(Paticca samuppāda)
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Duyên
khởi là giáo pháp tinh yếu, cốt tủy của đạo Phật. Đức Phật sau khi
thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài đã để dành bảy ngày đầu tiên để chứng
nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trong đêm cuối cùng của bảy ngày ấy, Ngài
quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, như sau:
- Tùy thuộc vô minh (avijjā), hành (saṅkhāra) phát sanh.
- Tùy thuộc hành (saṅkhāra), thức (viññāṇa) phát sanh.
- Tùy thuộc thức (viññāṇa), danh-sắc (nāmarūpa) phát sanh.
- Tùy thuộc danh-sắc (nāmarūpa), lục nhập (salāyatana) phát sanh.
- Tùy thuộc lục nhập (salāyatana), xúc (phassa) phát sanh.
- Tùy thuộc xúc (phassa), thọ (vedanā) phát sanh.
- Tùy thuộc thọ (vedanā), ái (taṅhā) phát sanh.
- Tùy thuộc ái (taṅhā), thủ (upādāna) phát sanh.
- Tùy thuộc thủ (upādāna), hữu (bhava) phát sanh.
- Tùy thuộc hữu (bhava), sanh (jāti) phát sanh.
- Tùy thuộc sanh (jāti), phát sanh lão,
tử (jarāmaraṇa), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu
(domanassa), não (upāyāsa). Nghĩa là toàn bộ sự đau khổ cùng phát sanh.
Như thế: "Khi cái nầy (nhân) có thì cái kia (quả) có. Với sự phát sanh của cái nầy (nhân) thì cái kia (quả) sẽ phát sanh".
Khoảng canh giữa đêm, đức Phật quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, như sau:
- Do vô minh diệt thì hành diệt.
- Do hành diệt thì thức diệt.
- Do thức diệt thì danh, sắc diệt.
- Do danh, sắc diệt thì lục nhập diệt.
- Do lục nhập diệt thì xúc diệt.
- Do xúc diệt thì thọ diệt.
- Do thọ diệt thì ái diệt.
- Do ái diệt thì thủ diệt.
- Do thủ diệt thì hữu diệt.
- Do hữu diệt thì sanh diệt.
- Do sanh diệt thì lão, tử sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Nghĩa là toàn bộ khối đau khổ đều chấm dứt.
Như thế: "Khi cái này (nhân) diệt thì cái kia (quả) sẽ không có. Với sự chấm dứt của cái này (nhân) thì cái kia (quả) sẽ chấm dứt".
Thập Nhị Nhân Duyên, do vậy, là tiến
trình của sự tái sanh, luân hồi sinh tử. Tiến trình này nằm trong mắc
xích nhân quả, tương quan: "Cái này có thì cái kia có, cái này không thì
cái kia không". Rõ ràng, tiến trình này có sanh thì có diệt. Muốn chấm
dứt tất cả khổ, không phải là diệt quả khổ mà phải diệt nguyên nhân khổ.
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thấy rõ, biết
rõ (tuệ tri) do tuệ quán của đức Phật, nhằm mục đích soi rọi tiến trình
sinh tử luân hồi, khổ đau của chúng sanh trong 3 giới, 4 loài, đồng thời
khai mở tuệ giác để chấm dứt tiến trình ấy.
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thật, là chân
lý, là thực tại rốt ráo, là chân đế đệ nhất nghĩa (paramattha), chỉ có
thể thấy nó bằng tuệ quán, bằng bát-nhã chiếu soi, bằng trực giác như
thị chứ không thể hiểu hay biết nó bằng suy luận, lý luận, bằng lý trí
vọng thức. Do vậy, Thập Nhị Nhân Duyên không phải là triết học, không
phải là tư tưởng, không phải là lý thuyết, quan niệm, quan điểm, lập
trường do đầu óc, tư duy, khái niệm, ý niệm đẻ ra (paññatti).
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thật duyên
khởi, phải minh sát để thấy rõ sự vận hành ấy mới biết sầu bi khổ ưu não
phát sanh từ đâu và do đâu. Rồi nó sinh và diệt như thế nào. Ở đây
không hề bàn đến sự tiến hóa của vũ trụ, nguồn gốc của vũ trụ, sinh
thành hay hoại diệt của vũ trụ, những bí mật hoặc hỗn mang của vũ trụ.
Thập Nhị Nhân Duyên lấy con người, chúng
sanh làm trọng tâm, nhưng con người, chúng sanh ấy không có đàn ông,
đàn bà, ngựa, heo, a-tu-la, ngạ quỷ mà tất cả chỉ có... hành, thức,
danh, sắc...căn, trần, thức...; nó không bàn đến gia đình, xã hội, giáo
dục hay an ninh, an toàn, môi sinh, văn hóa. Sự tương quan giữa chúng là
tất yếu, nhưng giải quyết các vấn đề ấy, chỉ là cách giải quyết phần
ngọn chứ không phải giải quyết phần gốc, giải quyết phần quả chứ không
phải giải quyết phần nhân. Đức Phật là bậc Toàn Tri Diệu Giác, Ngài giải
quyết tận căn nguyên đau khổ chứ không bao giờ giải quyết những kết quả
của đau khổ.
Muốn thấy rõ, biết rõ (tuệ tri) Thập Nhị
Nhân Duyên, chúng ta phải tu tập thiền tuệ, phải hiện quán, thực chứng
tiến trình tâm đang sinh khởi, đang vận hành trong thế giới
căn-trần-thức tương quan, chứ không phải qua mớ kiến thức chữ nghĩa.
Kiến thức, chữ nghĩa, kinh điển chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không
phải là mặt trăng. Đức Phật dạy: "Ai thấy Thập Nhị Nhân Duyên tức thấy pháp. Ai thấy pháp tức thấy Như Lai".
Phải thấy, biết, hiện quán và thực chứng Thập Nhị Nhân Duyên nơi thực tại hiện tiền, nơi duyên sinh của căn-trần-thức ở đây và bây giờ.
I. Giải thích Thập Nhị Nhân Duyên theo vòng luân hồi tử sanh
1. Vô minh (avijjā)
Vô minh là trạng thái không sáng suốt,
không tỉnh thức, thường bị si mê, bất giác và những triền cái che mờ,
che phủ. Vô minh làm cho chúng sanh không thấy được thực tánh của các
pháp.
Ta có thể tìm thấy một số định nghĩa về vô minh ở trong kinh điển.
- Không thấy rõ tứ đế là vô minh.
- Không thấy rõ duyên sinh, vô ngã là vô minh.
- Không thấy rõ khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế là vô minh.
- Không thấy rõ danh pháp, sắc pháp là vô minh.
- Không thấy rõ ngũ uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên là vô minh...
Như vậy, không thấy không biết sự khổ và
nguyên nhân khổ, không thấy tiến trình sinh diệt của ngũ uẩn, Thập Nhị
Nhân Duyên là căn bản của vô minh, là vô minh gốc; từ đó, chúng sanh bị
chi phối, trôi lăn trong vòng tử sanh luân hồi vô định.
Vì vô minh, chúng sanh sống trong sai
lầm, sống trong ảo tưởng, ảo vọng, ảo giác. Lấy cái sai làm cái đúng,
lấy cái giả làm cái thật. Người sống trong vô minh không thể biết là
mình đang sống trong vô minh. Đang sống trong cái khổ mà tưởng là vui.
Đang si mê, lầm lạc mà tưởng là mình thông minh, sáng suốt. Đang đi lạc
đường mà tưởng là đi đúng hướng. Đang bị lửa cháy bốn bề mà vẫn nô đùa,
cười vui, hò reo, hoan ca nhảy múa. Đang bị đắm giữa vũng lầy đen đúa,
hôi hám mà tưởng là hạnh phúc thiên đường...
Vô minh với nghĩa như vậy nên những
người uyên thâm, uyên bác, bác học, đa tài, thần đồng, giáo sư, viện sử,
tiến sĩ, tổng thống, thủ tướng, triệu phú, tỷ phú... khi không thực sự
thấy biết Khổ đế, Tập đế, duyên sinh, vô ngã... đều bị vô minh chi phối,
đều đang sống trong vô minh, si mê và lầm lạc.
Duyên vô minh, hành sinh khởi (avijjāpaccayāsaṅkhāra).
2. Hành (saṅkhāra)
Do vô minh ở trên mà hành này sanh khởi.
Hành có rất nhiều nghĩa, tùy theo mỗi trường hợp, nhưng ở đây hành xoay
quanh nghĩa tư tác (cetanā), tức là những cố ý, chủ ý tạo tác các
nghiệp thiện, bất thiện và bất động rồi tái sanh trong 3 giới, 4 loài.
Nếu vô minh là nhân thì hành là quả. Quả
của hành là những tư tác của những nghiệp bất thiện, thiện, bất động.
Các nghiệp này được gọi là hành nên 3 nghiệp còn được gọi là bất thiện
hành, thiện hành và bất động hành.
Ngoài ra tư tưởng, lời nói, việc làm của
chúng ta cũng được gọi là hành: thân hành, khẩu hành và ý hành. Những
lời nói, việc làm, tư tưởng của chúng ta được dẫn dắt bởi tư tác, có tạo
nghiệp; dầu thiện, ác hay bất động, thảy đều bị chi phối bởi hành, đưa
đến tái sanh. Những hành động dù tốt, dù xấu, dù là thiền định đều bắt
nguồn bởi vô minh, từ vô minh hoặc do vô minh tạo động cơ thúc đẩy, đưa
chúng sanh vào cuộc hành trình xa xôi diệu vợi, lênh đênh vô định trong
cuộc tử sinh chìm nổi không thấy bến bờ. Đôi khi càng đi càng xa cách “quê hương” như hai câu thơ của Trần Thái Tông:
“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình!”
Nếu hành, tư tác, nghiệp do tham sân si thì đọa lạc vào 4 ác đạo và người bất hạnh.
Nếu hành, tư tác, nghiệp do vô tham, vô
sân, vô si thì tái sanh làm người hữu phúc và 6 cõi trời Dục giới. Nếu
hành, tư tác, nghiệp quy tụ các thiền chi thì hóa sanh làm trời Phạm
thiên Hữu sắc và Vô sắc.
8 Siêu thế tâm của 4 đạo và 4 quả không
còn bị hành chi phối vì các tâm này có khuynh hướng xa rời vô minh và
tận diệt vô minh. Do vậy, lời nói, việc làm, tư tưởng của các bậc thánh
giả không còn bị hành, tư tác và nghiệp chi phối nữa. Lúc ấy tư tác được
thay thế bởi tuệ (paññā). Tuệ có công năng đoạn lìa các hành nghiệp, là
thành phần chánh yếu trong các loại thánh đạo tâm.
Duyên hành, thức sanh khởi (saṅkhārapaccayāviññānaṃ)
3. Thức(viññāṇa)
Do hành ở trên, thức sanh khởi. Tức là
do thiện hành, bất thiện hành, bất động hành làm nhân nên có thức là
quả. Đây là thức tái sanh (paṭisandhi) ở Tam giới.
- Nếu khi ta làm việc ác, tạo nghiệp bất
thiện, bất thiện hành là nhân thì nó sẽ đưa ta đầu thai vào 4 khổ cảnh
và người bất hạnh
- Nếu ta làm việc thiện, tạo nghiệp thiện, thiện hành là nhân thì tùy theo “kiết sanh thức” cùng phát sanh với xả hay hỷ quyết định. Một, nếu là “xả” làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì ta sẽ tái sanh làm người bất hạnh hoặc chư thiên ít phước. Hai, nếu là “hỷ” làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì được làm người hoặc chư thiên tốt hơn.
- Nếu được “hữu trí” làm kiết sanh thức, đầy đủ 3 nhân “vô tham, vô sân, vô si” thì được tái sanh làm người hoặc làm trời hữu phúc, sang cả và ngũ quan toàn hảo.
- Nếu là “vô trí” làm kiết sanh thức thì tái sanh làm người, làm trời chỉ có hai nhân “vô tham, vô sân” sẽ thua kém nhiều về phước báu.
- Nếu ta tu tập thiền định, chứng 5
thiền ở Sắc giới, tạo nghiệp bất động hành - là nhân, thì ta sẽ sẽ hóa
sanh vào cõi trời sắc giới Phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.
- Và nếu chứng 4 thiền ở Vô sắc giới,
tạo nghiệp bất động hành - là nhân, thì ta sẽ hóa sanh vào cõi trời vô
sắc giới Phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.
Như vậy, thức tái sanh là do tư tác, do
hành nghiệp chi phối, quy tụ năng lực ở chặp tư tưởng cuối cùng (cuti-tử
tâm) để quyết định sanh thú, tái sanh, đầu thai hoặc hóa sanh vào cảnh
giới tương ứng.
Duyên thức, danh-sắc sinh khởi (viññāṇapaccayānāmarūpaṃ).
4. Danh-sắc (nāmarūpa)
Do duyên thức tái sanh mà có danh sắc.
Khi một chúng sanh chết, tất cả cái gọi
là thân và tâm (danh và sắc cũ) đều phải bỏ lại, không mang theo bất kỳ
một cái gì, đoạn diệt hết. Nói như vậy, nhưng không phải là đoạn kiến,
là hư vô. Chính tư tưởng cuối cùng, một niệm, một sát-na tâm tức là thức
tái sanh, theo năng lực của hành nghiệp đưa tâm thức đến cảnh giới
tương ứng.
Một người làm việc thiện hay bất thiện,
khi lâm tử đều có phát sanh 3 hiện tượng: nghiệp, nghiệp tướng và thú
tướng. Thú tướng chính là cảnh giới mai hậu. Thức tái sanh chỉ như là
một ý nghĩ tương ưng với cảnh giới, nó bắt gặp cảnh giới mới và tái sanh
ngay tức khắc, nhưng không phải là thường kiến.
Thức tái sanh (một ý nghĩ, một chặp tư
tưởng) như vậy là một tâm (citta). Tâm không khởi một mình, ít nhất đi
theo nó là 7 biến hành tâm sở và một số tâm sở trong 6 biệt cảnh tâm sở ([1]) Ngoài ra nếu là bất thiện thì nó quy tụ thêm các tâm sở bất thiện.
Có 4 hình thức của thức tái sanh:
- Noãn sanh: Được sinh ra từ trứng - thức tái sanh nương gá vào trứng.
- Thai sanh: Thức tái sanh nương gá vào thai bào.
- Thấp sanh: Thức tái sanh nương gá vào chỗ ẩm thấp, tối tăm, ô uế, rác rưởi.
- Hóa sanh: Đột ngột biến hóa ngay tức khắc bằng thân xác kẻ trưởng thành (như Chư thiên, Phạm thiên, ngạ quỷ).
Khi thức tái sanh lìa danh sắc cũ, nó tức khắc xảy ra đồng lúc với nghiệp sanh sắc ([2])
được gọi là sắc thụ thai (kalala) khởi đầu cho một kiếp sống. Sắc thụ
thai này nhỏ xíu, mắt thường không thể thấy, chính nó làm nền tảng cho
tinh cha và huyết mẹ để tạo nên cái phôi đầu tiên cho một chúng hữu
tình.
Như vậy, thức tái sanh, sở hữu tâm và
những nghiệp sanh sắc chính là danh, sắc được hình thành trong bụng mẹ,
nó mang trong tự thân đầy đủ tất cả nghiệp quá khứ của chúng sanh ấy.
Nói cách khác, danh, sắc là quả có thức là nhân.
Duyên danh sắc, lục nhập sanh khởi (nāmarūpapaccayāsalāyatanaṃ)
5. Lục nhập (salāyatana)
Do duyên danh sắc mà có lục nhập.
Khi sắc thụ thai kết hợp với tinh cha,
huyết mẹ (sắc do vật thực, tâm, nghiệp và thời tiết sanh) thì đã tượng
hình một giống hữu tình, lần lần lớn lên để hoàn chỉnh lục căn (3).
Khi có lục căn thì có đối tượng của lục
căn là lục trần. Lục căn được gọi là sáu nội xứ và lục trần được gọi là
sáu ngoại xứ. Và từ đây, từ sáu cửa này mà phát sanh các lộ trình tâm.
Cần lặp lại rằng, thức sẽ không khởi một mình, tối thiểu cũng có những
tâm sở như xúc (giao tiếp), tác ý (khởi tâm đến đối tượng), thọ (cảm
giác), tưởng (tri giác), tư (ý chí, cố ý) và đấy chính là duyên khởi sau
lục nhập.
Duyên lục nhập, xúc sanh khởi (salāyatanapaccayāphassaṃ).
6. Xúc (phassa)
Do duyên lục nhập mà có xúc.
Xúc là giao tiếp, va đụng. Ở đây là sáu
nội xứ giao tiếp với sáu ngoại xứ nên có 6 xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ
xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
Xúc là một tâm sở, là tâm sở đầu tiên
trong 7 biến hành tâm sở, mà từ đó, các lộ trình tâm được vận hành. Do
vậy, có những trường hợp có xúc, có sự giao tiếp, va đụng nhưng lộ trình
tâm không vận hành thì không được gọi là xúc. Như mắt người chết hoặc
khi ta nhìn một vật, một cảnh sắc mà ta không “để tâm" ở đấy. Muốn xúc
trở thành xúc tâm sở thì xúc ấy phải có thức hoặc tác ý ở bên sau:
Tác ý, thức ® xúc.
Vậy, hợp lý, hợp với sự thực hơn, ta có thể sắp xếp sự diễn tiến của các tâm sở đồng sanh:
Tác ý ® xúc, thọ, tưởng, tư...
Hoặc (thức) danh-sắc ® thọ, tưởng, hành, thức... (trong ngũ uẩn).
Xúc tâm sở là quả chứ không phải nhân.
Nếu vô minh và hành là nhân quá khứ thì quả hiện tại mà chúng hữu tình
nào cũng có sẵn, đó là: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
Duyên xúc, thọ sinh khởi (phassapaccayāvedanaṃ).
7. Thọ (vedanā)
Do duyên xúc mà có các cảm thọ
Đây là 6 thọ căn bản: Thọ do nhãn xúc
sinh gọi là nhãn thọ. Thọ do nhĩ xúc sinh gọi là nhĩ thọ. Thọ do tỷ xúc
sinh gọi là tỷ thọ. Thọ do thiệt xúc sinh gọi là thiệt thọ... Tương tự
thế là thân thọ và ý thọ.
Thọ là cảm giác. Ví dụ: Đưa tay sờ nước đá ta có cảm giác lạnh. Sờ là xúc, lạnh là cảm thọ, cảm giác.
Rải rác trong kinh điển, khi nói 3 thọ ở
nơi thân thì có thọ khổ, thọ lạc và thọ xả (Chỉ có thân mới thọ khổ,
lạc; còn mắt, tai, mũi, lưỡi luôn luôn là thọ xả). Ba thọ ở nơi tâm là
hỷ, ưu và xả (xả là lúc không có hỷ hay ưu chứ không phải xả của đệ ngũ
thiền hoặc xả của Tứ vô lượng tâm).
Do duyên thọ, ái sinh khởi (vedanāpaccayātaṅhā).
8. Ái (taṅhā)
Do duyên cảm thọ mà phát sanh ái.
Ái hay ái dục có bản chất thèm muốn hay
khao khát các đối tượng mà nó yêu thích, nhưng không bao giờ cảm thấy
đủ, không bao giờ được thỏa mãn.
Ái dục là một cơn khát lạ lùng, càng
uống càng khát thêm. Các loại ngạ quỷ và các vị chư thiên đều có chung
một cái khát do ái này. Ngạ quỷ thì khát ăn, khát uống, khát tất cả ngũ
trần nhưng chúng không bao giờ có được. Các vị trời thì có đầy đủ dục
lạc ngũ trần nhưng họ vẫn luôn luôn khát, mong được thụ hưởng thêm nữa,
mong được thỏa mãn thêm nữa.
Thọ khổ ® từ chối khổ, tìm lạc
Thọ lạc ® tìm lạc nữa...
Loài người cũng tương tự thế. Người đói
khổ thì mong ước có được chén cơm, manh áo. Người giàu có, mặc dầu đã sở
hữu nhiều của cải, tài sản, địa vị, danh vọng... nhưng thường thì họ
còn khao khát tìm kiếm, mong được giàu sang hơn nữa... Về mặt này, cường
độ khát ái, khát dục của người giàu còn hơn cả người nghèo.
Ngày nay, các nước thịnh cường về vật
chất, bá chủ về quyền lực... vẫn muốn nước mình thịnh cường hơn nữa, có
nhiều quyền lực hơn nữa - là đặc trưng bản chất của ái dục muôn đời của
chúng sanh: không bao giờ toại nguyện, thỏa lòng.
8.1. Ái trong cõi Dục hay Dục ái (kāmataṅhā)
Đây là các loại ái đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà đối tượng của nó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Mắt không bao giờ chán xem cảnh sắc đẹp,
phố thị lâu đài; tiện nghi vật chất xa hoa, hào nhoáng; người nam,
người nữ mà nó thích ...
Tai không bao giờ chán nghe những âm
thanh ngọt ngào, quyến rũ, trầm bỗng, du dương; tiếng nhạc lời ca mùi
mẩn hoan lạc và cả âm thanh giới tính...
Mũi không bao giờ chán ngửi những mùi
thơm, các loại nước hoa, các hương liệu, mùi các thức ăn kích thích khẩu
vị, mùi đặc trưng lôi cuốn, hấp dẫn giới tính...
Lưỡi không bao giờ chán các vị ngon, các
loại thức uống thích khoái, các món ăn kiểu cách, xa hoa, cầu kỳ, đôi
khi không từ nan một ác độc, tàn bạo nào - ví dụ thí ăn óc khỉ, lưỡi
chim sẻ...
Thân không bao giờ chán sự xúc chạm mềm
mại, êm ái... từ giường nệm, ghế ngồi, chân đi, áo quần, vật dụng tiện
nghi sinh hoạt..., cả bồn tắm, chỗ đi cầu..., và sự xúc chạm mê hoặc cho
ái chính là giới tính.
- Ý đối tượng của nó là pháp, tức là
cảnh pháp; cảnh này ở trong tâm, được lưu giữ từ ngũ trần hoặc cảnh do ý
tưởng tượng ra. Cảnh ở trong tâm có mặt ở cả 3 thời: Quá khứ, hiện tại,
vị lai. Ý này cũng không bao giờ chán săn tìm những cảnh giới từ sắc,
thanh, hương, vị, xúc do nó nhào nặn, vẽ vời thêm, sáng tạo ra!
Sáu ái vừa kể thuộc lục trần. Bên cạnh đó, còn có sáu ái thuộc lục căn nữa:
- Mắt, ta thường muốn mắt ta trong, xanh, đẹp (phần phù trần căn), và muốn mắt ta phải trông rõ hơn, xa hơn (phần tịnh sắc căn).
- Tai, ta thường muốn tai ta đẹp, thành
quách đầy đủ, thùy châu to, dày... (phần phù trần căn), và muốn nghe xa
hơn, rõ hơn, tinh hơn (phần tịnh sắc căn).
- Mũi, cũng tương tự vậy, mũi phải
thẳng, dọc dừa, chuẩn đầu dày, to... phải có tướng phú quý (phần phù
trần căn), ngoài ra lại còn muốn thần kinh nhạy bén hơn (phần tịnh sắc
căn) để tăng hiệu năng tỷ giác.
- Lưỡi dài, rộng cũng là một phúc tướng.
Nếm được tất cả những vị tinh tế cũng nhờ thần kinh lưỡi tốt. Cả hai
phần: Phù trần căn và tịnh sắc căn của lưỡi cũng phát sanh một loại ái
dục.
- Thân phải nhẹ nhàng, da mịn và tươi
sáng. Do ái dục ở thân nên ai cũng yêu thân mình; tẩm bổ cho thân, xức
nước hoa, ăn mặc lụa là gấm vóc hoặc trang điểm cho cái thân. Biết bao
nhiêu loại thuốc thời nay, tốn cả hằng tỷ đô la để giữ gìn thân, làm đẹp
thân, nước da phải sáng phải mịn, để tăng thêm sự hấp dẫn cho hình vóc,
diện mạo...
- Ý, muốn mình thông minh, trí nhớ tốt,
nhiều kiến văn... là ái dục thuộc về ý, về tinh thần. Nó còn nảy sinh
tham vọng thay đổi gène di truyền, kết hợp những thành tựu vinh quang
của khoa học hiện đại để biến mình thành thiên tài, thần đồng, thành
những bộ óc khoa học kỳ vĩ... Ái dục ở ý căn rất vi tế, rất khó nhận
biết.
Nói tóm lại, ái trong cõi dục như vậy là có 12 (lục căn 6, lục trần 6), nếu nhân cho 3 thời thì có 36 ái dục.
8.2- Ái trong cõi Sắc hay Sắc ái (rūpataṅhā)
Sắc ái là ái dục trong cõi Sắc, Sắc
giới; tức là yêu thích, ham muốn những cảm thọ tế vi của tinh thần: đó
là hỷ, lạc, xả của các tầng thiền định.
Loại ái dục này còn được xem như là hữu ái (bhavataṅhā), tức là khao khát được trường xuân, trường tồn miên viễn.
Hữu ái ở lục căn: Là mong muốn mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân ý của mình... đẹp mãi, xuân mãi, trẻ mãi, sống mãi. Đấy
cũng là những điều tốt đẹp được chư Tăng hay chúc mừng cho mọi người:
sắc đẹp, sức khỏe, vô bệnh, sống lâu...
Hữu ái ở lục trần: Khi đã yêu thích cái
gì rồi thì mong muốn cái ấy mãi mãi thường còn. Đấy là tất cả cái gì
thuộc sắc, đối tượng của nhãn căn: Lâu đài, vườn tược, vợ con, tiện nghi
vật chất. Đấy là tất cả cái gì thuộc về âm thanh, đối tượng của nhĩ
căn: tiếng nói của người mình yêu thương, tiếng hát, lời ca mình yêu
thích...
Có mấy câu thơ của vua Tự Đức khi khóc Bằng Phi - là minh chứng cho loại hữu ái này:
“- Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!”
Tương tự thế là vị, xúc và pháp. Tất cả
thế giới căn trần nay, tạo thành 12 loại ái, được gọi là hữu ái
(bhavataṅhā); nhân cho 3 thời, cả thảy có 36 hữu ái.
8.3- Ái trong cõi Vô sắc hay là Vô sắc ái (arūpataṅhā).
Vô sắc ái là loại ái dục phát sanh do
chán các sắc, sắc tướng, sắc pháp. Họ chán luôn cái thân sắc vật chất dù
thô hay tế. Họ chỉ muốn sống bởi các ý niệm, khái niệm trừu tượng mà
thôi. Tương ứng với loại ái dục này, là từ bỏ các thiền sắc giới để tu
tập các thiền vô sắc giới. Họ không còn các cảm thọ thô tháo nữa mà chỉ
còn trạng thái xả và định.
Vô sắc ái còn được xem như là phi hữu ái
(vibhavataṅhā), nghĩa là có quan niệm của đoạn kiến. Cái gì cũng sợ
mất, sợ hết, sợ chết nên hối hả hưởng thụ, quay cuồng hưởng thụ.
Nếu phân tích vi tế thì có cả thảy 36 ái dục thuộc loại phi hữu ái này.
Nói tóm lại, tất cả ái đều không bao giờ
chấm dứt; cả 108 loại ái đều được duy trì tiếp diễn, nuôi nấng bởi thọ.
Và ái còn là nhân, cho quả là thủ, tiếp nối lộ trình duyên khởi.
Do duyên ái, thủ phát sanh (taṅhāpaccayāupādānaṃ).
9. Thủ (upādāna)
Thủ có nghĩa nắm giữ, chấp chặt, cầm lấy.
Khi ái yêu thích một đối tượng nào đấy thì thủ nắm giữ, đam mê, chấp chặt đối tượng ấy.
Thủ có bốn loại: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ.
9.1- Dục thủ: Đây là sự ham muốn ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Những cảnh sắc khả ái, nam hoặc nữ, áo
quần, vàng ngọc, xe hơi, đồ tiêu dùng, tiện nghi sinh hoạt... phát sanh
sự khao khát, ưa thích; và ai cũng muốn chiếm hữu chúng, giữ lấy làm của
mình.
Âm thanh biểu lộ qua giọng nói nam hay
nữ, tiếng nhạc, lời ca... (thanh). Cũng tương tự thế là hương thơm, bột
thơm, nước hoa hấp dẫn người khác phái (hương); những kích thích, khoái
lạc trong các chất ngọt, béo, nồng, cay... hoặc các chất say (vị),
giường nệm êm ái, y phục mịn màng và sự đụng chạm khác giới tính... đều
phát sanh xúc dục (xúc).
Sự bám víu, ôm ấp, chiếm giữ... cùng với sự khát khao mãnh liệt những đối tượng ngũ trần ấy mà phát sanh dục thủ.
9.2- Kiến thủ: Với nghĩa tổng
quát của chấp thủ này là khư khư bám chấp vào ý kiến, quan niệm, quan
điểm, chủ trương, chủ thuyết, lập trường... của mình. Và những người như
vậy khó ngồi chung trên một "chiếu đối thoại" để cảm thông để tìm ra chân lý. Họ cũng khó mở rộng kiến văn để thấy nhìn, nghe, nghĩ cho xa, cho sâu được. Người có “kiến thủ”, mọi cánh cửa xung quanh đã bị bít chặt.
Với nghĩa kinh điển, kiến thủ là bảo vệ,
bám chấp, khư khư giữ lấy cái thấy biết sai lầm của mình, tà kiến của
mình. Nói cách khác, mọi tà kiến trên thế gian đều được xem là kiến thủ.
Có những kiến thủ sau đây:
- Tà kiến cho rằng bố thí chẳng có lợi ích gì mà chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Tức là không tin quả của việc lành bố thí.
- Tà kiến cho rằng, những tình cảm qua
lại giữa nhau được biểu hiện qua việc tặng kinh sách, quà lưu niệm, quà
biếu hiếu hỷ, tiếp khách... hoàn toàn vô tích sự.
- Tà kiến cho rằng, chẳng có kết quả của thiện nghiệp, ác nghiệp trên đời này.
- Tà kiến cho rằng, cha mẹ vì thoả mãn
tình dục nên con cái mới ra đời, vậy những cái gọi là ân, hiếu, nghĩa,
tình gì gì đó đối với cha mẹ là việc làm vô ích.
- Tà kiến cho rằng, chỉ có muôn vật muôn
loài ở thế giới này; chẳng có thế giới khác, chúng sanh khác. Họ bác bỏ
luônlý nhân quả, luân hồi tái sanh. Với tà kiến này, chết là hết. Đây
còn được gọi là đoạn diệt luận hay đoạn kiến.
- Tà kiến cho rằng, tất cả mọi sa-môn,
bà-la-môn chẳng chứng đắc, chẳng thấy, chẳng giác ngộ gì hết. Tuyệt đối
không có Thánh nhân trên đời này. A-la-hán và Phật cũng bị tà kiến này
phủ nhận.
Những tà kiến như vậy đã vấy độc thế
gian; tung bóng tối cho thế gian; phỉ báng đạo đức, luân lý; chà đạp lẽ
phải, điều thiện, cái đẹp, nhân văn, nhân tính và đóng bít những cánh
cửa hướng về chân lý cũng như những ước mơ, hy vọng cao đẹp của con
người muôn nơi muôn thuở.
9.3- Giới cấm thủ: Theo nghĩa
kinh điển thì đây là chấp thủ vào những pháp hành, hình thức, tập tục,
lễ nghi sai lạc, chỉ đưa đến ngu si, đau khổ chứ không thể mang lại ánh
sáng và hạnh phúc.
Vào thời Phật tại thế có hai người ngoại đạo, một tên là Puṇṇa, một tên là Seniya. Puṇṇa sống theo hạnh của con bò, gọi là "ngưu hành giả". Seniya sống theo hạnh của con chó, gọi là "cẩu hành giả".
Họ sống như con thú mà họ đã chọn. Cũng trần truồng, đi bằng 2 chân, 2
tay; ăn uống, đại tiểu tiện... như chó và bò. Và họ tin rằng, sống như
vậy giúp họ tẩy sạch nghiệp cũ, ngăn chặn nghiệp mới; sẽ chấm dứt đau
khổ và được hạnh phúc trường cửu sau khi chết.
Đấy là hình ảnh chấp thủ vào pháp hành sai lạc.
Loại giới cấm thủ khác, là chấp vào, tin
vào, thực hành theo những giới cấm, những hình thức tế tự đầy mê tín,
như: Lễ lạy, cúng kiếng ông táo, gốc đa, thần núi, thần sông... Và tin
vào sự cứu rỗi, được hưởng phước, trừ họa... nhờ vào các hình thức, lễ
nghi ấy.
Loại giới cấm thủ khác nữa. Ví như có
người tu Phật, không chịu tu theo bố thí, trì giới, tham thiền, không tu
theo giới định tuệ; mà họ tin rằng, chỉ thờ tự, tụng kinh, thờ cho
nhiều Phật, Bồ-tát; làm chùa to; Phật lớn, trai đàn chẩn tế cho thật
nhiều, nghĩa là chỉ tu theo hình thức lễ nghi thôi, vậy là rơi vào giới
cấm thủ (Thậm chí, tin rằng có thể giải thoát do tu một pháp hành nào đó
mà không liên quan đến Tứ diệu đế cũng gọi là giới cấm thủ - theo Thanh
tịnh đạo).
Ngay chính những người tu Phật đàng
hoàng, chân chính, lúc giữ giới, nếu không có trí tuệ chiếu soi, không
thông hiểu giáo pháp căn bản dễ rơi vào giới cấm thủ này. Họ giữ giới
nhưng không hiểu nhân quả của giới, sự lợi ích của giới, sự đối trị của
giới... nên dễ rơi vào sự chấp thủ vào giới mà chính họ đang giữ.
Ví dụ: Trong giới điều về chuyện nên làm và không nên làm, tóm tắt, có câu: "Vị tỳ-kheo không nên đem cho đến kẻ thế dù là một que tăm hay môt cọng cỏ...".
Vì giữ giới mà không hiểu nguyên nhân đức Phật chế định giới ấy, cứ
nhất quyết không cho ai, dù một que tăm, một đĩa cơm thừa, một đồng bạc
cắc... thế là rơi vào giới cấm thủ. Thật ra, đằng sau câu trên còn có
lời giải thích nữa: Của cải tài sản ở chùa đều là của Tam Bảo, một que
tăm, một cọng cỏ mà chưa được sự đồng ý của Tăng (Saṅghā) thì ngay chính
vị trụ trì cũng không được phép cho ai, tặng ai vì bất cứ lý do gì!
9.4- Ngã ngữ (4)
thủ: Tức là chấp thủ không rời vào bản ngã. Tin rằng bản ngã thường
còn, có một linh hồn trường cửu đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Linh
hồn hay bản ngã ấy là chủ nhân ông của mọi hành vi, lời nói, ý nghĩ.
Chúng ta thường "chấp ta", "chấp ngã" không rời.
Khi nói "khổ cái thân tôi", là ta đã đồng hóa cái tôi và cái thân (sắc).
Khi nói "tôi đói, tôi lạnh, tôi mát", là ta đã đồng hóa cái tôi và cảm giác (thọ).
Khi nói "tôi tưởng tượng", là ta đã đồng hoá cái tôi và tri giác (tưởng).
Khi nói "tôi có chủ ý, tôi cố ý làm như vậy", là ta đã đồng hóa cái tôi với ý chí, ước muốn (hành).
Khi nói "tôi nghe ra điều này, tôi suy nghĩ điều kia" là ta đã đồng hóa cái tôi với nhận thức (thức).
Với "ngã kiến" muôn đời, chúng ta
thường đồng hóa ta với các uẩn, không bao giờ có trí tuệ để thấy rõ
chúng chỉ là sắc và danh, là những yếu tố vật chất cùng yếu tố tâm lý
sinh diệt, duyên khởi trùng trùng: "Có cái này thì có cái kia, không có cái này thì cái kia không có, cái này diệt thì cái kia diệt”.
Trong sự vận hành tương quan duyên khởi
ấy, tất cả pháp đều vô tự tính, vô ngã tính, luôn chuyển động, luôn di
động, luôn duyên hóa để cái này diệt thì cái kia sinh, tạo ra sự đổi
thay, mới mẻ muôn đời ở thế gian.
Không có ai có thể làm chủ sắc vì sắc vô
ngã, duyên khởi, vô tự tính. Không ai có thể làm chủ thọ, vì thọ vô
ngã, duyên khởi, vô tự tính. Không ai có thể làm chủ tưởng, hành,
thức... vì chúng vô ngã, duyên sinh, vô tự tính.
Do vậy, ngã kiến là một ảo kiến, một
thấy biết sai lầm có một cái ngã, cái ta, cái tôi. Rồi còn chấp thủ vào
nó nữa, chấp thủ không rời từ khi vừa sinh ra đến khi nhắm mắt xuôi tay.
Rồi kiếp sau nữa, kiếp sau nữa... trong cuộc luân hồi tử sanh vô tận,
vô định.
Đắc Thánh quả Nhập lưu, đoạn trừ được 3
kiết sử: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Vị Thánh đã nhận thấy
không còn chấp vào sắc thân này nữa, ly thoát thân kiến, cái sắc ấy
không phải là thân của ta, tự ngã của ta. Nhưng đến Thánh quả A-la-hán,
lúc 5 kiết sử cuối cùng được đoạn lìa (sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng
tâm, vô minh) thì mới thật sự thấy rõ ngũ uẩn vô ngã, mới tận diệt ảo
kiến về ngã.
Nói tóm lại, 4 loại thủ: dục thủ, kiến
thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ là duyên sanh hữu để chúng sanh tạo các
nghiệp hữu (kammabhava) và sanh hữu (upapattibhava).
Do duyên thủ, hữu sinh khởi (upādānapaccayābhavo).
10. Hữu (bhava)
Có nghiệp hữu liền có sanh hữu.
10.1- Nghiệp hữu: Nếu nghiệp hữu
là nhân thì sanh hữu là quả - tức cảnh giới tái sanh. Dẫn dắt, chủ động,
điều động, điều hành tất cả các nghiệp là do tư tâm sở (cetanā). Vậy,
tư tâm sở của những bất thiện tâm, thiện tâm, bất động tâm chính là
nghiệp hữu, đưa chúng sanh tái sanh theo cảnh giới tương ứng trong 3
cõi, 4 loài.
10.2- Sanh hữu: Sanh hữu có 3 loại chính:
- Dục hữu (kāmabhava): Danh sắc chúng sanh trong cõi dục (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời).
- Sắc hữu (rūpabhava): Là danh sắc của những vị Phạm thiên Hữu sắc.
- Vô sắc hữu (arūpabhava): Là danh uẩn (tứ uẩn) của vị Phạm thiên Vô sắc.
- Khi nói hữu tưởng hữu (saññībhava) là chỉ cõi chúng sanh "có tưởng"; ngoại trừ cõi vô tưởng (không có tưởng) và cõi phi tưởng phi phi tưởng (chẳng phải tưởng chẳng phải không có tưởng).
- Khi nói vô tưởng hữu (asaññībhava) là
chỉ có sự diễn tiến của sắc pháp nhưng danh thì ở dạng tiềm miên của
Phạm thiên vô tưởng.
- Khi nói phi tưởng phi phi tưởng hữu (saññīnāsaññībhava) là chỉ danh uẩn vi tế của những vị Phạm thiên cao nhất.
- Khi nói nhất uẩn hữu (ekavokārabhava) là chỉ vị Phạm thiên chỉ có 1 uẩn là sắc uẩn (vô tưởng thiên).
- Khi nói tứ uẩn hữu (catuvokārabhava)
là chỉ hữu của những vị Phạm thiên vô sắc, chỉ có danh uẩn (tứ uẩn)
không có sắc uẩn (tiềm miên).
- Khi nói ngũ uẩn hữu (pañcavokārabhava) là chỉ hữu của tất cả chúng sanh có đầy đủ ngũ uẩn.
Nói tóm lại, sanh hữu là danh sắc của
kiếp sống mới, là kết quả của nghiệp hữu, như vậy chúng bao gồm thức,
danh sắc, lục nhập, xúc và thọ - của kiếp sống vị lai. Ở vị lai, thức,
danh sắc, lục nhập, xúc và thọ là quả, còn nhân tạo kiếp sống mới là ái,
thủ, hữu lại làm nên nghiệp hữu và sanh hữu cho kiếp kế tục.
Do duyên hữu, sanh sanh khởi (bhavapaccayājāti).
11. Sanh (jāti)
Sau khi có nghiệp hữu liền có sanh hữu. Sanh hữu tức thức tái sanh đi tìm cảnh giới tương ứng ở kiếp sau.
Sự sanh, tức là Tam giới quả tâm.
Tam giới quả tâm ở trong ba cõi là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới.
Tam giới quả tâm ở trong bốn loài là noãn, thai, thấp, hóa.
Tam giới quả tâm trong 3 loại chúng sanh là ngũ uẩn, tứ uẩn và nhất uẩn.
Chúng sanh có ngũ uẩn là ở 11 cõi Dục giới và 15 cõi Sắc giới.
Chúng sanh có tứ uẩn là ở 4 cõi Vô sắc.
Chúng sanh có nhất uẩn là cõi Sắc giới vô tưởng thiên.
Như vậy, sanh là do nghiệp hữu chi phối, tạo nên thức tái sanh vào các cảnh giới tương ứng.
Do duyên sanh, lão tử phát sanh (jātipaccayājarā maraṇa).
12. Lão, tử ( jarāmaraṇa)
Khi có sanh thì có già, chết. Già, chết là quả đương nhiên của sanh.
Điều ta cần lưu ý là khi sanh tức là
danh-sắc sanh. Danh là Tam giới quả tâm (dị thục) và sắc, là do nghiệp
sanh. Danh-sắc ấy có sanh thì có già, lão - tức là trải qua những sát-na
trong các lộ trình tâm mà biến hoại, đổi khác, già lụn... Và chết chính
là kết thúc một đời sống sắc pháp, 17 lần lâu hơn một danh pháp.
Sự sinh và diệt của danh-sắc ấy khó
người nhận biết, nhưng sanh, già lão, tử của sắc thân vật lý của mỗi
chúng sanh thì ai cũng có thể thấy, cảm nhận được.
Và khi một chúng hữu tình có mặt trên
cuộc đời đến lúc chấm dứt hơi thở, một kiếp sống, từ sanh đến lão, tử ấy
thường kéo theo sầu, bi, khổ, ưu, não như là một nghiệp phận không rời.
Như vậy, Thập Nhị Nhân Duyên là một mắc
xích dính liền nhau bởi 12 khoen, liên tục tiếp diễn tạo nên vòng tròn
luân hồi tái sanh vô thỉ vô chung trong cuộc sinh tử. Chúng chịu sự tác
động tương duyên nhân quả trùng trùng.
- Nếu vô minh và hành là nhân quá khứ thì quả hiện tại là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
- Nếu nhân hiện tại là ái, thủ, hữu thì quả vị lai là sanh, lão tử.
Diễn đạt cách khác:
- Nếu nhân quá khứ là vô minh và hành
thì vô minh và hành ấy chính là ái, thủ, hữu. Vì có ái, thủ, hữu nên có
nghiệp hữu và sanh hữu.
- Nếu có nghiệp hữu, sanh hữu thì có quả hiện tại là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
- Có thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ
thì có ái, thủ, hữu (tức vô minh và hành) là nhân hiện tại để cho quả vị
lai là sanh, lão tử hay thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ...
Sự diễn tiến nhân-duyên-quả ấy nó nằm trong một vòng tròn vô thỉ, vô chung.
Vòng Thập Nhị Nhân Duyên này còn được
gọi là pháp phát sanh tùy thuộc. Nghĩa là tùy thuộc cái này, cái kia có,
tùy thuộc không có cái này thì cái kia không. Trong 12 khoen kể trên,
cái nào cũng là nhân, cái nào cũng là quả. Tùy thuộc nhân này cho quả
này, quả này lại làm nhân để sinh quả khác... cứ tương tục vô cùng tận.
Ta có thể cô đọng 12 nhân duyên thành 3 khoen nhân quả, ấy là tam luân:
1. Phiền não luân (kilesavaṭṭa): Đấy là vô minh và ái dục.
2. Nghiệp luân (kammavaṭṭa): Có vô minh, ái dục nên có thủ và hữu - tức nghiệp hữu, hành.
3. Quả luân (vipākavaṭṭa): Vì có
nghiệp hữu tức có sanh hữu, tức là thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ.
Vì có xúc, thọ... nên có ái, thủ, hữu và cứ thế nó cho nhân, cho quả
trong vòng luân hồi.
II. Giải thích Thập Nhị Nhân Duyên như một tiến trình sinh khởi tại đây và bây giờ.
Người ta thường giải thích Thập Nhị Nhân
Duyên theo một vòng tròn khép kín gồm kiếp quá khứ (vô minh, hành),
kiếp hiện tại (thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu) và kiếp
vị lai (sinh, lão tử) và tạo nên vòng luân hồi tái sanh vô tận.
Cách giải thích vậy là hợp lý, là đúng; nhưng người tu thiền tuệ, minh sát (vipassanā) họ hiểu rằng: “Ai thấy Thập Nhị Nhân Duyên tức thấy Pháp, ai thấy Pháp tức thấy Như Lai”.
Và pháp, bao giờ cũng thiết thực hiện tại, ta phải có bổn phận thấy
ngay lập tức (sandiṭṭhiko) không bị hạn cuộc trong thời gian (akāliko)
có thể trở lại và thấy ngay, chính nơi sự sống đang vận hành
(ehipassiko) bằng cách chú tâm, chánh niệm ở đây và bây giờ (opanayiko);
và mỗi người có thể chứng nghiệm nó trong lòng mình (paccattaṃ
veditabbo viññūhi).
Do vậy, người tu tuệ quán có thể quán
sát và thấy rõ sự vận hành của Thập Nhị Nhân Duyên ở trong mỗi bước đi,
mỗi hơi thở, mỗi cử chỉ, mỗi hành động, mỗi cảm thọ hoặc mỗi nhận thức.
Nói cách khác ta phải thấy rõ, biết rõ, hiện quán và thực chứng Pháp ấy.
1. Vô minh, hành
Bất cứ khi nào chúng ta không sáng suốt,
định tĩnh hoặc những khi bị hôn trầm thụy miên, nghi, sân, trạo cử, dục
(5 triền cái) làm che mờ, làm cho dao động, bất an thì khi ấy ta đang
bị vô minh và hành chi phối.
2. Thức, danh sắc, lục nhập, xúc thọ
Cái quả do vô minh và hành đem lại làm
cho thức của ta khởi động, phóng dật lung tung. Vì thức này vốn bị tham
sân si (ở trong hành) chi phối nên nó cứ bất an, dao động theo các đối
tượng. Thức bất an, dao động thì tức khắc khởi sinh các yếu tố tâm lý
nội tại (tâm sở), đồng thời tác động lên thân sắc. Trọn vẹn sự tập hợp
tâm sinh lý ấy được gọi là danh-sắc. Danh-sắc này được hiện tướng là
nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn. Khi va đụng thì
tạo nên lục xúc. Có lục xúc thì có lục thọ.
Tất cả thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ, vốn là quả, là dị thục, là nghiệp cũ, chưa tạo nghiệp mới.
Như vậy, những cảm giác dễ chịu, thích
thú (lạc) và những cảm giác khó chịu, bực bội (khổ) đều là những cảm thọ
bình thường, thuần túy.
3. Ái, thủ, hữu
Khi có một cảm giác không khổ, không lạc
(xả), ta cảm thấy nó trống không, vô vị, ta liền đi tìm kiếm những đối
tượng dục lạc khác rồi rơi vào sự điều động của ái, thủ, hữu. Và từ đó,
ái, thủ, hữu tạo nên nghiệp: Nghiệp hữu và sanh hữu.
Để hiểu rõ những tiến trình duyên khởi,
tại đây và bây giờ của thức, danh-sắc, lục nhập, xúc thọ, ái, thủ, hữu
ấy, ta có thể chiêm nghiệm qua ví dụ sau đây:
"- Hôm kia, tôi đang thiu thiu ngủ, bất
chợt có tiếng động lớn làm tôi choàng mình thức dậy. Bước ra hiên, tôi
thấy một ly trà bị vỡ và có một con mèo đen chạy núp trong khóm cây.
Biết mèo là thủ phạm, tôi chụp vội cây roi rượt đuổi nó đến tận nhà
bếp".
Ở đây, tiếng động lớn làm tôi choàng
tỉnh là thức sinh. Thức sinh thì đồng thời, trạng thái tâm sinh lý nội
tại đồng khởi sinh: Danh-sắc sinh. Danh-sắc sinh thì nhĩ nhập sinh, nhãn
nhập sinh - tức là nghe và thấy ly trà bị vỡ. Lúc nhĩ nhập sinh và nhãn
nhập sinh thì liền phát sanh nhãn xúc và nhĩ xúc. Và rồi có xúc liền có
thọ: Có cảm giác tức giận mới cầm roi rượt đuổi mèo, tạo ý nghiệp bất
thiện, thân nghiệp bất thiện. Như vậy, sau thọ đi liền theo là ái, thủ,
hữu (Cả hàng chục, hàng trăm lộ trình tâm, duyên khởi đồng diễn ra xoay
quanh một câu chuyện, nhiều đối tượng).
Ví dụ khác:
"- Tôi đang ngồi chơi bên hiên nhà thì có một người bạn thân cách biệt 10 năm ghé thăm (thức
sinh). Tôi bồi hồi xúc động (danh sắc, lục nhập, xúc, thọ sinh), đứng
dậy, vồn vã cầm tay bạn, mời ngồi, uống trà cùng hàn huyên tâm sự...
(thọ, ái, thủ, hữu sinh)”.
4. Sinh, lão tử - sầu bi khổ ưu não
Lúc có ái, thủ, hữu sinh là ta đã tạo
nhân mới, nghiệp mới, tức là Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu, rồi tái sanh,
đầu thai khắp ba cõi, sáu đường.
Trong đời sống hiện tại, ở đây và bây giờ, thức của ta cũng tái sanh khắp các cảnh giới như thế.
- Khi ta hận thù một ai (thức sinh) ta
thấy mật gan như bị lửa đốt (danh sắc sinh), muốn tìm kiếm đối tượng ấy
để đánh, giết cho hả giận (xúc, thọ, ái, thủ, hữu).
- Khi ta yêu thương một người, mới nghĩ
đến người ấy (thức sinh) là cảm nghe xao xuyến, tim đập bồi hồi
(danh-sắc sinh), rồi trọn vẹn con người mình đầu tư vào hình ảnh ấy
(danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu).
Như vậy, từ khi thức sinh - thì trọn vẹn
thời gian tiếp theo, toàn bộ tâm sinh lý của chúng ta (danh-sắc) đều
phải bị biến đổi, già lụn, tan rã (lão, tử) đồng thời phải nhận chịu
những quả đương nhiên sẽ tiếp diễn trên lộ trình ấy (sầu, bi, khổ, ưu,
não).
Đấy là tiến trình sinh khởi của Thập Nhị
Nhân Duyên, hay là sự vận hành duyên khởi của Thập Nhị Nhân Duyên theo
chiều thuận. Bây giờ, ta hãy xem sự vận hành ấy theo chiều nghịch, tức
là theo chiều Thập Nhị Nhân Duyên diệt.
III. Thập Nhị Nhân Duyên diệt
1. Vô minh và hành diệt
Trong đời sống thường nhật, lúc ta sáng
suốt, nghĩa là có tuệ chiếu soi thì lúc ấy ta không có vô minh, không bị
vô minh chi phối. Lúc ta an nhiên, định tĩnh thì các hành đều vắng
lặng; ái dục, tham sân không khởi động. Đây được gọi là vô minh và hành
diệt.
2. Thức, danh-sắc, lục nhập, xúc thọ diệt
Khi không có vô minh và hành thì thức
của ta trở nên trong sáng, thanh lương. Toàn bộ tâm sinh lý của ta đều
an ổn, vắng lặng, bình an (danh-sắc), lục xúc, lục thọ theo đó cũng an
ổn, vắng lặng, bình hòa (lục nhập, xúc, thọ).
Vì an ổn, vắng lặng, bình hòa nên gọi là
diệt, chứ không phải diệt là chết mất. Vả chăng, thức danh-sắc, lục
nhập, xúc, thọ là quả, ta không thể diệt quả theo nghĩa cụ thể nhân quả.
Các bậc giác ngộ, giải thoát rồi vẫn còn mang quả dị thục của 23 dị
thục đã tạo từ trước (15 thiện, bất thiện vô nhân tâm + 8 đại thiện dị
thục). Do vậy, trong trường hợp xúc thọ diệt, có nghĩa là do định tuệ
chiếu soi, không có vô minh và hành thì xúc lúc ấy là xúc như thực và
thọ lúc ấy là thọ như thực (paramattha). Các cảm thọ khởi sinh ở thân và
tâm, tạo ra khổ, lạc, xả, hỷ, ưu đều là những cảm thọ như thực.
3. Ái, thủ, hữu, diệt
Khi những cảm thọ đều được định tuệ nhìn
ngắm như thực tướng (paramattha) thì ái, thủ, hữu không thể phát sanh,
chế biến (paññatti) nên được gọi là ái, thủ, hữu diệt.
- Trường hợp ái khởi (tham, sân), nhưng
nếu có định, tuệ chiếu soi; hoặc có chánh niệm, tỉnh giác kịp thời ghi
nhận (tham à! sân à!...) thì lúc ấy ái cũng diệt.
- Trường hợp sau khi ái khởi, các thủ
(dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã chấp thủ) đồng khởi theo, nhưng
nếu có định tuệ, chánh niệm, tỉnh giác kịp thời ghi nhận (đam mê à, chấp
thủ à...) thì lúc ấy, thủ cũng diệt.
- Trường hợp cetanā đã khởi rồi; hoặc
thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp đã khởi rồi; nhưng ngay tức khắc, ta
có chánh niệm, tỉnh giác ghi nhận, quán niệm chúng (cố ý à, chủ ý à...)
thì lúc ấy hữu cũng diệt (giai đoạn này rất khó).
Tuy nhiên, tiến trình ấy xảy ra rất
nhanh, người tu tập tuệ quán thường chọn lựa để cắt đứt tiến trình duyên
khởi sinh tử này từ các cảm thọ, dễ hơn là ở tâm (thân, thọ, tâm, pháp)
như trong kinh Niệm Xứ: Tham biết tham, sân biết sân!
Ở đây, ta có thể đưa một ví dụ:
- Ta bị người kia mắng chửi, nhục mạ
trong lúc ta thường có chánh niệm, tỉnh giác (định, tuệ); nhờ vậy, mặc
dù tai ta khó chịu (khổ thọ) nhưng tâm ta vẫn vắng lặng, an nhiên, bình
hòa (ái, tham, sân diệt). Ái diệt thì chấp ngã diệt (thủ diệt) và ta
không tạo ra các vọng nghiệp qua thân, khẩu, ý (hữu diệt).
4. Sinh, lão tử - sầu bi khổ ưu não diệt
Vì không có ái, thủ, hữu nên không tạo
nghiệp. Vì không tạo nghiệp nên ta sẽ không nhận chịu quả của ái, thủ,
hữu ấy. Nói cách khác, ta sẽ không nhận chịu tiến trình tâm sinh lý từ
sinh đến lão tử - sầu bi khổ ưu não do ái thủ hữu tác động, tạo nên. Ta
không có vọng tâm (ái) nên không tạo vọng nghiệp (thủ, hữu) nên không
tạo thêm tử sinh trên dòng sống, mà trả lại muôn đời cho thực tại như
thị, như chúng là... (paramattha).
Nói tóm lại, khi ta bị vô minh và hành
chi phối thì toàn bộ thế giới tâm sinh vật lý (căn, trần, thức) đều điên
đảo: Đó là 12 nhân duyên sinh khởi. Nhưng nếu ta có định tuệ chiếu soi,
có chánh niệm, tỉnh giác, thì vô minh và hành không sinh khởi thì toàn
bộ thế gian, thế giới (căn-trần-thức) đều vắng lặng, an ổn, thanh bình,
đó là 12 nhân duyên diệt.
Thấy được sự sinh và diệt của Thập Nhị
Nhân Duyên như vậy được gọi là thấy Pháp, và thấy Pháp tức thấy Như Lai.
Mọi bổn phận của vị tỳ-khưu thế là đã làm xong, không còn tái sanh, đầu
thai trở lại trạng thái tham sân si, đảo điên, độc ác, ngu muội của
lòng mình nữa. Họ không còn để lại dấu vết. Họ đã mất tích giữa cuộc đời
mà kinh gọi là vô hành, vô tạo tác.
Lưu ý:
Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận là tiến trình sinh khởi tâm sinh
vật lý ở phương diện tục đế; do vậy nó có đầy đủ cả khổ đế và tập đế.
Trái lại, Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, chiều diệt là sự chấm
dứt vọng tâm, vọng nghiệp ở phương diện chân đế; do vậy nó có đầy đủ cả
đạo đế và diệt đế.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Chú thích:(1) 7 biến hành tâm sở: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn. 6 biệt cảnh tâm sở: Tầm, tứ, thắng giải, tấn, hỷ, dục.
(2) Sắc do nghiệp sanh.
(3) Hoàn chỉnh về phù trần căn, còn tịnh sắc căn vốn có đầy đủ từ lúc kết hợp.
(4) Ngữ là gìn giữ. Vậy, ngã kiến thủ, ngã sở thủ, ngã chấp thủ... đồng một nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét