) dễ lung lay, nhiệt tình sẽ nguội lạnh,
khá nguy hiểm vậy. Đối với những người dửng dưng ta hãy giữ nguyên vị trí họ là những người dửng dưng. Cứ để y như vậy đã.
- Những người dễ ghét, khó ưa.
Với loại đối tượng này mà khởi tâm bi,
xem chừng sẽ bị phản ứng nghịch. Vừa để tâm vào đề mục, thương xót không khởi lên, mà
âm ỉ trong lòng những bực bội, khó chịu, bất bình, tức giận... cứ muốn bùng
lên. Những trạng thái tâm lý ấy là thuộc tính của tâm sân.
Và khi mà sân có mặt thì đấy là môi trường chẳng thuận lợi chút nào
cho tâm bi nảy mầm, xanh lá. Vậy hãy để nguyên vị trí người dễ
ghét, khó ưa ở đấy, khoan
hướng tâm đến vội.
- Người mà ta thù oán.
Nếu lấy đối tượng người dễ ghét, khó
ưa... thì sân chỉ âm ỉ trong lòng; nhưng đối tượng là người ta thù oán
thì sân sẽ bộc phát dữ dội; và nó sẽ giết chết tâm bi ngay tức khắc. Đấy
chẳng khác gì ta muốn gieo hạt hoa ở trong đống lửa. Hoặc như ta đốt một đống
than hồng để mong hứng được mấy giọt sương trời! Việc làm ấy vô ích như thế nào
thì tu tập tâm bi với đối tượng ta thù oán cũng tương tự thế. Hãy để
nguyên vị trí đối tượng này như vậy đã.
- Là người khác giới tính.
Cũng như từ tâm, bi tâm mà hướng đến đối tượng này thì những
trạng thái tâm lý như thương yêu, trìu mến, luyến ái sẽ giả dạng thương xót để có mặt trong tâm hành giả. Rất nguy
hiểm.
- Với người đã chết.
Tương tự như từ tâm, sẽ không có hiệu
quả.
3. Tuần tự thứ lớp những đối tượng nên rải tâm bi
Trước tiên, tâm bi dễ dàng khởi lên đối với những người kém may mắn, khốn
khổ, bất hạnh; những người đói cơm, rách áo; những người tật nguyền cụt hết tay
chân, bị phong cùi khoét sâu mặt mũi, những người mụn ghẻ, ung bướu lở loét hôi
hám, ruồi nhặng bu đầy, những người lê lết tấm thân tàn nơi quán chợ, sân
đình... Với những đối tượng ấy, tâm bi
sẽ khởi lên: "Khốn khổ, bất hạnh thay là người này, cầu mong cho y sớm thoát
khỏi sự thống khổ, đau đớn".
Sau những đối tượng khốn khổ, bất hạnh
nêu trên, bi tâm có thể hướng đến những người do tham ác mà phải gánh chịu hậu
quả tra tấn, tù đày, ngục hình, xử trảm... Bi tâm sẽ niệm tưởng: "Thương xót thay là những người này, do
ngu si, tham ác, thiểu trí... đã tạo tác những hành động bất thiện, bây giờ
phải bị trả quả báo ác nghiệp. Cầu mong cho chúng sớm thoát khỏi tội hình".
Thứ đến, lòng trắc ẩn cũng dễ dàng khởi
sanh với những người do cờ bạc rượu chè mà thân tàn ma dại; do xì ke, nghiện
hút mà sống vật vờ như hình ma, xác quỷ. Rồi đến những đối tượng bị nhiễm HIV,
những người mắc bệnh tứ chứng nan y, những người sống trác táng, sa đọa, những
tên trộm cắp, giết người...
Khi bi tâm đã bao trùm khá rộng rãi như
thế, và hành giả cảm nhận rằng, chẳng có một vướng mắc nào, chẳng có một chướng
ngại gì ngăn trở, tâm bi có thể khởi đến
một số đối tượng khác:
- Những người do tà mạng, ác hạnh mà có
được của cải, tài sản...
- Những người do mưu mô thâm độc, xảo
trá mà có được danh vọng, địa vị...
- Những người do mưu mô xảo quyệt, gian
trá, lừa gạt, thủ đoạn mà được nhiều lợi lộc, gia sản, tiên nghi vật chất...
- Những người do tham nhũng, hối lộ,
làm ăn phi pháp, bất chánh... mà có được đời sống "vinh thân phì
gia"...
- Những người có lòng dạ tiểu nhân, do
nịnh nọt, cúi luồn, bợ đỡ... mà có được sự nghiệp, quyền lực...
Sau những đối tượng ấy, tâm bi còn bao trùm cả:
- Những thiện nhân, những người lành
tốt nhưng bắt đầu bị phá sản (9) về sức khỏe, phá sản về quyến
thuộc, tài sản, phá sản về danh vọng, địa vị...
- Những người đang say đắm vật chất,
vinh hoa...
- Những người mải mê săn đuổi tham
vọng, quyền lực...
- Những người ngu si, cuồng tín...
- Những người hiếu sát, bạo tàn...
- Những người vô luân, phi đạo đức, bất
tín, bất nghĩa...
- Những người theo tà kiến, hiện sinh,
tà giáo, hư vô chủ nghĩa...
Đến đây, tâm bi đã lớn rộng, quảng đại lắm rồi, nên dễ dàng bao trùm
luôn các đối tượng sau - mà trước đây ta rất khó vượt qua:
- Bản thân mình.
- Cha mẹ, vợ con, anh em cùng thân bằng
quyến thuộc.
- Bạn rất thân.
- Người dửng dưng.
- Người dễ ghét, khó ưa.
- Người mình căm thù.
- Người khác giới tính.
Điều cần lưu ý là từ đối tượng này sang
đối tượng khác, luôn phải phá vỡ hàng rào ngăn để không còn khoảng cách nào,
rồi tu tập tướng tâm bi ấy cho đến lúc
hoàn hảo, sung mãn.
4. Phương pháp tu tập và trưởng dưỡng tâm bi
Tâm bi cũng là đề mục tu tập thiền định như
tâm từ, nhưng có điều khác với tâm từ.
Ở tâm từ, "cầu mong hạnh phúc, an lành cho mình và cho người khác". Vậy, mình và người khác nằm chung
một lời cầu mong, một niệm tưởng.
Tâm bi không như thế. Tâm bi khởi tâm thương xót đến
người khác, nhưng trong đó không có khởi tâm đến bản thân mình. Bản thân mình cũng là một đối tượng
cho tâm bi, nhưng là đối tượng riêng lẻ, riêng
biệt, độc lập, theo tuần tự thứ
lớp như đã trình bày ở trên.
Ở tâm từ, ban đầu dường như rải đến cho
hai đối
tượng, nhưng khi ta và
người đã xóa mờ khoảng cách, sự phân biệt, rào ngăn không còn nữa, chỉ còn hiện
hữu một tướng của tâm từ trong không gian
nhất như (10). Từ nhất tướng tâm từ ấy hành
giả đi vào nhất tướng tâm định.
Tâm bi chỉ
có một tướng nên dễ chuyên
nhất, dễ an trú hơn, nhưng muốn tu tập có hiệu quả để được sung mãn tướng tâm định, ta phải biết tuần
tự thứ lớp đi theo các loại đối tượng và tuần tự thứ lớp các giai đoạn.
4.1. Giai
đoạn 1
Ví dụ, tâm bi lựa chọn một đối tượng khốn khổ, bất hạnh: là người cụt
cả 2 chân, 2 tay.
Đầu tiên, ta nghĩ đến người ấy, tức
khắc người ấy hiện ra (11).
Ta quan sát (dĩ nhiên là do tưởng tạo thành) 2 chân, 2 tay của người ấy rồi
niệm tưởng rằng: "Ôi! Khốn khổ thay! Bất hạnh thay! Vậy thì bạn sẽ ăn uống, đi
đứng, đại tiểu tiện ra làm sao? Chẳng rõ bạn bị nghiệp gì mà chịu quả kinh
khiếp như thế. Cầu mong sao cho bạn sớm thoát khỏi ác báo thống khổ này".
Với sự nghĩ tưởng chân tình như thế,
trái tim hành giả sẽ bắt đầu xao xuyến, rung động, rồi môt niềm thương xót vô
bờ tràn ngập tâm tư hành giả. Và lúc ấy chỉ hiện hữu duy nhất cảm xúc ấy thôi.
Ở đây nhất tướng tâm bi đã hình thành. Từ
nhất tướng tâm bi ấy, hành giả nhiệt
tâm tinh cần an trú mãi, 5 triền cái sẽ lần lần lắng dịu và 5 thiền chi sẽ lần
lượt xuất hiện. Nói theo Thanh Tịnh Đạo, hành giả có thể đạt cận hành định hoặc an chỉ định ở
giai đoạn này.
4.2. Giai
đoạn 2
Đến đây, tâm bi bắt đầu từ bỏ phạm vi nhỏ hẹp, giới hạn để mở rộng,
hướng tâm đến những đối tượng đáng xót thương khác (như mục 3).
Khi một đối tượng được tâm bi bao trùm, được an trú nhất tâm, đến
chỗ cận hành hoặc an chỉ, hành giả mới có thể dời sang đối tượng khác. Cứ tuần
tự tu tập viên mãn từng đối tượng như vậy cho đến lúc tâm bi với không gian xung quanh đã được nới rộng, mỗi lúc mỗi
được củng cố, tăng trưởng.
4.3. Giai
đoạn 3
- Vẫn tiếp tục mở rộng phạm vi, mở rộng
bao giờ đến những đối tượng người dễ ghét, khó ưa, người mình căm thù, người khác
giới tính... mà tâm bi vẫn không bị chướng ngăn, trở ngại
hoặc phản ứng nghịch thì tướng tâm bi
vô lượng đã bắt đầu hình thành.
Từ tướng tâm bi vô lượng sơ khởi này, hành giả hướng tâm đến phương
đông, bao trùm tất thảy những chúng sanh đáng thương xót ở phương đông. Đến lúc
tất thảy chúng sanh ấy đều được bao trùm bởi nhất tướng tâm bi, hành giả an trú trên nhất tướng tâm bi
ấy để đi vào cận hành hoặc an chỉ định. Rồi cứ thế... phương nam, phương tây, phương bắc... cho đủ 10 phương.
Chính ở đây, hành giả đã làm cho sung mãn bi vô lượng, không hận, không sân,
cao cả, vô giới hạn vậy. Hành giả càng lúc càng thuần thục với bi vô lượng, đạt
sơ thiền có tầm có tứ, bỏ tầm sang nhị thiền, bỏ tứ sang tam thiền, bỏ hỷ sang tứ thiền (hệ thống ngũ thiền). Và tứ thiền là mốc
cuối cùng của bi vô lượng, không thể sang ngũ thiền được (12).
II. Phước báu cùng sự lợi ích của người tu tập tâm bi
- Nếu từ là cho vui, thì bi là cứu khổ.
Có người do duyên, nghiệp, tâm cảm, sở thích, cá tính... cho vui là dễ nhưng
cứu khổ lại khó. Hoặc ngược lại. Tuy nhiên, tu tập từ hay bi tương tợ nhau, cả
hai đều có cùng một đối trị là tâm sân, chỉ khác là cường độ mạnh, yếu khác
nhau mà thôi. Khi thành tựu từ hay bi vô lượng, hành giả dường như đều cảm nhận
chung một làn khí mát mẻ chan hòa cả không gian, người, vật và cây cỏ. Đấy là
năng lượng bình đẳng, nhất như của từ bi vô lượng.
Do vậy, phước báu và lợi ích của bi vô
lượng tương tự từ vô lượng, có đầy đủ 11 phước báu tương tự nhau.
Bèn có thơ rằng:
"- Bi hoa thơm ngát, dịu hiền
Thường hay rung động giữa miền biển dâu
Xót thương sớt khổ, chia sầu
Là Bi vô lượng, kinh cầu trong tâm".
C. TÂM HỶ (MUDITĀ)
Trạng thái tâm tốt đẹp, thanh lương,
cao cả, cao thượng thứ ba của vô lượng tâm là tâm hỷ.
Hỷ, đơn giản là mừng vui, ai cũng hiểu
rồi, nhưng chắc hẳn không phải là những mừng vui quá thô lậu và quá trần tục.
Nó là mừng vui thanh cao, thiện hiền, trong sáng. Nó dịu dàng và tinh khiết như
nụ hoa hàm tiếu vui với giọt sương xanh trên đầu núi. Nó trong lành và thanh
thoát như những hạt nắng reo vui trên ngàn lá. Nó đôn hậu, thuần hậu, chân
tình, thủy chung như ánh trăng bên mái cỏ của bậc ẩn sĩ Muni.
Như vậy, hỷ là mừng vui nhưng là mừng
vui nhẹ nhàng, vô nhiễm, thanh khiết, vắng mặt bóng tối của tư kỷ, vị kỷ, tham
sân; vắng mặt các yếu tố, điều kiện của thế giới vật dục lắm bụi bặm và nhiều
phiền não ở bên ngoài.
Thế gian mừng vui là vì có vợ hiền, con
thảo, đoàn tụ gia đình, trúng độc đắc, xây nhà cao cửa rộng, sắm xe cộ, ti vi,
tủ lạnh, đỗ đạt, thành tựu danh vọng, địa vị, sự nghiệp... Tất cả sự vui mừng
ấy là cái có thật trên thế gian, cần thiết cho thế gian, hạnh phúc cho thế
gian. Nhưng Bậc giác ngộ thì thấy rõ tính chất giả tạm, phù du của chúng. Tất
cả sự mừng vui ấy thường phụ thuộc vào các yếu tố, điều kiện ngoại lai... nên chúng bấp bênh, dễ tan, dễ vỡ...
Nói cách khác, chúng là mừng vui được nương tựa bởi người khác hoặc bởi vật
chất, tiền tài ở bên ngoài. Do vậy, chúng thô trược, thô tháo và ẩn chứa nhiều
bụi bặm, gian truân và phiền não.
Còn mừng vui trong Tứ vô lượng tâm, là
hỷ, thì nhẹ nhàng và thanh cao hơn nhiều. Hỷ vô lượng là năng lực tự có, từ bên trong,
không nương nhờ các điều kiện phụ tùy từ thế giới vật chất ở bên ngoài. Nó là một năng lượng mát mẻ tuôn tràn
từ một nội tâm có tu tập; một nội tâm đã làm cho lắng dịu mọi tham dục, sân
hận, bất bình, oán ghét, ganh tỵ (13), xan lẫn... Nó là kết quả của tinh thần do trải qua
công phu thiền định lâu dài, do sự kiên trì không mệt mỏi, do sự bền gan không
nản chí. Tuy nhiên, nếu đã thành tựu từ và bi vô lượng thì hỷ vô lượng cũng dễ dàng an trú.
Mừng vui của hỷ vô lượng thường thâm sâu, dịu nhẹ. Nó từ chối
sự vui suông, vui nhộn, vui vồ vập, vui ồn ã, vui hò hét, vui ha hả, vui đánh
trống thổi kèn, vui lễ hội, vui tưng bừng, vui tiệc tùng chén chú chén anh, vui
say sưa ngả nghiêng, vui nói cười rổn rảng...
Khác chút ít với từ và bi. Từ
nhìn cuộc đời ở khía cạnh đáng yêu,
và cầu mong cho hết thảy chúng sanh đều được an vui, tốt đẹp. Bi nhìn cuộc đời ở khía cạnh đáng thương, và cầu mong được chia sẻ, ủi an...
tất cả nỗi khổ của chúng sanh. Hỷ nhìn
cuộc đời ở khía cạnh đáng mừng trước sự thành
công, thành đạt hoặc an vui, sức khỏe, may mắn, hạnh phúc của người khác.
Như vậy, kẻ thù xa của hỷ vô lượng là vui ồn ào, vui nhộn; kẻ thù gần của
hỷ vô lượng chính là ghen tỵ, đố kỵ, ganh ghét, ganh tỵ...
Kẻ thù xa của hỷ ít nguy hiểm nhưng kẻ
thù gần của hỷ thì nguy hiểm vô cùng. Chính ganh tỵ, ganh ghét là kẻ thù trực
diện luôn tìm cách giết chết hỷ vô lượng này. Chúng có sức phá hoại, tiêu diệt
sự bình an, yên lành trên cuộc đời! Chúng là ngọn lửa âm i đốt cháy sự tương
giao, hòa khí giữa nhân sinh. Cuối cùng, ganh ghét, đố kỵ làm cản trở bước tiến
bộ quang minh của tinh thần. Người tu Phật, kẻ với ước mong chân chính và tha
thiết thành tựu những phẩm tính cao đẹp của con người thì phải nhận diện cho rõ
bóng dáng kẻ thù của hỷ vô lượng thường tiềm ẩn ở trong tâm. Muốn vậy, ta phải
thật sự tự hỏi lòng rằng:
- Ta có cảm thấy khó chịu, bực tức khi
người khác tài giỏi hơn mình?
- Ta có cảm thấy mừng vui khi bạn mình
thành công tốt đẹp trong thi cử hoặc trên đường đời ?
- Thấy những người được thế gian tôn
trọng, nể vì, ta có mừng vui cho họ hay không? Hay ta sẽ tìm cách nói xuyên
tạc, bóp méo sự thật để hạ uy tín cho bỏ tức, cho hả tâm ganh tỵ thua người?
- Khi có người nhiều tiền, lắm của đang
làm một phước sự to lớn, ta có thực sự vui chung niềm vui với họ chăng? Hay tự
thâm tâm ta vẫn bực bội, khó chịu, ganh ghét?
- Thấy người khác có được tiền tài, nhà
cửa, ruộng đất, vợ con hạnh phúc, danh vọng, địa vị, sự nghiệp vững chắc và
thịnh mãn, ta thật sự vui mừng cho họ đã cảm thấy khó khăn. Nhưng nếu kẻ thù
của ta mà được như vậy thì tâm lý ta sẽ diễn biến như thế nào? Đối với kẻ thù
ta thường phỉ báng, nguyền rủa, căm hận, muốn cho y tán gia bại sản, thân tàn
ma dại, muốn cho y bị tai nạn, rủi ro, tật nguyền, hình ngục... Đấy là tâm lý
thường tình. Tha thứ, bao dung cho kẻ thù đã là tâm cao thượng. Nhưng vượt qua
ganh tỵ, ghen ghét, vượt qua bao dung tha thứ để mừng vui hạnh phúc cho kẻ thù nữa là đạt được tâm hỷ vô lượng. Ấy
mới là tâm tối thượng của định bậc cao này.
Quả thật, ganh ghét, ganh tỵ là tâm
bệnh của nhân loại xưa nay. Gia đình này ganh tỵ với gia đình kia. Xã, thôn này
ganh tỵ với xã, thôn khác. Dòng họ này ganh tỵ với dòng họ bên cạnh... Rộng hơn
chút nữa là tôn giáo với tôn giáo, dân tộc với dân tộc... rồi cả châu lục này
với châu lục kia, cả đông phương và tây phương... Và, cũng chính vì lòng ganh
tỵ này mà chúng ngoại đạo tìm cách vu oan, giá họa đức Phật...
Là người Phật tử, phải thấy rõ sự nguy
hiểm của lòng ganh ghét, ganh tỵ ấy. Trong phút chốc, chúng có thể hạ thấp phẩm
giá con người, biến con người thành ti tiểu, hèn mọn. Chúng hủy diệt những đức
tính thiện lương, có thể dẫn đến những hành động tội lỗi, độc ác, tàn bạo.
Chúng tung rãi lầm than, bóng tối và khổ đau cho cuộc đời vốn đã ngập tràn thê
lương và thống khổ này. Khi biết rõ ganh ghét, ganh tỵ nguy hiểm như thế, chúng
ta phải tự thức, tự tri, tự chiếu soi để phát hiện. Khi nhìn thấy chúng đang
xuất hiện, ta phải bình tĩnh để đừng hành động theo sự xúi giục của chúng. Chỉ
có làm thế thôi là ta đã bắt đầu tu tập rồi vậy.
Rồi trong đời sống thường nhật, ta tập vui mừng với những người thành công, thành đạt,
an lạc, hạnh phúc xung quanh ta. Ta tập sống
với nét mặt hân hoan, thư thái, chung mừng, chung vui với bạn bè, hàng xóm,
thôn ấp, láng giềng trong những lúc khánh hỷ, khánh thọ, tân gia, lạc thành...
Tuy những hỷ này đang còn thô tháo, nhưng ít ra, chúng cũng loại trừ ra khỏi
tâm những bực bội, khó chịu, ganh ghét... trước sự thành công, vui vẻ của mọi
người xung quanh ta. Và đây là điều kiện thuận lợi cho ta tu tập hỷ vô lượng
sau này.
Trái tim của tâm hỷ luôn đập một nhịp
với tất thảy chúng sanh hữu phước. Đôi mắt xanh của tâm hỷ luôn nhìn thấy khía
cạnh vui tươi, xinh đẹp của cuộc đời. Tuy nhiên, muốn đạt hỷ vô lượng phải trải
qua công phu tu tập dài lâu tương tự từ và bi vậy. Mà đúng thế, những cái cao
cả không bao giờ là quà tặng cho những kẻ tầm thường, tiểu nhân. Những phẩm
chất ưu việt không dễ dàng có được cho kẻ ngu si, dốt nát, biếng lười. Những
trạng thái tâm cao thượng luôn dành sẵn cho người thiện lương và bậc hiền trí.
I. Phương pháp tu tập tâm hỷ
Cũng tương tự như từ và bi vô lượng, hỷ vô lượng là đề mục thiền định, phải trải qua giai đoạn tu tập có
phương pháp:
- Loại các
chướng ngại ra khỏi tâm.
- Những đối
tượng chưa nên rải tâm hỷ.
- Tuần tự
thứ lớp những đối tượng nên rải tâm hỷ.
- Phương
pháp tu tập và trưởng dưỡng tâm hỷ.
1. Loại các chướng ngại ra khỏi tâm
Các chướng ngại chính của từ, bi và hỷ
vô lượng đều là do tâm sân. Chướng ngại trực tiếp của từ là sân, ác ý, hung dữ, nóng nảy (gốc sân). Chướng ngại của bi là ác độc, bạo tàn (gốc sân). Chướng ngại của hỷ là ganh ghét, ganh tỵ (gốc sân). Do vậy, bước sơ khởi để tu
tập hỷ vô
lượng, hành giả phải
niệm tưởng tương tợ từ và bi:
"- Ganh
ghét, ganh tỵ... là mụn nhọt, là mũi tên tẩm độc, là cục bướu mưng mủ, là lửa
nóng địa ngục... Chúng thiêu đốt mọi thiện pháp, giết chết hỷ tâm, cản trở sự
tiến bộ tinh thần, tàn hại và hủy diệt ta và mọi người xung quanh. Vậy ta phải
làm cho chúng yên lặng, vắng mặt; loại chúng ra khỏi tâm vì hạnh phúc, an vui
cho mình và người".
Chính nhờ sự niệm tưởng, nghĩ tưởng như
vậy mãi; thời gian sau, ganh ghét, ganh tỵ (nếu có) lần hồi sẽ được lắng dịu.
Từ đây ta bắt đầu dụng công tu tập hỷ vô lượng.
2. Những đối tượng chưa nên rải tâm hỷ
Theo cách hiểu, tương tự như từ và bi,
đây là những đối tượng sẽ gây cản trở ban đầu cho hỷ tâm.
Tuy nhiên, riêng hỷ tâm thì chỉ cần nên
tránh các đối tượng đầu tiên là: những người mà mình thương mến như cha mẹ, vợ
chồng, anh em, thân bằng quyến thuộc.
Vì những đối tượng này dễ phát sanh ái
luyến, trở ngại cho tâm hỷ. Riêng những người bạn rất thân thì đặt sang đối tượng đầu tiên nên rải tâm hỷ. Các đối
tượng còn lại sẽ tuần tự, thứ lớp như tâm bi (chưa nên rải).
- Những người dửng dưng, thờ ơ, không
thương không ghét.
- Người mà ta thù oán.
- Người khác giới tính.
- Người đã chết.
3. Tuần tự thứ lớp những đối tượng nên rải tâm hỷ
- Người bạn
tốt, người bạn ta hằng thương mến, quý trọng.
- Những
người ta yêu mến như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, thân bằng quyến thuộc.
- Những
người dửng dưng, thờ ơ...
- Những người
dễ ghét, khó ưa.
- Người mà
ta thù oán.
- Người khác
giới tính.
Từ đối tượng này sang đối tượng khác
cũng phải phá vỡ hàng rào ngăn tương tợ từ và bi.
4. Phương pháp tu tập và trưởng dưỡng tâm hỷ
Đối với từ, ta và người nằm trong một lời cầu mong, lời tưởng
niệm. Đối với bi, ta là đối tượng sau cùng
và các đối tượng đều độc lập. Đối với hỷ, bản thân ta không phải là đối
tượng, và các đối tượng
khác đều độc lập như bi.
Lời cầu mong, ước nguyện để phát sanh
tâm hỷ, như sau: "Ôi! Thật vui, thật tốt, thật tuyệt vời sao là sự hạnh phúc, an
lạc của bạn ta, một con người tốt bụng. Cầu mong sao cho bạn ta mãi được hạnh
phúc và an lạc như thế."
Giả dụ người bạn tốt ấy trong quá khứ
được hạnh phúc, an lạc, nhưng bây giờ thì bị phá sản về mọi mặt, cũng có thể
khởi tâm hỷ: "Ôi! Trong quá khứ, anh ta hằng vui vẻ, đi đâu cũng có kẻ hầu
người hạ, xênh xang xe ngựa. Cầu mong trong tương lai, anh ta lại được hưởng an
lạc, hạnh phúc như cũ."
Niệm tưởng nhiều lần, rất nhiều lần như
thế, hỷ tâm sẽ khởi sanh; hành giả an trú vào nhất tướng tâm hỷ để đi vào cận hành và an chỉ định. Sau đó, tiếp tục sang đến đối tượng
khác. Khi tất cả đối tượng đã được bao trùm rồi, ta làm sao cảm nhận được, giữa ta với
một người ta thân, một người ta dửng dưng, một người ta ghét, một người ta thù,
đều bình đẳng giống nhau, không phân biệt, đều nằm trong nhất tướng hỷ tâm vô
lượng.
Cuối cùng, hỷ tâm cũng phải được rải
đều khắp đông, tây, nam, bắc... rồi đến mười phương. Các tầng thiền cũng tương
tự từ và bi, nghĩa là chỉ đạt đến đệ nhị thiền (trong hệ thống tứ thiền) và tam
thiền (trong hệ thống ngũ thiền). (14)
II. Phước báu cùng sự lợi ích
Từ, bi và hỷ cùng một kẻ thù gần là gốc sân, cùng một kẻ thù xa là gốc tham. Và lúc tu tập làm yên lặng tham và
sân rồi, hành giả sẽ cảm nhận được một làn khí mát mẻ, trong lành, yên tịnh tương tợ nhau. Do đó, phước báu cũng tương tợ nhau. Tu tập hỷ vô lượng khó hơn từ, bi vô lượng nên phước báu cũng cao hơn, thù thắng
hơn.
Bèn có thơ rằng:
"- Hỷ hoan khóm trúc reo ngàn gió
Hoan hỷ hoa cười, nụ tiếu tâm
Vô lượng hỷ tâm, tâm đại lượng
Tình này cao cả nhất thiên, nhân".
D. TÂM XẢ (UPEKKHĀ)
Trạng thái tâm cao cả, cao thượng, cao
sáng, thanh lương, nhẹ nhàng nhất trong Tứ vô lượng tâm chính là tâm xả (upekkhā).
Upekkhā có hai ngữ căn upa và ikkha; upa nghĩa là đúng đắn, vô tư, quân bình, và ikkha là lập tâm, nhận định, trông thấy. Vậy, upekkhā là để tâm quân bình, vô tư, không luyến ái
cũng không ghét bỏ, không ưa thích cũng như không bất mãn trước tất cả những
tình huống của cuộc đời. Tâm xả ví
như lá sen, nó không hề giữ lại mà làm trượt đi tất cả những giọt nước dù dơ dù
sạch ở bất kỳ đâu rơi đến.
Upekkhā chính là tâm tự tại, an nhiên
trước nghịch cảnh, trước những lời phỉ báng, nguyền rủa, khinh rẻ, chỉ trích
của người khác. Và, nó cũng bình thản, điềm nhiên trước hạnh phúc, may mắn; lời
tán dương, khen ngợi... của mọi người đối với chính mình. Nói tóm, là trước
những những thành bại, được mất, hơn thua, khen chê, vui khổ... tâm upekkhā vẫn
điềm nhiên và bình lặng như mặt đất. Nó vững chắc và an định như tảng đá to
sừng sững trước bão to gió lớn. Như một đoạn kinh văn sau đây:
"-
Trong hạnh phúc, trong phiền não, lúc thăng, lúc trầm; ta phải giữ tâm bình
lặng như đất. Trên đất ta có thể quăng bất luận vật gì dầu chua, dầu ngọt, dầu
sạch, dầu dơ... đất vẫn trơ trơ, không giận, không thương, không buồn, không
bực..."
Hoặc, câu
Kinh Lời Vàng:
"- Ví như tảng đá kiên trì,
Gió cuồng tám hướng dễ gì chuyển lay
Tiếng đời chê dở khen hay
Không làm chao động đôi mày trí nhân".
Trí nhân ở đây là bậc có tâm xả vô
lượng vậy.
Ngoài ra, đời sống đức Phật là một tấm
gương mẫu mực, rạng ngời về tâm xả. Ngài là vị giáo chủ được người đời tán
dương, tôn kính, sùng mộ đệ nhất. Nhưng Ngài cũng là người bị ngoại đạo chỉ
trích, đả kích, sỉ nhục, lăng mạ, vu oan giá họa hơn bất cứ ai trong lịch sử
loài người. Tuy nhiên, trước cảnh thuận hay nghịch, tâm Ngài luôn an bình, trầm
ổn, định tĩnh, giải thoát, ấy là nhờ xả vô lượng của Ngài đã thuần thục, viên mãn, toàn bích vậy.
Tuy nhiên, upekkhā là bình thản, tự
tại, vô tư, cân bằng, trung chính, quân bình tuyệt vời... nhưng nó cũng dễ lầm
lẫn, đồng tướng với thờ ơ, lạnh lùng, dửng dưng, nguội lạnh, vô tình, vô cảm, lãnh đạm... Xả vô lượng xem những trạng thái tâm vô cảm ấy là kẻ thù gián tiếp của mình. Còn có kẻ thù trực tiếp, trực diện của upekkhā chính là luyến ái. Vì do luyến ái mới phát sanh yêu ghét, phá vỡ sự bình
ổn của tâm. Nơi nào có luyến ái nơi ấy không có upekkhā, nơi nào có lạnh lùng,
vô cảm nơi ấy không có upekkhā. Người có upekkhā không bao giờ thiên chấp,
nghiêng lệch, thiên vị hoặc để tâm phân biệt sai khác giữa các đối tượng giữa
cuộc đời. Upekkhā là bậc hiền triết tịch mặc, đưa đôi mắt xanh trạm nhiên nhìn
ngắm kẻ ác, người hiền, tên tội đồ và bậc thánh nhân, người giàu, kẻ nghèo,
cùng đinh hay quý tộc... đều vô tư, bình thản như nhau. Giáo hội của đức Tôn Sư
có mặt cả 4 giai cấp thời bấy giờ ở Ấn Độ, mà không có sự kỳ thị, phân biệt
nào; như nước của trăm con sông đều hòa đồng giữa biển lớn, thì ở đấy, không
hàm tàng khả tính của xả vô lượng hay sao?
Cuối cùng, chính văn và rốt ráo nhất,
upekkhā là trạng thái tâm chỉ tu tập được ở trong một tầng định rất cao, rất
sáng, rất nhẹ, rất thanh thoát. Nói cách khác, hành giả phải đạt đệ tam thiền
với từ, bi,
hỷ vô lượng một cách trọn vẹn
thuần thục. Khi an trú với những định thiền từ, bi và hỷ vô lượng, vị ấy nghĩ:
- Tâm mình còn mong cầu sự an vui, hạnh
phúc cho chúng sanh, thì tâm ấy còn rung động, dao động, còn lăng xăng và chưa
thật sự an tịnh. Mặc dầu từ vô lượng đã làm cho lắng dịu nóng nảy, hung dữ, sân, ác ý... nhưng nó vẫn
là một cảm thọ còn nặng nề, thô tháo...
- Tâm mình còn khởi tâm thương xót đến
tất cả nỗi khổ đau, bất hạnh của chúng sanh thì tâm ấy còn rung động, dao động,
còn lăng xăng và chưa thật sự an tịnh. Mặc dù bi vô lượng đã làm cho lắng dịu tất cả sự độc ác,
thù hận, bạo tàn... nhưng nó vẫn là một cảm thọ còn thô tháo, nặng nề...
- Tâm mình còn mừng vui trước sự thành
đạt, an vui và hạnh phúc của chúng sanh, thì tâm ấy còn rung động, dao động,
còn lăng xăng và chưa thật sự an tịnh. Mặc dầu hỷ vô lượng đã loại bỏ các trạng thái tâm ganh
ghét, đố kỵ, tị hiềm... nhưng nó vẫn là một cảm thọ còn thô tháo và nặng
nề...
Như vậy, từ, bi và hỷ vô lượng còn có bóng dáng của tham ái và ngã
chấp vi tế, còn những rung động và xao xuyến vi tế (15). Nhờ thấy rõ, biết rõ và kinh qua kinh nghiệm tu
chứng bản thân, hành giả từ bỏ từ, bi, hỷ đệ tam thiền để tu tập xả vô lượng ở đệ tứ thiền (16).
I. Phương pháp tu tập tâm xả
Nhờ đã đi qua, thuần thục từ, bi, hỷ đệ
tam thiền nên hành giả thường dễ dàng tu tập và an trú đệ tứ thiền. Phải đi qua
các giai đoạn tương tự:
- Loại các chướng ngại ra khỏi tâm.
- Tuần tự, thứ lớp những đối tượng nên
rải tâm xả.
- Những đối tượng chưa nên rải tâm xả.
- Phương pháp tu tập và trưởng dưỡng
tâm xả.
1. Loại các
chướng ngại ra khỏi tâm
Chướng ngại trực tiếp của xả vô lượng là luyến ái, chướng ngại gián tiếp của xả vô lượng là vô cảm, lạnh lùng. Vậy trước khi tu tập xả vô lượng ta phải loại chúng ra khỏi tâm, bằng
cách niệm tưởng như sau:
"-
Luyến ái, thiên chấp là mũi tên tẩm độc, là ung nhọt mưng mủ, là cục bướu gớm
ghiếc, là bụi bặm dơ uế... Chính chúng làm nặng nề, uế trược tâm ta. Chính
chúng làm hoen ố các thiện pháp, cản trở sự tiến bộ và thăng hoa tinh thần. Nơi
nào có luyến ái, thiên chấp, nơi ấy không có xả vô lượng..."
Cứ niệm tưởng, nghĩ tưởng như vậy nhiều
lần, và nhờ đệ tam thiền từ, bi, hỷ vô lượng đã thuần thục, hành giả dễ dàng rời xa, lắng dứt luyến ái và
thiên chấp.
2. Những đối
tượng chưa nên rải tâm xả
Đầu tiên, nên tránh những đối tượng dễ
phát sanh luyến ái, đó là:
- Những
người mình hằng thương mến như cha mẹ, vợ chồng, anh em, bà con quyến thuộc.
- Những
người bạn tốt, rất thân thương.
- Người khác
giới tính.
3. Tuần tự,
thứ lớp những đối tượng nên rải tâm xả
- Sau khi lắng dứt luyến ái, tâm dễ
dàng bước qua cực đoan khác là vô cảm.
Vì xả vô
lượng đồng dạng với lạnh
lùng, thờ ơ, vô cảm ; nên đối tượng dễ dàng an trú tâm xả đầu tiên là những người
không thân, không thù, không thương, không ghét; tức là những người ta hằng
dửng dưng, vô tình.
Tiếp đến, những đối tượng ta nên rải
tâm xả là như sau:
- Bạn tốt, người lành.
- Những người ta hằng kính mến, tôn
trọng.
- Những người may mắn, hạnh phúc.
- Những người ruột thịt, vợ chồng, cha
mẹ...
- Những người dễ ghét, khó ưa.
- Những người ta thù.
- Người khác giới tính.
- Bản thân ta.
4. Phương
pháp tu tập và trưởng dưỡng tâm xả
Cũng tu tập, an trú xả vô lượng với từng đối tượng, từ đối tượng mình dửng
dưng, lạnh lùng đến đối tượng cuối
cùng là bản thân ta. Khi xả vô lượng đã bình đẳng, nhất như đối với tất cả
đối tượng, ta hướng đến đông, tây, nam, bắc... khắp 10 phương thế giới để mở
rộng đến vô lượng, vô biên, không hận, không sân, trạm nhiên, thanh tịnh.
Xả vô lượng thuộc tứ thiền (hay ngũ thiền) nên
phước báu của nó quảng đại và cao cả hơn từ, bi và hỷ vô lượng. Là một vị Phạm thiên tối thắng ở cõi trời Sắc giới tứ
thiền vậy.
Bèn có thơ rằng:
"- Lá sen chẳng giữ giọt mưa
Đất kia dơ sạch, ghét ưa thản ngoài
Xả tâm, tịnh định tuyệt vời
Trạm nhiên, thanh thoát, nụ cười nhẹ không".
Kết luận,
Tứ vô lượng
tâm từ, bi, hỷ, xả là những
trạng thái tâm an bình, cao cả, cần thời gian công phu hành trì nghiêm túc và
miên mật. Để dễ ghi nhớ trạng thái và tính chất của mỗi phạm trú, ta cần ghi
nhớ câu chuyện sau đây:
"- Như người mẹ có bốn người con:
một đứa bé dại, một đứa bị tật nguyền, một đứa thanh xuân khỏe mạnh, một đứa đã
yên bề gia thất, sống an vui, ổn định.
Đối với đứa
bé dại: Người mẹ mong con
chóng ăn, chóng lớn, săn sóc nó từng li, từng tí với sự yêu thương, trìu mến. Đấy là biểu
hiện của tâm từ.
Đối với đứa
bị tật nguyền: Người mẹ hằng xót
thương, để tâm đặc biệt hơn để lo lắng cho nó, mong nó giảm bớt đau khổ và bất
hạnh. Đấy là biểu hiện của tâm bi.
Đối với đứa
thanh xuân khỏe mạnh: Người mẹ
thường mừng vui trước tương lai tươi đẹp của nó. Đấy là biểu hiện của tâm hỷ.
Đối với đứa
đã yên bề gia thất, đời sống ổn định: Người mẹ thường không bận tâm đến đứa con nầy nữa, luôn giữ được sự
thản nhiên và an bình. Đấy là biểu hiện của tâm xả.
Trong dòng tâm lý diễn tiến phức tạp
của con người, nó tiềm tàng hai năng lực xung nghịch nhau: tham và sân. Con
người bị hai năng lực này chi phối nên tạo tác nhiều hành động xấu ác.
Người tu tập từ vô lượng thì ngăn chặn, làm lắng dịu được sân, nóng
nảy, hung dữ, ác ý...
Người tu tập bi vô lượng thì ngăn chặn, làm lắng dịu được hận thù, độc
ác, bạo tàn...
Người tu tập được hỷ vô lượng thì ngăn chặn, làm lắng dịu được ganh ghét,
đố kỵ, tị hiềm...
Người tu tập xả vô lượng thì diệt trừ được ái luyến và
thiên chấp, giữ được sự an
bình, trạm nhiên trước nổi thăng trầm, được mất của cuộc đời.
Dung dưỡng cho tham sân lộng hành ta sẽ
tích chứa cả một hầm thói hư tật xấu. Tu tập theo Tứ vô lượng tâm ta sẽ tích
lũy cả một kho tàng đức hạnh. Muốn làm tên tội đồ hạ liệt hoặc bậc thánh nhơn
cao cả với những phẩm tính tốt đẹp là tùy thuộc ở chính ta vậy.
Dầu ở quốc độ nào, tôn giáo nào, hấp
thụ nền văn minh, văn hóa nào... ai cũng cần thiết bốn đức tính cao cả, mát mẻ
và dịu hiền ấy. Vả chăng, nó vốn là tặng phẩm ngọt ngào, vô giá của đức Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả cho xã hội con
người đã bị quá nhiều bóng tối, tang thương và khổ nạn nầy.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Chú thích:
(1) Brāhmavihāra: Phạm trú. Brahma là phạm,
vị trí cao thượng. Vihāra: trú, phương pháp, lối sống, trạng thái phẩm hạnh.
(2) Brāhmacariya: Phẩm hạnh cao cả, thanh
tịnh - hay dịch là Phạm hạnh.
(3) Tất cả cái gọi là "thể nhập",
"đồng hóa", "chan hòa", "là một" ấy... dễ biến
thành ngã hoặc đại ngã, là quan niệm của bà-la-môn giáo.
(4) Theo Thanh Tịnh Đạo.
(5) Theo "Thanh Tịnh
Đạo" là như vậy, nhưng tam thiền trong hệ thống tứ thiền có thọ
"lạc" vi tế hơn "từ", ngại rằng không tương ưng (Soạn giả).
(6) Dĩ nhiên, ngoại trừ những thế lực mưu
đồ chính trị và kinh tế.
(7) Các bậc khoa học thức giả nói rằng:
"Chẳng phải họ bi mẫn với người khác đâu, họ đang tự cứu mình." Các
dịch nạn toàn cầu đều là hậu quả của nền văn minh công nghiệp cực thịnh. Họ cứu
trái đất và con người chỉ là biện pháp tình thế để tự cứu mình và giải quyết
hậu quả.
(8) Tin vào đề mục. Nếu tín này lung lay
thì nghi khởi sanh, có nghi thì tứ (vitakka) không an trú.
(9) Phá sản: theo nghĩa rộng là tàn lụi,
tiêu vong, mất mát, kiệt quệ, giảm sút, thua lỗ, đổ nát, họa hại, ly tán...
(10) Đây là khởi nguyên quan niệm: "Ta và chúng sanh là một",
nhưng lưu ý đây chỉ là nắm vào nhất tướng tâm từ để đi vào nhất tướng tâm định.
Tất cả đều do "tưởng" tạo thành. Nó là định, không phải tuệ.
(11) Tứ vô lượng tâm thuộc thiền Sắc giới -
nên đề mục phải là cái có thật tương tự như đất, nước khi tu Kasina. Ở đây,
người khốn khổ là sơ tướng, hiện ra trong tâm là thô tướng, chú tâm để thấy rõ
ràng là quang tướng.
(12) "Bi" thô tháo hơn
"lạc", ngại không tương ưng với tam thiền.
(13)
Có một số từ đồng nghĩa sau đây: Ghen tỵ: ghen vì thua người; đố kỵ: ghen ghét;
ganh ghét: ganh và ghét; ganh tỵ : ganh ghét, tỵ hiềm.
(14) Vì "tứ
thiền" đã bỏ hỷ (soạn giả)
(15) Lưu ý: Đây là "định" nên chỉ
làm cho chúng lắng dịu, "tuệ" mới bứng nhổ tân gốc được.
(16) Lưu ý: Những hành giả với đề mục Kasina
đất, nước... dẫu đạt đệ tam thiền, nhưng không thể từ đệ tam thiền ấy, tu tập
Xả vô lượng ở đệ tứ thiền được. Xả vô lượng đệ tứ thiền chỉ để dành cho Từ, Bi,
Hỷ đệ tam thiền (cùng đối tượng).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét