Bài viết này sẽ tóm lược con đường Giải thoát thật sự của Phật Gotama
và những con đường tu tắt của chư vị Tổ-sư các phái Tân tiến:
Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa. Bài này do cư sĩ Trùng Quang bỏ thời gian rất nhiều, viết ra nhằm giúp các bạn theo Đạo Phật có sự lựa chọn con đường tu hành đúng đắn trước hàng vạn Kinh Sách viết về Đạo Phật nhưng không phải Kinh Sách nào cũng có ích lợi, nhất là Kinh Sách Đại Thừa là rất nguy hiểm, không nên lạc vào mê cung hoang tưởng của các nhà Đại Thừa.
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo
lý của Phật Gotama đã được kết tập nhiều lần và ghi chép
trong Ba tạng Pháp bảo Pàli, tuy có số nhất định, không thay đổi
thêm bớt (Kinh: Năm bộ, Luật: Năm bộ, Vi Diệu Pháp: Bảy bộ), nhưng trọn đời người, ít ai học được đầy đủ.
Mặc
dầu như thế, ở Miến Điện, còn nhiều vị Tỳ khưu thuộc nằm lòng trọn bộ
Tam tạng, có thể đọc suốt một mạch từ đầu chí cuối và cũng có nhiều cư
sĩ thuộc lòng riêng từ bộ một.
Trước ngày Kết tập Tam tạng lần thứ sáu, đương khai diễn tại Rangoon, những cư sĩ
nào muốn vào giúp việc thi công cho Hội nghị Kết tập phải đăng tên chịu
khảo thí. Ai thông hiểu Tam tạng, giỏi chữ mẹ đẻ và chữ Pàli mới được
chấm đậu.
Tam tạng Sanskrit (Ấn Độ), Tàu và Nhật gồm cả thảy lối 2.184 cuốn. Không tài nào tìm cho đủ số và khảo cứu cho chu đáo.
Trong
các xứ Phật giáo thuộc khối Nguyên thủy, như Cao Miên, Ai Lao, Thái
Lan, Miến Điện, Tích Lan mỗi chùa phải có ít nhất một bộ Tam tạng. Tại
Cổ Viện tàng Bangkok, ai muốn khảo cứu Tam tạng nào cũng sẵn có: Pàli,
Sanskrit, Anh, Tàu, Nhật.
Mỗi
nhà sư Miên, Lào, Thái, Miến, Tích phải biết rành chữ mẹ, chữ Pàli hoặc
Sanskrit, nhờ vậy mà trong các Hội nghị quốc tế, người ta tham gia đắc
lực.
Toàn
xứ Việt Nam không có quá 5 bộ Tam tạng chữ Tàu. Có lẽ đốt đuốc kiếm
không ra một nhà Sư nào đã có đọc sơ qua một trong Ba tạng. Đủ biết
trình độ của người tu Phật xứ ta đến bực nào. Chúng ta chưa đủ khả năng
bàn về Phật giáo.
Sở dĩ hai quyển Chọn đường tu Phật ra đời, chỉ tóm lược một cách dốt nát, một vài yếu điểm, mà người học Phật cần phải biết trước, để dọn đường tìm chơn lý, cho khỏi mất thì giờ.
Quyển thứ nhất đã nói về đại cương của sử tích Phật Gotama. Lịch sử Phật giáo và giáo lý hai Thừa.
Quyển
này sẽ tóm lược cái Án đồ Đại lộ Gải thoát của Phật Gotama
và những con đường tu tắt của chư vị Tổ-sư các phái Tân tiến:
Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa.
Lẽ tất nhiên, với sức học thô sơ, tác giả phải có khuyết điểm, sai lầm, mong chư huynh đệ khoan hồng tha thứ.
Ngày kỷ niệm Phật Gotama nhập Niết bàn thứ 2499
TRÙNG – QUANG Cư sĩ
A.- Đạo Giải Thoát Của
Phật Tổ Gotama
Muốn
đi theo con đường hành trình của Phật Tổ Gotama, phải tu Giới,
tu Định, tu Tuệ. Bỏ Giới, hành thiền không thể đắc Định được.
Bỏ Định không còn phương pháp nào tu Tuệ được. Giới nâng đỡ
Định, Định làm cho phát sanh Tuệ. Đường này là đường duy nhứt đi
đến đạo quả Niết bàn. Tiệm cũng nó mà Đốn cũng nó, tùy căn
cơ và hùng lực giải thoát của hành giả.
Đúng
ra trong thế gian không có ông Giáo chủ nào dạy cái đạo Đốn
giáo. Bồ tát Siddhatta còn phải tu trọn 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn
kiếp mới thành bực Chánh Đẳng Chánh Giác. Sở dĩ có người
đắc đạo quả Niết bàn, sau khi nghe lời giảng giải của Phật
Gotama, là vì trong vô lượng tiền kiếp người ấy đã có tu Giới
Định Tuệ rồi, cũng như gà ấp đúng kỳ được khảy mỏ chui ra.
Duyên chưa đầy, quả chưa đủ, không ai tài nào liễu đạo siêu sanh,
trong khi xem kinh nghe pháp. Nếu thật có Đốn giáo thì các
phái Tân tiến không bị suy vong như hiện giờ ở Trung Hoa và Nhật
Bổn.
Người
muốn tu Giới Định Tuệ theo Phật Tổ Gotama, trước nhứt phải
tẩy trừ, gội rửa những thành kiến và tập quán, phải hoàn
toàn là người có tinh thần tinh hảo trắng trong, không còn
vướng một ảnh hưởng nào của đạo giáo hoặc tôn phái khác, tại
gia cũng như xuất gia. Một người không thể đi một lượt trên hai
ba con đường, cũng như không thể thực hành một lượt hai ba giáo
pháp khác nhau và cũng không thể nhồi cục đôi ba tôn chỉ, làm
ra một đạo giáo chung. Điều kiện này rất cần thiết cho hành
giả theo dõi một con đường duy nhứt, khỏi bị xu hướng cũ trói
buộc, che án làm cho tâm hoài nghi, do dự, mất chí cương quyết,
thì mọi việc phải hư hỏng.
Bởi
thế nên thọ Tam quy, ngoài sự cầu xin phó thác tánh mạng cho
Phật, Pháp, Tăng – có nghĩa là từ đây tới giờ phút cuối cùng,
nguyện không xu hướng theo một tín ngưỡng nào khác. Đức Phật
có định người thuộc đạo giáo khác tập sự bốn tháng, trước
khi được thâu nhận cho xuất gia, để người ấy có thì giờ khảo
cứu, dò xét và cân phân chu đáo, hầu so sánh Phật giáo với
đạo giáo của mình, rồi tự do định đoạt, không ai ép buộc.
Nếu
nhận định rằng đạo giáo của mình không thể sánh kịp giáo
pháp của Phật Gotama, mà còn thương tiếc đường lối cũ, hoặc
muốn lợi dụng cái mới chế biến cái cũ, người như thế ấy –
đã gặp cái hay mà không can đảm rứt bỏ được cái dở,– không
phải là bực trí tuệ; dầu có vào làm cận sự nam hay nữ hoặc
xuất gia đầu Phật, cũng không nên trò: người không chơn chánh,
khó gặp đạo chánh.
***
TU
GIỚI (Sila). – Người tại gia phải nghiêm trì Ngũ giới hoặc Bát
quan trai. Nếu hành đạo có kết quả hoặc muốn dọn đường xuất
gia, có thể tự ý nguyện thọ Thập giới.
Bực xuất gia như Sa-di phải thọ Thập giới; Tỳ khưu phải thọ Cụ Túc giới (227 điều luật).
Giới
nào cũng có năng lực đem lại kết quả tốt đẹp cho Định. Nếu
giới thọ trì được tinh nghiêm, tại gia cũng như xuất gia, có
thể đắc đạo quả Tứ Thánh, từ Tu-đà-hườn đến A-la-hán, như
nhau. Nhưng về thực tế, cư sĩ khó bì với bực xuất gia, bởi
các ngài hết bận việc đời. Mà nếu các ngài dễ duôi, không
tinh tấn công phu hành đạo, lâu ngày giới cũng lem luốc và có
khi cũng bán đồ nhi phế. Giới sanh Định, mà Định cũng nâng đỡ
Giới. Gới không Định thì Giới cũng khó giữ được trong sạch.
Các nhà sư ở chùa không thể sánh kịp những vị Thiền sư ở
rừng núi thanh vắng, vì ở chùa náo nhiệt ồn ào, lại thường
ngày bị gió trần lung lạc.
Người
cư sĩ, còn bận rộn với gia đình thế sự, khó mà gìn giữ
Giới cho hoàn toàn chu đáo. Ai chuyên trì được trong sạch, kinh
nghiệm đã cho thấy rằng cuộc đời dần dần được thanh thoát yên
vui. Nếu có chí giải thoát nên sắp đặt gia đình yên nơi yên chỗ,
ký thác việc nhà cho người chăm nom, tìm nơi thanh vắng hành
thiền tu tuệ, hoặc xuất gia ẩn dật chuyên lo tu niệm, thì con
đường giải thoát ở trước mắt.
Giới
có năng lực diệt trừ tham lam ít kỷ, cho nên người thọ Giới
phải luôn luôn bố thí để giảm lần bỏn xẻn. Bố thí có nghĩa
rộng lớn bao la: Tùy khả năng, tùy hoàn cảnh, tùy phương tiện,
dùng của, dùng công, dùng lời đạo đức, để đền ơn, đáp nghĩa,
làm lành, xử phải, chẩn cô, tế bần, tóm lại là làm mọi phận
sự đối với cha mẹ, thầy tổ, vợ con, thân bằng, quyến thuộc,
đồng bào, chủng tộc, muôn loài vạn vật.
TU ĐỊNH (Samâthi).– Định có năng lực diệt trừ sân hận, oán thù. Về pháp môn này xin xem kinh Chánh Định (Samâthi), Thanh Tịnh (Visuddhi), Bát Chánh Đạo (Ariya-magga), v.v... Đây chỉ là nói sơ lược.
Tu Định có 40 phương pháp, ví như 40 vị thuốc để tùy theo căn bịnh, giải độc cho hành giả.
Bốn chục pháp Thiền-Định chia ra 7 phần:
I – 10 pháp Kasina (dùng đất, nước, lửa, gió, hư không, ánh sáng, màu xanh, vàng, đỏ, trắng làm đề mục).
2 – 10 pháp Âsubha là mười thứ tử thi.
3 – 10 pháp Anusati là niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Bố thí, chư Thiên, sự chết, Thân thể, Hơi thở, Niết bàn.
4 – 4 pháp Brahmavihâra là rải tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, đến tất cả chúng sanh.
5 – 4 pháp Arupa (Đề vô-sắc: Hư không, Thức, Vô hữu sở, Phi phi tưởng).
6 – 1 pháp Vavatthâna (Tứ-đại trong thân thể).
7 – 1 pháp Sanna (Tưởng vật thực là ô trược).
Trong
40 pháp thiền định nói trên, hành giả phải biết lựa pháp nào
hạp với tánh nết của mình, mà hành theo mới có kết quả.
Mỗi người có sáu tánh nết, nặng nhẹ, tự mình biết lấy: Có
nhiều người ái dục, nhiều sân hận, nhiều si mê, nhiều tính tin,
nhiều tính giác, nhiều tính tâm.
Nếu ái dục nhiều, phải lựa pháp đối chọi là: 10 pháp Asubha (10 tử thi) và pháp niệm Thân thể (32 thể trược).
Nếu
sân hận nhiều, phải lựa pháp đối chọi là: 4 pháp Brahmavihâra
(rải lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả) và 4 đề mục: Vàng, Xanh, Đỏ, Trắng
trong pháp Kasina.
Nếu si mê nhiều thì niệm Hơi thở, trong pháp Anusati.
Nếu tính tin nhiều, thì niệm 6 đề mục: Phật, Pháp, Tăng, Giới, Bố thí, chư Thiên trong pháp Anusati.
Nếu
tính giác nhiều thì niệm: Sự chết, Niết bàn trong pháp
Anusati, và đề mục Tứ đại trong thân thể (Vavatthâna).
Nếu tính tâm nhiều, thì niệm Hơi thở (Anusati).
Còn
lại 10 pháp: 6 pháp về Đất, Nước, Lửa, Gió, Hư không, Ánh
sáng, trong Kasma và 4 pháp Aruga, đều hạp đủ cả tính nết.
Thiền
định là phương pháp cột trói Tâm cho an trụ trong một đề mục,
không cho vọng chuyển, phóng túng theo trần cảnh, quyến luyến
trong tam giới; Cũng như thuốc để chữa các chứng bệnh trầm kha
của Tâm, nhất là năm tùy phiền não, hằng làm cho tâm tối mê, lầm
lạc, vui thích trong luân hồi, không nhàm chán trong sanh già đau
chết, không thấy rõ Tứ đế, Đạo quả và Niết bàn.
Năm tùy phiền não ấy, gọi là Năm Pháp Cái, cũng gọi là vật thực mê thích của Tâm là:
1
– Kâmacchanda: Tham dục, bao hàm cả tình dục, xan tham, nguyện
cầu, ganh tỵ, không hoan hỷ, không tri túc. Các phiền não này, khi
phát sanh lên, làm cho Tâm tối mê, không thấy rõ tội phước,
không phân biệt phải quấy; Ví như nước bị pha nhiều màu sắc,
không thể soi thấy bóng được.
2
– Byapada: Thù oán, Phiền não này làm cho Tâm không vừa lòng,
nóng nảy, bực tức, xốn xang, hết biết tội lỗi; Ví như nước
sôi, không thể soi thấy bóng được.
3
– Thinamiddha: Giãi đãi, Phiền não này làm cho Tâm dã dượi,
biếng nhác, tiều tụy; Ví như nước bị rong rêu che áng, không
thể soi thấy bóng được.
4
– Uddhaccakukkucca: Phóng dật, Phiền não này làm cho Tâm vọng
móng theo trần cảnh, buông lung theo việc ác, trồi sụt, tới lui,
không yên lặng; Ví như nước bị gió thổi thành sóng lưỡi búa,
không thể soi thấy bóng được.
5
– Viccikiccha: Hoài nghi, Phiền não này làm cho ngờ vực, không
quyết định; Ví như nước nước đục, có nhiều cặn cáo, không thể
soi thấy bóng được.
Năm
tùy phiền não nói trên cũng gọi là Năm pháp “Che lấp” con
đường giải thoát. Chỉ có Thiền định mới thiêu hủy được Năm
chướng ngại ấy, bởi nhờ Thiền định mà hành giả rèn luyện
được năm phép lành để vượt khỏi những chướng ngại ấy. Năm
phép lành ấy gọi là Năm chi thiền:
1
– Vitakka Tầm (Giác chi), là trạng thái Tâm bắt lấy đề mục
thiền định, làm cảnh giới. Tâm có năng lực diệt trừ Hoài nghi.
2 – Vicara: Sát (Quán chi), là sự quan sát, suy nghĩ của tâm trong đề-mục. Sát diệt Hôntrầm hay Giãi đãi.
3
– Piti: Phỉ lạc (Phỉ chi), là trạng thái thân tâm no đủ, vui
sướng, nhẹ nhàng, mát mẻ trong đề mục. Phỉ diệt Sân hận hay
Thù oán.
4 – Sukkha: An tịnh (Tịnh chi), là thân tâm an vui, thơ thới do Phỉ phát sanh. Tịnh diệt Phóng dật hay Phóng tâm.
5 – Ekaggata: Định (Nhứt tâm chi) là Tâm yên lặng trong một cảnh giới của đề-mục. Định diệt Tham dục.
Khi
Tâm có đều đủ cả năm chi ấy, gọi là đắc Sơ thiền
(Pathamajhâna). Khi Tâm được yên lặng, vững vàng thêm lên nữa, dứt
bỏ Tâm và Sát, chỉ còn Phỉ, Tịnh, Định, gọi là đắc Nhị
thiền (Dutiyajhana). Khi Tâm càng thêm an tịnh, cực lành, dứt bỏ
thêm Phỉ, chỉ còn Tịnh, Định, gọi là đắc Tam thiền
(Tatiyajhana). Khi Tâm càng thêm an tịnh sâu xa thêm nữa, vô ký
trong cảnh giới, dứt An tịnh biến thành Xả và Định, gọi là
đắc Tứ thiền (Cattuthajhana).
Tóm
lược vài dòng cả 4 pháp Thiền định, tạm miêu tả, một cách
vụng về, con đường hành trình của chư Thinh văn, Duyên giác và
Chánh đẳng Chánh giác, mà đức Phật Gotama đã chỉ dạy rành rẽ
trong Tam tạng Pháp bảo cho người Phật tử có chí nguyện giải
thoát noi theo để tiến lần đến nơi Vô sanh bất diệt.
Trong
giới Phật tử, từ bực xuất gia đến hàng cư sĩ, khi học qua môn
Thiền định và trong lúc cố gắng tìm hiểu để thực hành, năm
chướng ngại trong Tâm thường phát khởi lên che lấp, khiến cho họ
ngờ vực, giãi đãi, ngã lòng; bởi Thiền định là pháp trói
cột Tâm không cho thao túng, lặn hụp trong ngũ dục, lẽ tất nhiên
Tâm phải viện đủ lẽ để thoái thác.
Nguyện
vọng của tác giả là khêu gợi để giục lòng những tâm hồn mộ
đạo, dứt bỏ tập quán và các sự ỷ lại nơi thần linh, tìm
đường theo dõi Phật Gotama, tận cửa chơn lý, mà Ngài đã rộng
mở cho chúng ta từ hơn 2.000 năm qua.
TU
TUỆ (Panna) - Tuệ có năng lực diệt trừ Si mê. Tu Thiền định
được kết quả, tâm vắng lặng, an trụ, cực lành, đè nén được
năm tùy phiền não nói trên, như nước lóng cặn bùn dưới đáy lu,
có thể soi thấy bóng được. Nhờ lìa khỏi năm pháp che lấp, Tâm
trở nên linh hoạt, sáng suốt. Vừa khi xả thiền, hành giả bắt
qua tu pháp Vipassana (Minh sát tuệ) cho trí tuệ tăng trưởng thêm
lên, nghĩa là dùng Tâm sáng suốt ấy, như cái gương soi đã được
lau chùi trắng trong, không còn dính chút bợn nhơ nào, để soi
cho thấy lý vô thường, khổ não, vô ngã của danh sắc, lục nhập,
lục căn, tứ đại.
Mỗi
ngày mỗi rèn luyện như thế ấy, tùy theo năng lực của mỗi bực
thiền định, tuệ giác lần lần khai thông, hành giả thấu rõ
thật tướng của danh sắc, lục nhập, tứ đại, đoạn tuyệt: thân
kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tình dục, sân hận, sắc dục, vô
sắc dục, ngã mạn, phóng dật, vô minh, là 10 loại Sử trói buộc
Tâm chúng sanh trong luân hồi. Diệt được 5 loại Sử đầu tiên thì
chứng đạo quả, từ Tu-đà-hườn đến A-na-hàm, đoạn tuyệt luôn
cả 5 Sử sau chót, thì chứng đạo quả A-la-hán, tức là Niết
bàn.
Đó
là con đường giải thoát của Phật Gotama đã tự mình tìm kiếm,
với bao nhiêu nhẫn nại hy sinh, và nhờ Ngài chỉ dạy phân minh,
nên được vô số người đã thành đạo chứng quả. Chư Thinh văn La
hán đã kết tập để lại cho hàng Tăng bảo nối tiếp nhau truyền
thụ cho hậu thế.
Trên
đây cũng chỉ tạm lược phần tu Huệ, để cho các bạn có chí
nguyện giải thoát, biết chút quan niệm thô sơ về những chi tiết
tế nhị để thực nghiệm Bát chánh đạo, là con đường duy nhất
đưa người từ bến mê tân đến bờ giác ngộ.
Sau
khi nghiên cứu những giáo lý của đức Thế Tôn trong kinh điển
Pàli, các bạn mới có thể so sánh Tiệm giáo Bảo thủ với Đốn
giáo Tân tiến.
Tóm
lại Giới, Định, Tuệ nào có xa lạ với chúng ta, và chúng ta
quá hãnh diện với giả thuyết của các vị Tổ sư Ấn Độ, Tàu,
Nhật rồi khinh thường Bát chánh đạo của Phật Tổ Gotama.
Vì
thích Đốn giáo, chúng ta bỏ giới, chấp định, là hai nấc thang
đầu tiên, cứ lo biện luận triết lý huyền học, để cầu cho mau
liễu đạo siêu sanh. Nhiều khi chúng ta đã chạm trán vô bức
tường “Bất khả tư nghì” sững vững, choáng váng, nửa say nửa
tỉnh, như người nhảy dù, từ mây xanh sa xuống đất. Bi kịch đã
diễn ra từ mấy thế hệ, mà chưa thấy ai tỉnh ngộ, vẫn lo đốn
hoài. Đốn từ Ấn Độ, Cao Ly,Trung Hoa, Nhật Bổn, cho đến ngày
nay rừng thiền trở thành một cánh đồng không mông quạnh, hoang
vu, với bao nhiêu tàn tích sụp đổ, vùi lấp dưới đám cỏ gai,
mà cũng chưa thấy ngộ những gì hơn là tà kiến dị đoan.
Ấn
Độ, Cao Ly, Trung Hoa, Nhật Bổn, cũng như Việt Nam, đương sống
những ngày tàn tạ của Phật giáo Tân tiến, mà khi nghe nói đến
giáo lý của Phật Tổ Gotama, ai ai cũng trề môi khinh bỉ cho là
Tiểu thừa. Còn nói đến Giới, Định, Tuệ thì họ vùng mình
rởn ốc, như sợ thú dữ; Là vì đã có người mạo hiểm luyện
theo Dù-già, Huyền-diệu-cảnh, Ấn chú, mà không rành cách
thức, bị lửa Hỏa dầu thiêu đốt tim phổi, hoặc ma quỷ nhập
vào; Thay vì luyện ra thuốc trường sanh bất lão, trở lại mang
bịnh ho lao, thổ huyết, loạn óc, khùng điên, vô phương cứu chữa.
Trước những kinh nghiệm tai hại như thế, ai lại không ghê sợ.
Xin
chư độc giả an lòng, và nên biết rằng nơi đâu có người hành
đúng theo đường lối của Phật Gotama chỉ dạy, thì nơi đó vẫn
có người ngộ đạo, chứng quả, như lúc Phật còn tại thế. Hiện
giờ ai muốn gặp bậc đã vào vòng Thánh vức, cũng có thể gặp
được.
Tu
đúng theo Bát chánh đạo chắc chắn không bị sai lạc qua Bàng môn
tà đạo, không ngây cuồng, không loạn óc, mà càng ngày càng minh
mẫn, sáng suốt, càng thấu rõ chơn-lý.
Phật
Gotama còn chỉ dạy tỉ mỉ cách phân biệt chánh định với tà
thiền. Nhờ đó mà hành giả tránh khỏi nguy hại của tà đạo.
Có năm cách phân biệt chánh tà, gọi là ấn chứng của chánh
định: Ánh sáng như trời chớp, thân tâm mát mẻ, da nổi ốc, như
sóng tạt vào mình, thân tâm nhẹ như được bay bổng lên hư không.
Trong lúc công phu, nếu hành giả gặp triệu chứng nào khác hơn
năm ấn chứng nói trên, nên biết đó là Ma vương, nên rứt bỏ,
hoặc xả thiền, nghỉ ngơi rồi tiếp tục.
Nói
cho đúng ra chỉ có người, đã theo đường lối của đức Phật mà
còn nuôi nhiều tà vọng, mới gặp Ma vương cám dỗ: bằng nhứt tâm
theo Phật thì chẳng bao giờ lạc ra khởi chánh định.
B.– ĐỐN GIÁO CỦA CÁC VỊ TỔ SƯ TÂN TIẾN
Chúng
ta bị cảm nhiễm lâu đời theo Phật giáo Tân tiến, nên cứ giữ
mực: ăn chay, niệm Phật, (Lục tự Di-Đà), tụng kinh, để chờ đến
giờ lâm chung, có Phật đến rước. Như thế cũng vừa sức công phu
hành đạo mỗi ngày cho đến trọn đời và có đức tin vững chắc
sẽ thành Phật.
Kinh
đã chép rằng Phật dạy như thế, và thầy tổ xưa nay cũng vẫn
đi theo con đường duy nhứt ấy, thì còn tìm đâu nữa.
Con
đường giải thoát này, nếu không phải đốn ngộ chớ cũng hơn
tiệm tu, bởi nó đầy hứa hẹn, đối với đức tin, mặc dầu không
có bằng cớ xác thực.
Đây
là con đường thông dụng, ngoài ra còn có nhiều lối đốn ngộ
của các vị Tổ sư Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa Tân tiến.
Bởi
là giáo pháp Đốn ngộ, nên không có phương châm rõ rệt, như
đường lối chỉ dẫn của Phật Tổ Gotama. Giáo pháp Đốn ngộ toàn
là những luận cứ triết lý, hành giả cứ đọc sách giáo khoa
của Tổ sư mình, dùng trí tuệ khám phá những ý tứ ẩn vi trong
đó; Ai tìm được những lý nhiệm mầu sâu kín của đạo, người
ấy phải là người đã phát tuệ, mới ngộ được mối huyền vi của
đạo. Trò nào thông đạt được cơ mầu, thầy mới truyền Tâm ấn
cho, để nối nghiệp qua đời sau.
Đạo
bí ẩn, nên chỉ dùng thông cảm tương giao, không thể giải thích
cho rõ rệt; Có viết ra cũng dùng lối bí ẩn, cho nên khi các
ông giáo tổ qua đời, mà không người kế nghiệp, kinh sách để
lại, đoàn hậu tấn tùy theo trình độ, nhận định khác nhau,
trúng thì nhờ, sai thì chịu. Thật ra không ai hiểu được rốt
ráo; Nếu hiểu được thì đã chứng đạo rồi, và nếu có người
ngộ đạo, thì sự nghiệp Tổ tổ tương truyền vẫn còn nối tiếp
đến ngày nay.
Tuy
không ai hiểu được, nhưng người vẫn ưa thích học Đốn giáo, hy
vọng có ngày thành Tổ nên Phật. Đốn giáo đòi hỏi một trí
tuệ rất cao siêu, mà người trong thời buổi này lại kém phần
học lực về Hán văn, nên tuy cố gắng xem kinh học pháp, mà
dường như không thông hiểu nghĩa lý xâu xa, nên chưa gặp ai ngộ
đạo liễu pháp. Mặc dù ở trong vòng luẩn quẩn, nhưng nhiều
người có thiện chí sưu tầm học hỏi. Khi gặp nhau thì cật vấn
luận biện, vui thú với đạo mầu. Kẻ thấp thừa dịp học thêm,
người cao đắc chí nói nhiều, tối ngày không biết mệt mỏi.
Triết
lý có năng lực hấp dẫn, tâm hồn cao hứng trong mộng huyền vi,
nhưng rốt cuộc chưa ai nếm được hương vị của đạo quả nào. Cho
biết rằng ngoài Giới và Định không có Tuệ, cũng như ngoài Tuệ
không có Niết bàn. Bỏ Giới chấp Định, ai nói mình đã đắc
Tuệ, người đó phải là người cao siêu hơn Phật. Chúng ta có nên
tin rằng các vị Tổ sư Đốn giáo đã hoàn toàn sáng suốt hơn
Phật chăng?
Xem
qua những giả thuyết triết học sau đây của các vị Tổ sư ba
thừa, chư độc giả sẽ có dịp suy xét để chọn lựa đường chánh
nẻo tà.
TIỂU THỪA TÂN TIẾN
I – VAIBHASHIKA: Câu Xá tông - Tông này lấy Tạng luận làm nền tảng.
Xin
nhắc lại, trong khi kết tập Pháp bảo lần đầu tiên, do Đại đức
Kassapa (Ca Diếp) làm chủ tọa, chỉ có Tạng kinh và Tạng luật.
Qua đời Hoàng đế Asoka (A Dục), thế kỷ thứ III, trước Giato,
phái Bảo thủ Sthaviravada (hay là Theravada) chia Tạng kinh ra hai
phần: Kinh (Suttas) và Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Phần Vi Diệu
Pháp gồm cả những pháp vi tế cao siêu của đức Phật giảng giải
cho Phật Mẫu và chư Thiên nghe, trong hạ thứ 7, về Tâm, Ý, Danh,
Sắc và Niết bàn.
Cách
hơn 400 năm về sau, thế kỷ thứ II kỷ nguyên này, phải Tiểu thừa
Tân tiến Sarvastivada (Tát Bà Đa Sa) dựa theo Tạng Vi Diệu Pháp
nói trên, làm ra một Tạng luận riêng biệt bằng chữ Sanskrit.
Qua thế kỷ thứ IV, kỷ nguyên này, ông Vasubandhu (Thế
Thân), một nhà triết lý học sanh trưởng tại Peshawer, xứ
Gandhara, thuộc miền Tây Bắc Ấn Độ, lập ra phái Vaibhas-hika
(Câu-Xá-tông), nối truyền cho phái sarvastivada, viết ra một bộ
giáo khoa, làm nền tảng cho đạo của ông, gọi là bộ Abhidharma
Koca Castra, tức là bộ A-tì-đạt-ma Câu -xá -luận, có nghĩa là
kho chứa huyền học.
Qua
thế kỷ thứ VI (563), ông Para nartina (Chơn Đế) truyền bá
Câu-Xá-tông qua Trung Hoa và chính ông dịch bộ A-tì-đạt-ma
Câu-xá-luận ra chữ Hán. Có lẽ ông dịch không mấy đúng nghĩa
lý, nên đến năm 654 thầy Huyền Trang phải dịch lại một lần
nữa.
Từ
đây Phật giáo không còn là một chủ nghĩa thực nghiệm của hai
vấn đề: Khổ và diệt khổ, lại trở thành một trường luận biện
rất thạnh hành, nghĩa là không còn đề cập đến: Bố thí, Trì
giới, tham thiền, Nhập định nữa.
Câu-Xá-tông chủ trương về Thực thể, tức là thiên qua Duy vật.
Đại
cương thuyết giáo này là: không có cái Ta, mà có những thể
chất làm ra cái Ta. cái Ta chỉ là sự phối hợp của Năm uẩn.
Chính Năm uẩn mới đáng gọi là Thực thể, vì Năm uẩn cấu thành
bởi nhiều nguyên tử. Những nguyên tử ấy có thật, trừ ra những
vật cấu hợp mới coi là bào ảnh.
Linh hồn cũng như xác thân, đều do những nguyên tử phối hợp,
một ngày kia sẽ sụp đổ, để nhường chỗ cho vật cấu tạo mới
khác. Triết lý này chủ trương phân tích phần phức tạp trong
thân, là cái Ta, rồi phân loại những nguyên tố làm ra cái Ta,
như sắc, thọ tưởng, hành, thức. Năm nguyên tố này còn bị phân
tích ra 18 nguyên tố và 75 đặc thể vi tế nữa; Trong đó có 72
loại của Ngũ uẩn và 3 loại ngoài Ngũ uẩn, như hư không và hai
trạng thái Niết bàn.
Đức
Phật dạy rằng tâm thức, cũng như vạn vật, đều tiến triển
không ngừng nghỉ, Câu-Xá-tông cũng nhìn nhận rằng không có linh
hồn bất di bất dịch, nhưng lại tin có nguyên tố, tức là họ mở
đường thiên về Duy vật. Họ còn cho rằng đức Phật là một bậc
siêu nhơn đã chết mất trong Hư vô, cho nên Niết bàn đối với họ
là Hư vô.
Theo
Bắc Phạn (Sanskrit) chữ Vaibhashika có nghĩa là Minh thuyết, đủ
cho chúng ta biết tâm trạng của họ ra thế nào.
Từ chỗ Có của Nguyên tử, đến chỗ Không của Niết bàn. Ông Vasubandhu (Thế
Thân) muốn để cho môn đệ ông tự lực khám phá cho ra Chơn lý. Vì
không ai tu chứng, nên sự nghiệp của ông không người kế thừa. Ông
buộc lòng phải bỏ giả thuyết của ông, để hiệp tác với anh
ông là ông Asanga (Vô Trước) lập ra một giáo phái khác, mà
chúng ta sẽ có dịp xem qua.
2–
SAUTRANTIKA: Thành Thật tông. -Tông này lập ra trong thế kỷ thứ
I, kỷ nguyên này, do ông Kumaralahdha (Cưu-ma-la-đa). Danh từ
Sautrântika nghĩa là Sự thật, sự thật phát minh sau khi khảo
cứu bộ Abhidhamma (Vi diệu pháp) của Phật giáo Bảo thủ. Có lẽ
ông dùng cách khẩu khẩu tương truyền, nên không có kinh sách để
lại. Qua thế kỷ thứ IV, học trò của ông tên Harivarman (Ha lỹ
bạt ma) viết ra cuốn Satyasiddhi –Castra: Thành Thật Luận, có
nghĩa là quyển sách luận về Chơn lý rốt ráo.
Qua
thế kỷ thứ V (411) có ông Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập) truyền bá
Thành Thật tông qua Tàu và dịch quyển Thành Thật Luận ra Hán
văn.
Qua
thế kỷ thứ VII (625), một nhà sư Nhật Bổn tên Eikwan (Kiết
Tạn) qua Trung Quốc khảo cứu quyển ấy đem về xứ được ông Hoàng
Shôtoku Taishi truyền bá cùng khắp nhơn gian, dưới cái đạo hiệu
là Jô Jitsou.
Thành
Thật tông cho rằng đức Phật là bậc Siêu phàm, thường thị hiện
giữa tín đồ. Họ không nhìn nhận có linh hồn và có ngũ uẩn:
Cái ve không, không đựng chi hết, cũng như trong thân ngũ uẩn chẳng có
cái chi gọi là cái Ta. Thể chất của cái ve chẳng có thật,
cũng như các pháp là ngũ uẩn, chỉ có tên rỗng không thôi.
Theo
Phật Gotama, cái Ta là những trạng thái của Tâm thay đổi như
chớp nhoáng. Thành Thật tông dạy chẳng những không nên nói như
đức Phật rằng sự vật biến đổi vô thường, mà phải hiểu rằng
sự vật chỉ có trong sát na thôi. Quá khứ, hiện tại, vị lai
không có; Trạng thái hiện hữu của sự vật mới có thể gọi là
có, bởi sự vật vừa là có, vừa là không; Vừa sanh, lại diệt
đi. Mỗi hành động làm cho thay đổi cả thân tâm. Nhưng thân là
một, tâm là một; Ví như khúc dây luột bị đốt một đầu, đầu kia
có người cầm và quây tròn. Mắt dòm thấy một vòng lửa. Vòng
ấy là một đơn vị (một chúng sanh), sanh ra bởi nhiều đốm lửa
liên tiếp. Vòng lửa liên tiếp ấy chẳng khác nào những hột
chuỗi xỏ bằng chỉ. Các hột chuỗi đều riêng biệt nhau, nhưng bị
kết chùm lại một xâu. Cũng ví như con sông, thật ra không có
chi gọi là sông, đó chỉ là những giọt nước chảy kế tiếp nhau
thôi. Mắt thấy có người, thật ra đó là một đứa bé biến đổi
liên tiếp ra một thanh niên, một ông già, là ba trạng thái khác
hẳn nhau. Thế thì có chi bền vững mà gọi là Ta. Nhưng, mặc
dầu cái Ta ấy là những trạng thái thay đổi liên tiếp, nó vẫn
biết lấy nó, như ngọn đèn tự rọi sáng lấy nó vậy.
Không
nhìn nhận có cảnh giới bên ngoài, Thành Thật tông cho rằng sự
vật là có, là do hình ảnh phát hiện trong Tâm.
Ông
Hariwarman (Ha-lỹ-bạt-ma) có nhấn mạnh rằng: Cái tiếng Ta của
đức Phật thường dùng, chỉ là một danh từ thường thôi, vũ trụ
chỉ là ảo mộng, nhận thức của con người là cơn mộng trong khi
thức thôi. Nhất thiết là rỗng không, chẳng có một chúng sanh
nào, chẳng có chi gọi là Ta. Vũ trụ là bào ảnh trong những
sát na, một diễn tuồng thay đổi của các pháp hiệp tan liên
tiếp, tùy theo sự hóa hợp của các nguyên tố tinh thần và vật
chất, do nghiệp lực kết tụ và tung tán, cho đến chừng nào sự
vật hườn lại nguyên bổn, là chỗ không không.
Tiếp
theo thuyết không không, ông Ha-lỹ-bạt-ma biện rằng: Nếu nói như
Phật rằng con người từ kiếp này còn phải trôi dạt qua kiếp
khác, thì không thể được; Bởi Phật còn nói rằng khi chết, tâm
thức cũng tan rã như xác thân. Nếu không có cái chi tồn tại,
thì không thưởng phạt, không nghiệp báo, không luân hồi và cũng
không Niết bàn. Phải chăng giáo lý của Phật Gotama là một xảo
thuyết à? Nếu trong con người chẳng có chi tồn tại, thì cần
chi phải xem kinh, cần chi phải tham thiền, cần chi phải khổ
hạnh.
Rồi
ông Ha-lỹ-bạt-ma kết luận: Thuyết của Phật và thuyết của ta
đối chọi nhau, vậy thuyết nào phải, thuyết nào quấy? Thế thì
cũng chưa giải quyết được, vậy ta nên nghe lời Phật dạy: chẳng
nên biện luận về triết lý.
Sau
khi luận xuôi rồi luận ngược, nhà triết lý học Ha-lỹ-bạt-ma
nhìn nhận rằng biện thuyết của ông vẫn không đem đến một tia
sáng nào và khuyên: Hãy tin nơi lời Phật dạy và chẳng nên vượt
khỏi giáo lý Phật Đà.
Luận
thuyết này có vẻ thành thật, nhưng cũng không bổ ích cho sự
giải thoát. Biện luận về Phật pháp để nhận thức một phần
nào, tùy theo giới hạn của lý trí phàm nhơn, rồi cần phải tu
Giới, Định, Tuệ mới thấy rõ chơn lý.
Tới
đây ông Ha-lỹ-bạt-ma vừng chơn cũng vừa; và cũng lẽ ông cũng
chưa khám phá được tuệ giác của Phật, nên lập giáo của ông
tới đây cũng chấm dứt.
3–
VINAYA: Luật tông. – Trước giờ nhập diệt tại Kusinara, Phật
Gotama đã di chúc cho các vị Tỳ khưu: “Sau khi Như Lai diệt độ
rồi, các con hãy lấy Giới luật làm Thầy, cố gắng tu hành chớ
nên dễ duôi”.
Đối
với những Phật tử chưa chứng đạo quả Tứ Thánh, hai chữ “dễ
duôi” có nghĩa rất quan trọng về phương diện giải thoát. Giới
luật là nấc thang đầu tiên để tiến đến mức cứu cánh Giới luật
là nền tảng, là tuổi thọ của Phật giáo. Không có giới luật
để thôi thúc cho lục căn thanh tịnh, người Phật tử đã không nhờ
đâu mà tu định, tu tuệ hầu chứng đạo quả Niết bàn được, và
luôn đó cũng không duy trì Chánh pháp được trường tồn hưng
thịnh.
Tâm
của chúng sanh bao giờ cũng ưa thích tự do phóng túng theo ngũ
trần lục dục, chẳng hề chịu trói buộc trong khuôn khổ giới
luật. Vì đó mà nhóm Vajjiputta mới tách ra lập phái Tân tiến
(1), để canh cải cho bớt phần nghiêm khắc và tiện bề quay trở
theo dục vọng. Khởi đầu họ sửa đổi 10 điều răn cấm, để thâu
nạp tiền bạc và tự do ăn uống. Sau lại, khi tách ra khỏi hệ
thống Nguyên thủy, họ lập nhiều điều luật riêng bằng chữ
Sanskrit. Lẽ tự nhiên, luật này không giống với luật của Phật
ngự chế, chỉ mường tượng chút ít thôi.
Luật
căn bản gồm có 250 khoản (Luật Tây Tạng có 253), nhiều hơn của
Phật 23 điều luật. Các bộ luật Tân Tiến lập ra trong khoảng
từ 844 tới 1.088 sau khi Phật nhập Niết bàn.
(1)Xem quyển I
Qua
thế kỷ thứ III, kỷ nguyên này, có ông Dharmakala (Đàm Ma Ca La)
tục gọi là Pháp Thời, đem Luật tông qua Tàu truyền bá. Đến
thế kỷ thứ V, ông Bhuddhayacas (Phật Đà Da Xà hay là Giác Minh)
phiên dịch ra Hán văn. Qua thế kỷ thứ VIII (754), Luật tông được
truyền sang Nhật Bổn, dưới hiệu Ritsu, bởi nhà sư tên Ganjin
(Đạo Tuyên).
Tông
này không được phổ thông vì người Tàu cũng như người Nhật, ít
chịu giam mình trong giới luật. Người nào tinh tấn lắm, chỉ
giữ một vài điều luật, lâu ngày mòn mỏi, không ai còn biết
những điều răn cấm của Phật ra sao. Các nhà sư giấu mất Tạng
Luật, và dối với tín đồ rằng Phật cấm không cho cư sĩ để ý
đến phận sự của thầy Tỳ khưu. Sợ tín đồ biết Luật xuất gia,
dòm ngó hành vi của họ; Họ còn hăm dọa: Nếu các người lỡ
phạm lỗi với Phật, có Tăng cứu rỗi cho; Bằng phạm với Tăng,
thì không còn ai che chở, ắt phải sa địa ngục. Tín đồ lại
càng sợ thêm, nên chẳng ai dám tọc mạch, để cho các thầy tha
hồ phá giới.
Sau
này nhờ có Hội Phật giáo Hoàn cầu cổ động chỉnh đốn chế
độ Tăng già cho thích hợp với quy tắc của Phật di truyền, nên
hiện giờ có vài trường Phật học đem giới luật ra giảng giải
cho Tăng Ni nghe. Nghe để cho biết, chớ cũng chưa dám thực hành.
Dường như người ta còn e lệ, hoặc không đủ can đảm để áp dụng,
bởi xưa nay họ thường cao rao rằng Đại thừa không cố chấp giới
luật như Tiểu thừa, nếu trở lại thực hành giới luật, sợ hổ
ngươi với Tiểu thừa. Hơn nữa, đã quen tự do phóng túng, có ai
đủ nghị lực cột trói thân khẩu trong vòng kỷ luật gắt gao.
Hạng
người, một khi biết rằng mình làm quấy, mà không mạnh dạn
trở về theo cái phải, không thể gọi là người tu chơn chánh.
Vì
tự ái, tín đồ cũng đồng ý cho thầy mình giữ vững tinh thần
Đốn giáo, nên các thầy cũng vui lòng nghe theo. Đã đứng vào
hàng mô phạm mà còn phải chịu ở dưới quyền chi phối của thế
tục, nên có tiếng mỉa mai: Các thầy thích tu theo tín đồ, hơn
là theo Phật. Xét ra hành vi của họ không phải vô ý nghĩa, bởi
họ còn phải nhờ tín đồ sống cho qua ngày.
Nay
cũng như xưa, vì sống ngoài vòng giới luật nên các thầy Tân
tiến không muốn cho tín đồ trong sạch với giới luật cư sĩ. Nên
trong luật tại gia của các thầy lập ra có dạy rằng: Mỗi khi
tín đồ đến xin thọ Ưu bà tắc giới, trước thầy Tỳ khưu sau mỗi
câu hỏi và câu trả lời cương quyết của giới tử, thầy Tỳ khưu
cho biết rằng: “Giới Ưu bà tắc thật rất khó. Một khi phá hủy
năm giới thì trong vô biên đời kiếp phải đọa ba đường ác, chịu
khổ vô cùng” (1). Những lời ấy chẳng khác nào hăm dọa cho giới
tử ghê sợ, chán nản, không dám đèo bồng. Phật chẳng hề dạy
các thầy Tỳ khưu nhát tín đồ như thế ấy, trái lại phải ca
tụng và phải giải thích quả báo cao thượng của sự trì giới,
cho tín đồ phấn khởi, trong sạch, yêu mến giới luật của họ.
Đành
rằng: Ngũ giới bất trì nhơn thiên lộ triệt. Nhưng câu này chỉ
dùng để thức tỉnh, răn đe những tín đồ nào, đã thọ quy giới
rồi mà còn trụy lạc, hư hỏng cho họ hồi đầu hướng thiện,
chẳng phải để ngăn rào đón ngõ, cho tín đồ mất sự cương quyết
của họ.
Mỗi
lần mỗi bị hăm dọa, làm cho tín đồ phải ghê sợ giới luật như
sợ rắn độc. Rung nhát họ được rồi, không lẽ công khai khuyên họ
bỏ giới, các thầy khôn khéo hạn chế: Các người nên thận
trọng liệu sức thọ không nổi năm giới, thì nên giữ một vài
giới cũng được vậy. Nhờ cái biệt tài cám dỗ, lần lần không
còn ai biết ngũ giới cấm là gì, cũng như trong Tăng già không
còn một ông thầy nào biết Cụ túc giới ra sao.
(1)Phá giới tại gia còn tội ác như vậy, phá giới xuất gia tội đến đâu.
Cả thầy lẫn trò đồng chung một xuồng, còn ai dòm ngó ai, thế là các thầy Tân tiến đã thắng trận.
Tín
đồ như con chiên, thầy nói sao hay vậy, không ai chịu gia công
tham khảo Phật pháp, nên thời buổi nào họ cũng bị bọn dối
thế gạt đời lợi dụng.
Gặp
đời vua nào sùng mộ Phật pháp, bọn ấy phải tiêu diệt. Như vua A
Dục (Ấn Độ) và vua Lương Võ Đế (Tàu) hai phen trục xuất cả
mấy vạn ký sanh trùng, Phật pháp được tẩy uế một thời gian,
rồi thứ sâu mọt ấy cũng nảy sanh lại.
Thương
hại cho những người mộ đạo, có đức tin gieo giống lành trong
Phật pháp, mà phước đâu không thấy, chỉ thấy cái tội duy trì
ung thư cho xã hội.
Trong Hạnh Phúc kinh,
Phật có dạy: Sự thông suốt giới luật xuất gia và tại gia, là
một điều hạnh phúc cao thượng. Xứ nào có được nhiều bực
thông hiểu phận sự của người tại gia và xuất gia, xứ ấy Phật
pháp mới được thạnh hành. Tăng tục đều biết luật tu theo đường
chơn chánh, hai bên nâng đỡ thức tỉnh lẫn nhau. Nhà sư không dám
dễ duôi vì có tín đồ dòm ngó, nên cố lo tròn phận sự, tín
đồ tinh tấn giữ đạo, nhờ có các nhà sư ở kế cận nhắc nhở
luôn khi.
Cư
sĩ có phận sự bảo tồn ngôi Tam bảo, mà không biết phận sự,
cứ phó thác cho mấy ông thầy vẽ rắn vẽ rồng, bảo chi làm
nấy, lui cui ra tiền cho mấy ổng chôn sâu Phật pháp dưới đáy
bùn lầy.
Ai
muốn xuất gia cứ tự tiện cạo đầu đấp y, ai muốn làm Hòa
thượng, cứ mua áo mão mang vô. Có kẻ lại bắt chước Tiểu thừa,
cầm tích trượng mang bát đứng lim dim nơi đầu đường góc chợ,
khêu gợi tấm lòng từ thiện của Phật tử.
Theo
luật Phật di truyền, trong Tăng già không có những chức tước
Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, cũng không có Khất sĩ cầm tích
trượng (1) đi trong châu thành, hoặc đứng giữa chợ xin ăn (2).
Không
thông hiểu giới luật mà muốn thực hành giới luật là một
điều nguy hiểm rất lớn. Riêng mình đã tỏ ra không có giá trị
lại còn khêu gợi cho kẻ khác khinh khi Phật pháp.
Phật
dạy: Thầy Tỳ khưu nào tu hành không chí nguyện giải thoát mà
ăn của thập phương bá tánh, thà là lấy sắt nấu ra cho đỏ nuốt
vào bụng còn hơn.
Nếu
có chí nguyện giải thoát, phải thông hiểu kinh luật, phải
biết phương pháp tu hành. Chưa thông hiểu kinh luật, xin ai kia
chớ dễ duôi lợi dụng Phật pháp làm nghề nuôi mạng. Đối với
thế gian, mình là kẻ lừa gạt tín đồ mê muội; Đối với đạo
giáo, mình là kẻ cướp di sản (sự nuôi mạng) của đức Phật để
lại cho hàng Tăng bảo chơn chánh vị lai.
Tóm
lại, hiện giờ phái Tân tiến không còn duy trì được một giới
luật nào. Trọn 250 điều luật đều gồm thâu trong sự ăn chay ăn
lạt.
Ăn
chay để tránh sự sát sanh, thật là đúng với chủ nghĩa từ bi
bác ái. Ăn chay lại còn hạp vệ sinh, cần ích cho sức khỏe để
tu hành. Nhưng nếu ăn chay mà tín đồ không kiêng cử Năm điều răn
cấm và nhà sư không thọ Cụ túc giới, thì không thể gọi lài tu
Phật.
Giới
luật là nền tảng của Phật giáo để trau dồi thân khẩu thanh
tịnh, ăn chay là phương pháp tinh khiết để nuôi dạ dày. Nếu
trọng chay khinh giới, thì căn bản của sự tu hành chỉ gồm trong
một vấn đề “ăn” hay sao?
(1)Tích trượng là một cây gậy thường để cầm tay lúc đi trong rừng, đặng đỡ gạt thú dữ và rắn rít.
(2) Thầy Tỳ khưu thuộc dòng cao thượng đâu có đứng góc chợ xin cơm chay ăn mày.
Kinh
sách thường dạy: Đại thừa không chấp giới như Tiểu thừa, và
vì không chấp giới nên, dầu không thọ giới, chớ cũng không phạm
giới. Bậc siêu phàm liễu đạo thốt những lời ấy, ai lại không
tin. Mà người Đại thừa dùng lời ấy, cũng có lý, bởi họ có
thọ giới nào đâu mà gọi là phạm.
Tu
để phá chấp, mà dường như toàn thể Phật tử Đại thừa đều đặc
biệt chú trọng về sự ăn chay, như thế có phải là chấp chay
bỏ giới chăng?
***
Tân
tiến trọng chay khinh giới, Bảo thủ trọng giới khinh chay. Phật
tử trong hai phái nên tạm gác các thành kiến một bên, dùng óc
sáng suốt, lặng lẽ phải quấy trong hai phương hướng đối chọi,
để cải thiện thể thức tu hành cho hợp lý.
VỀ PHẦN ĂN CHAY.
– Sự ăn chay phát xuất từ Ấn Độ, do hai nguồn gốc:
1
– Tập quán dùng lê hoát của người Ấn Độ, thuộc dòng Bà la
môn, chiếm độc quyền làm trung gian giữa thần Bà la môn và ba
giai cấp dưới (Võ sĩ, Thương gia, Nô lệ) trong việc cầu đảo
cúng tế.
2
– Lời thỉnh cầu của Devadatta (Đề –bà –đạt –ta) để lên xin
Phật Gotama bắt buộc các thầy Tỳ khưu trong Phật giáo ăn toàn
đồ lê hoát trọn đời (1). Phật Gotama không phê chuẩn, nhưng chịu
để cho tín đồ tùy thích bố thí (2).
Sự ăn chay của dòng Bà la môn là một quy luật lưu truyền từ thượng cổ, nên họ coi như là một thói thường,
(1)Đề-bà-đạt-đa
xin Phật bắt buộc các thầy Tỳ khưu trọn đời: Phải ở nơi
rừng, khất thực nuôi mạng, ăn chay trường, mặc y phục làm bằng
vải vơ lượm nơi tha ma mộ địa, ở dưới cột cây. Vì thấy thói
đời hay quý trọng những khổ hạnh, Đề-bà-đạt-đa muốn lợi dụng
tâm lý ấy, để tranh giành ngôi Giáo chủ với Phật.
(2)Vì đây là cách thức nuôi mạng, chẳng phải phương pháp trau dồi thân khẩu.
Không
có tính cách quan trọng. Đề nghị của Đề-bà-đạt-đa dựa theo
tục lệ trên để chứng tỏ rằng người tu trong Phật giáo cũng
thuộc dòng cao thượng như dòng Bà la môn (1).
Một
số dòng đệ tử của Phật là người thuộc dòng Bà la môn. Ngoại
trừ những bậc đắc đạo quả và những người xin nhập môn với
chí nguyện giải thoát, có nhiều hạng giả dạng tu hành để tìm
cách tái lập uy tín của đạo Bà la môn, hoặc để nuôi mạng,
trong khi đạo giáo của họ bị dân chúng phế bỏ. Các hạng Tỳ
khưu không mục đích chơn chánh ấy, tạm thời buộc lòng ở dưới
hệ thống Tăng già, nhưng lòng họ vẫn không khâm phục Phật
Gotama, hằng chờ cơ hội gieo mầm móng của đạo họ trong tư tưởng
tứ chúng, hầu ngày kia lật đổ Phật giáo, như đã có giải nơi
chương Lịch sử (quyển 1). Chính các thầy Bà la môn trá hình
nói trên đã làm hậu thuẫn cho Đề-bà-đạt-đa khuấy nhiễu Phật
nhiều khi, và cũng chính họ đem thuyết ăn chay thay thế cho giới
luật Tân tiến sau khi Phật Gotama tịch diệt.
Một
thói quen muôn phần dễ dàng hơn giới luật nghiêm khắc, ai lại
không hoan nghinh. Với cái khẩu hiệu “Ăn chay để cử sát sanh và
nuôi lòng từ bi đối với muôn loài vạn vật” ai lại không mê
thích. Như có mấy ai biết rằng, mỗi khi tế thần, các thầy Bà
la môn giết bao nhiêu sanh vật, như cừu, dê, trâu, bò và đồng nam
đồng nữ, mà không gớm tay. Thầy Huyền Trang, khi qua Ấn Độ
thỉnh kinh, cũng sút bị họ làm thịt cúng thần Durga, tại
Prayaga (hiện giờ là Allahabad), trên sông Găng.
Người
Bà la môn từ già đến trẻ, cả vợ lẫn chồng, đều ăn chay, mà
lòng họ mấy chay? Ta nên biết rằng lòng từ bi, cũng như tinh
thần siêu việt, không phải ở trong chỗ “ăn”. Nói cho rõ hơn, cái
ăn chẳng phải phương pháp rửa Tâm.
(1)Phật thường nói người cao quý, do nơi lòng cao quý, chẳng phải vì dòng cao quý.
Tâm
tối mê ví như nước đục, dùng lê hoát lóng cho nước trong, nước
không bao giờ trong được. Tâm là vật vô hình, thân khẩu là chỗ
của Tâm biểu hiện. Không dùng giới luật để câu thúc thân khẩu,
biết Tâm đâu mà chế ngự? Vì đó mà Phật Gotama đặt ra những
điều răn cấm, để cho chúng ta kiềm chế thân khẩu, hầu gián
tiếp sửa trị Tâm, không cho tự do hành động, nhất là duyên theo
điều ác.
Như
ta đã từng thấy, trong phương diện nào các thầy Tân tiến cũng
muốn tỏ ra rằng họ giỏi hơn Phật. Thử hỏi người tu Phật chơn
chánh, muốn tìm đường giải thoát, nghĩ thế nào? Đại thừa
Phật giáo mà chúng ta hấp thụ từ Ấn Độ, Trung Hoa, Cao Ly,
Nhật Bổn, hiện giờ ở trong tình trạng nào? Chúng ta có nên đeo
đuổi theo tập quán “bỏ giới chấp chay” không?
Theo tục lệ xưa nay, cư sĩ chúng ta có 4 cách ăn chay: 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày và trường chay.
Bậc xuất gia, lẽ thì trường chay, nhưng có nhiều thầy cũng giữ 2 ngày, 6 ngày, 10 ngày như cư sĩ.
Không
có thói quen như người Bà la môn, nên chúng ta xem sự ăn chay như
một việc quan trọng đặc biệt. Gặp nhau, muốn biết ai tu cao, tu
thấp, người ta thường gợi chuyện ông hay bà ăn chay mấy ngày
trong tháng? Đây là cái hãnh diện mà người Phật tử Việt Nam hay
bộc lộ trong câu chuyện hàn huyên, làm cho mất vẻ lịch sự và
thương tổn đức tánh khiêm tốn của con nhà Phật.
Ngoại
trừ những người có khấn vái để cầu xin một ân huệ chi, hoặc
những người bị bệnh phải kiêng cử đồ mặn, hàng Phật tử lấy
sự ăn chay làm thước đo lường trình độ tiến hóa trong việc tu
hành. Ngày ăn chay là một ngày lành, bởi trong ngày ấy ai ai
cũng cố gắng kiêng cử điều ác. Kiêng cử là tạm ngưng, chớ không
phải dứt bỏ, để ngày mai tiếp tục lại đường lối cũ.
Trong
một tháng 30 ngày, trừ ra 2,6,10 ngày kiêng cử, còn lại
28,21,20 ngày tự do. Tự do chài lưới, săn bắn, tự do cắt cổ
gà, vịt, cũng tự do gian xảo, dối trá, lường gạt, cấu xé.
Thậm chí cho đến người trường chay cũng ganh tị, thù hiềm, láo
xược, tham lam, tranh quyền, cướp lợi, khẩu Phật tâm xà. Dẫu
sao cư sĩ chúng ta cũng còn phàm, có thể châm chế cho nhau. Vì
sự nuôi sống, chúng ta còn phải lăn lóc với đời, sao khỏi ô
nhiễm. Tiếc một điều là trên sân khấu chính trị, chúng ta rất
đau lòng gặp các ông Hòa thượng, Pháp sư, Thượng tọa, khoác áo
cà sa đứng ra làm trò cười cho muôn miệng. Muốn giải thoát ra
ngoài khuôn khổ giới luật, Phật pháp suy đồi đến mức diệt
vong, mà môn đệ của các vị đại đức ấy vẫn thản nhiên, lấy đó
làm vinh dự.
Phần
đông cư sĩ chúng ta lại là người thường hay cung cấp súc vật
cho đồ tể. Nhà nào lại không nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo, để ăn
trong mấy ngày mặn và bán kiếm chút huê lợi. Có chùa trong
thôn quê cũng nuôi gà, vịt để lấy trứng, và có khi cũng để ăn,
nếu ông trụ trì chưa trường chay được.
Trong ngày chay, nếu gặp tôm, cá, gà, vịt, chúng ta vẫn có thể mua rộng, nhốt để dành qua ngày khác.
Những
người mê tín lỡ khấn vái ăn chay, không dám bỏ qua, sợ thần
linh quở phạt, ngày chay là một ngày khổ sở của họ. Ăn chay
không vô, trời vừa sụp tối, họ đã ngả mặn rồi.
Người
có tâm đạo, nhất là các cụ ông cụ bà, hết sức kỹ lưỡng
trong món ăn. Bếp núc, nồi niêu, chén bát đều để riêng biệt,
không ai được phép trộn lộn với đồ dùng ăn mặn. Cách kiêng cử
tinh nghiệm như thế ấy thật là hoàn toàn. Nhưng đôi khi, vì quá
tin lời truyền dạy của thầy tổ, các cụ phải chứng minh cho
người nhà cắt cổ gà cổ vịt hoặc thọc huyết heo trong ngày đơm
quảy. Để chi? Để tụng bảy biến vãng sanh cầu siêu cho những
con vật bị giết. Thầy tổ đã có nói rằng hạ trâu ngã bò để
báo hiếu, hoặc cúng tế thần linh, không có tội lỗi chi cả.
Chính đây là phong tục của Bà la môn giáo. Tin rằng giết thú
để cúng thần, đã không tội lại còn có phước, các thầy Tân
tiến đã sửa luật nhân quả của Phật dạy, theo tín ngưỡng của
Bà la môn.
Chơn
lý ở chỗ nào? Từ cái mâu thuẫn này, chúng ta bị dẫn dắt đến
cái mâu thuẫn khác, mà chúng ta vẫn thản nhiên, không quan tâm
suy xét.
VỀ PHẦN GIỚI LUẬT – Bây giờ xin hỏi người giữ Ngũ giới có nên ăn chay hay không?
- Ăn thì quý lắm, nhưng chớ nên cố chấp đó là đồ chay, mà không ăn cũng không sao.
- Vậy là chỗ nào gọi là cử sát sanh?
- Tự mình không giết, không xúi biểu kẻ khác giết, không nghe không thấy người ta giết cho mình ăn.
-
Chớ người ta giết cho mình ăn, mặc dầu không xui biểu, cũng
không mang tội đồng lõa, bởi có mình ăn mới có người giết?
- Tâm không gây nhân, quả không chỗ sanh. Nghiệp không tạo, tội không do đâu mà báo ứng.
- Tâm ưa thích thịt cá, thân đi mua về ăn, sao gọi không gây nhân?
- Tâm vẫn bình đẳng, không chấp chay, cũng không thiên mặn, đây chỉ là thói quen của vật chất đòi hỏi.
- Có tâm dung túng chấp thân, nên sự đòi hỏi của vật chất mới được thỏa mãn chớ!
-
Đúng như vậy, nhưng tâm đâu có chủ trương giết, hoặc xúi quẩy
kẻ khác giết; Tai không nghe, mắt cũng chẳng thấy. Cả thân lẫn
tâm không vi phạm một điều kiện khinh trọng nào trong giới sát
sanh kia mà.
- Không phạm, nhưng đã thấy biết thịt cá, mà còn nhẫn tâm ăn vào, thì lòng từ bi của người Phật tử ở chỗ nào?
-
Tín đồ đã bị đầu độc nhiều rồi, giờ này mà còn đem cái từ
bi giả dối ấy ra làm quảng cáo không ai tin đâu. Từ bi đối với
chúng sanh đương bay đương chạy, không nỡ giết bỏ để nuôi mạng.
Đó là từ bi thật sự. Còn từ bi đối với miếng thịt, khứa cá,
là từ bi dối trá, từ bi ngoài lỗ miệng của người bị nhồi
sọ. Tu hành, trong giới sát sanh, chưa biết Phật dạy những gì,
mà muốn tỏ ra mình hơn Phật.
-
Phi lý: Phật dạy kiêng cử thịt, cá, người ăn thịt cá là
người cãi lời Phật. Cãi lời Phật, tức là muốn hơn Phật đó
vậy.
- Ăn chay không phải giữ giới hay sao?
- Đã nói rằng “ăn” không phải giới. Không thấy đem “giới” ra nói chuyện, cứ đem cái “ăn” ra bàn hoài không rồi.
- Vậy chớ sao, nó là vấn đề căn bản mà.
-
Phải, nó là vấn đề sanh tử của dạ dày, nào phải vấn đề
cần thiết của giải thoát. Chỉ có cái nghệ thuật “ăn” mà quanh
năm quẩn tháng giải quyết không xong.
- Đề mục “thịt cá” tham khảo chưa dứt khoát, nên muốn bàn cãi cho ra lý do thôi.
- Nên tìm những hành giả đã tu chứng được cái quả “từ bi” mà hỏi thì ra ánh sáng.
-
Nghe nói họ lấy thịt và cá làm đề mục để trước mắt, rồi
quán tưởng cho thấy con thú bị cột trói khiêng đến lò thịt,
bị hành huyết kêu la thảm khổ rồi bị phân thay xẻ thịt đem đi
bán, hoặc thấy con cá đương tự do bơi lội dưới nước, kế bị
mắc câu, kéo lên bờ, ngột thở giãy giụa rồi chết. Thấy cảnh
tượng đau khổ như vậy, lòng từ bi vô lượng phát sanh lên, từ đó
đến sau họ không nỡ ăn thịt cá nữa. Mình cũng muốn kinh nghiệm
như họ, ngồi trước mâm cơm cũng ráng sức quán tưởng, không
thấy từ bi ứng hiệu chút nào, trái lại mùi vị thịt cá xông
lên thơm mũi, bắt trớn nịch đầy bụng rồi lại thấy thỏa mãn là
khác.
- Tại mình tu thấp, chưa biết nghệ thuật ăn chay.
- Ăn chay mà cũng có nghệ thuật nữa sao?
-
Bữa nào chịu khó lẽn vô hậu liêu, chỗ mà hành giả quán tưởng
mỗi ngày cho biết, hay là đột nhập vào bếp của mấy ông pháp
sư tại gia thì sẽ thấy mánh lới nhà nghề của họ.
-
Cơ mưu đã bại lộ, hèn chi các sư cụ giảm phần thuyết minh về
sự ăn chay, giao phó trách nhiệm lại cho cư sĩ trổ tài thuyết
phục tín đồ. Càng đi xâu vào đạo, càng gặp mâu thuẫn trong lời
nói và hành vi của các ông đại cư sĩ pháp sư. Nếu chay miệng
không đem lại chay lòng chay đức, có lẽ trai giới có lợi ích
hơn, nhưng cũng có lẽ khó thực hành?
-
Nói đến Giới đã thấy lo sợ khó rồi đó thấy chưa? Người ăn
chay trường có thể tránh được tội sát sanh thôi. Người giữ
giới tránh cả các thứ tội. Đường vào địa ngục còn rộng mở
cho người trường chay, nẻo đến thiên đàng là giới luật của
hàng Phật tử.
- Trường chay còn xa địa ngục, mà người giữ giới còn ăn thịt cá cũng đi thiên đàng được sao?
-
Người trước không thể sánh với người sau, bởi họ sợ giới mà
không sợ bốn đường ác đạo. Người sau hơn người trước, bởi họ
nhờ giới để ngăn ngừa tội lỗi. Người trước chay trong lý
thuyết, người sau chay theo thực tế.
- Thực tế trong chỗ ăn mặn phải không?
-
Thực tế trong chỗ không quanh quẩn, không miệt mài trong cái ăn,
không tự đắc với cái ăn, mà trầm tĩnh trong chỗ trau dồi thân
khẩu.
Tu
không lo cứ lo tranh chấp hoài về cái ăn, môi đã khô nước miếng
mà câu chuyện ăn cũng vẫn không rồi. Bao giờ chúng ta phá được
cái chấp, thì vấn đề “ăn” mới có thể chấm dứt được.
-
Vì chúng ta còn ăn mặn, ít nhất cũng 20 ngày trong tháng, nên
vẫn còn thắc mắc, hoài nghi đó thôi. Giải thích cho xuôi vấn
đề ăn mặn thì cái chấp kia mới không tồn tại.
-
Tu cốt để phá chấp, mà cả thầy lẫn trò chúng ta, mặc dầu
đại đa số cũng không dứt bỏ nổi cái mặn, cứ bám chặt vào lý
thuyết chay, nghĩ thật buồn cười. Đức Phật đã phá chấp cho
Đề-bà-đạt-đa, mà ông này vẫn ngoan cố, chúng ta tài nào thức
tỉnh môn đệ của ông.
Để chấm dứt câu chuyện ăn mặn, xin trình bày một vài ngu kiến:
Nên
nhớ rằng nghiệp dữ nghiệp lành đều do Tâm tạo ra. Các đồ tể
và các bạn hàng tôm, cá, vì quyền lợi cá nhân mà họ phải
giết hại thú vật để bán kiếm lời. Họ giết nhiều, giết ít
tùy theo nhơn số của hai hạng người tiêu thụ: một hạng chẳng bao
giờ lập tâm tính trước phải ăn món chi trong ngày, chờ ra chợ
gặp gì mua nấy. Người vô tình, tức là vô can, vô tội. Hạng
khác thường lập sẵn một đơn vị trong ngày, bằng chẳng vậy,
nếu thích món chi, họ cố tìm kiếm cho ra món ấy, với giá nào
cũng mua được, và nếu kiếm không ra, họ đòi hỏi bạn hàng: nay
không được thì mai cũng có cho họ dùng. Cố ý như hạng này,
tức là đồng lõa, cố sát.
Một
đàng gặp chi ăn nấy, dầu thịt, cá, lê hoát, không cố chấp đây
mặn, kia chay và xem các món thức ăn ấy như vật chất bên ngoài
để bồi thường vật chất bên trong, đủ sống ngoài vòng tội lỗi,
sống theo Trung đạo của giới luật. Đằng khác lại phân biệt gắt
gao chay với mặn. Khi ăn chay họ ăn toàn đồ lê hoát, lúc ăn mặn
họ mạnh dạn đòi hỏi hoặc giết heo, bò, gà, vịt. Lắm khi bề
ngoài họ thiên về chay, bề trong họ ngã qua mặn, cho nên đồ chay
cũng có tên, nào là cá hấp, mấm ruột, sườn xào, tôm kho
v.v…Tóm lại họ sống trong lợi dưỡng, sống ngoài khuôn khổ giới
luật, nên họ thành người cực đoan. Vì đó mà chay họ cũng
chấp, mặn họ cũng chấp. Hai cái chấp đã ăn sâu vô xương tủy
trí óc, hết còn xét đoán được phải quấy, chánh tà. Cho nên
đức Phật có nói rằng: Số người đi về nhàn cảnh sánh như sừng
bò (có 2); Số người sa ác đạo sánh như lông bò (vô số kể).
Tới đây đã cạn lời xin chấm dứt vấn đề “ăn”.
***
Bây giờ xin bàn qua câu chuyện “Tu”.
Pháp Bửu Đàn kinh
chép rằng tại Thần Tú phá rối nên y bát chơn truyền đã thất
lạc mất hết rồi. Theo luật Phật, lúc xuất gia, Giới tử phải
sắm y bát để dùng, khi y rách phải đổi cái khác. Không lẽ mỗi
vị Tổ sư chỉ sắm có một bộ y và một cái bát để dành chờ
đến tuổi già giao phó lại cho vị Tổ khác, rồi trọn đời Tổ
ấy mặc cái chi? Có phải tại Lục Tổ không truyền y bát, nên
các nhà sư Thiền tông bây giờ không dùng y bát nữa chăng? Còn
nếu nói thất chơn truyền có nghĩa là không còn ai truyền tâm
pháp, thì sao lại còn người tu theo Thiền tông?
Trong
các tông khác, như: Câu xá, Thành thật, Duy thức, Hoa Nghiêm,
Thiên thai, Tịnh độ…có anh Thần Tú nào sang đoạt, hà tất cũng
mất y? Mất y bát tức là mất Tăng tướng. Mất Tăng tướng nên
không còn Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Sa di, Sa di ni. Mất người có phận
sự bảo tồn và duy trì Chánh pháp có nghĩa là mất cả một sự
nghiệp “Giải thoát” của Phật Gotama di truyền.
Còn
một điều khó hiểu nữa là: Trong giới tu sĩ còn một đôi chỗ
cũng làm lễ xuất gia Tỳ khưu và Tỳ khưu ni theo hệ thống Nguyên
thủy. Giới tử sắm y bát đến xin thọ Cụ túc giới. Các vị
Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ nhóm lại tổ chức một buổi lễ
long trọng. Các thầy tế độ, chứng minh, không có tam y, không
còn Tăng tướng, mà còn mạnh dạn đứng ra tuyên ngôn truyền y bát
cho giới tử. Xong cuộc lễ xuất gia linh đình ấy, các thầy thâu
y bát lại giấu mất, không cho môn đệ họ sử dụng và nói rằng:
tại nhà ngươi muốn, chúng ta làm cho có lệ, chớ thời buổi
này ai còn xài thứ đó nữa, nhà ngươi không thấy sao?
Ai
có đọc Luật Xuất gia rồi, xem diễn tuồng ấy mới thấy hay dỡ.
Trên Bửu điện, các vị Cổ Phật nghiêm nghị làm thinh, dưới một
màu sắc phục như các thầy; Dòm qua tượng ông Giáo chủ Thích
Ca, dưới bộ cà sa vàng, thấy Ngài thản nhiên nhít miệng cười.
Một nụ cười rất sâu kín, để cho người Phật tử, tùy trình độ,
xét đoán ý nghĩa của buổi lễ xuất gia kia.
Hèn
chi đức Phật có nói: Đến lúc Phật pháp suy vong, các thầy tu
chỉ còn có một chéo vải vàng vắt trên mép tai, để phân biệt
là người xuất gia. Hiện giờ ở Nhật Bổn, có nhiều ông Đại đức
mặc âu phục, có choàng một sợi dây băng cho mọi người biết đó
là ông thầy tu; Thầy tu có vợ có con như người thế. Có lẽ
ngày kia sư của chúng ta cũng đến đó.
Khi
mất tăng tướng rồi, các nhóm tu sĩ có được gọi là Tăng già
không? Ông Thái Hư Pháp sư, một vị Hòa thượng Trung Hoa danh
tiếng nhất và đã có giúp một phần công tác đắc lực cho Chánh
phủ quốc dân trong trận giặc vừa qua, nói được. Vượt khỏi mức
Tân tiến, không còn phân biệt xuất gia tại gia, ngài cho rằng
mỗi nhóm, từ 4 trở lên, đồng tâm hiệp lực, phục vụ cho Phật
pháp, (hoặc cho một chủ nghĩa xã hội nào) là Tăng già. Thành
ra trong giới tu Phật của ta, tục cũng như Tăng, mà Tăng cũng như
tục.
Theo
Phạn ngữ Pàli, chư Sangha (tăng-già) là một danh từ riêng biệt
có nghĩa là một nhóm thầy Tỳ khưu từ 4 vị trở lên, ăn theo
Phật, mặc theo Phật, ở theo Phật, đủ tư cách thay thế cho Như
Lai, để bảo tồn giáo pháp của Phật di truyền. Sangha là ngôi
thứ ba trong Phật giáo, rất tôn nghiêm tối trọng, đã bị ông
Thái Hư Pháp sư bắc thang cho tín đồ lên chiếm mất. Vì tham
vọng muốn lôi kéo tín đồ làm hậu thuẫn cho một chủ nghĩa
chánh trị, ông tôn họ lên ngang hàng với Tăng bảo, cho nên Phật
pháp ở Trung Hoa bị tiêu diệt, mà ông cũng cùng chung một số
phận. Vô tình ông lây ảnh hưởng cách mạng tôn giáo đến Việt
Nam, cho nên có nhóm cư sĩ cũng tự xưng là Tăng già. Hành vi
của giới này, xét lại cũng hạp thời, bởi trình độ học thức
và hạnh kiểm của cư sĩ hiện giờ, chẳng những không thua kém
các nhà sư, mà lại có phần trội hơn là khác. Có lẽ ông Thái
Hư, khi lìa bỏ thiền môn thanh tịnh, tâm ông đã bị gió trần lung
lạc ông cũng tự biết rằng, trong mọi phương diện, ông khác với
người thế tục chỉ có cái sắc phục của một nhà tu sĩ thôi.
Nhơn
loại tiến thì Phật giáo cũng tiến theo, chẳng vậy người ta
cho là lạc hậu. Vì đó mà mạnh ai nấy tiến, tiến đến chỗ không
còn Phật Pháp Tăng nữa là cùng. Phải chăng đây cũng là một
nghệ thuật phá chấp?
TRUNG THỪA TÂN TIẾN
1.-MADHYAMIKA:
Tam Luận tông Madhyamaki có nghĩa là Trung đạo, nhưng thường kêu
là Tam Luận tông, bởi tông này căn cứ nơi ba cuốn luận của ông
giáo tổ viết ra làm giáo khoa cho đạo của ông.
Tam
Luận tông lập ra cuối thế kỷ thứ I (70) kỷ nguyên này, bởi ông
Nagarjuna, thuộc dòng Bà la môn, sanh trước tại Bera (Trung Ấn
Độ), lớn lên ông xuống miền Nam lập giáo, tại Nagarjunikonda,
gần thành Amaravati, và sau lại ông đi truyền bá tận miền Bắc.
Tên ông đặt ra do một tích nói rằng ông ra đời dưới cột cây kêu
là Arjuna và khi lớn lên được thần Naga, là là Long vương rước
ông xuống tận thủy cung dạy ông những pháp huyền bí, Người Tàu
dịch Nagajuna là Long Thọ.
Tích
trên có thêm rằng: Giáo pháp xâu xa của Phật Thích Ca bị Long
vương thâu đoạt, gìn giữ tới tận đáy biển, nay nhờ ông Long Thọ
đem trở lên phổ cập trên mặt đất. Đây là lý thuyết để khởi
đầu vượt khỏi tôn chỉ Phật Thích Ca đang khuyết trương đạo giáo
siêu hình dưới danh từ Phật giáo.
Ba tác phẩm của ông Long Thọ là:
1 – Cuốn Madhyamika castra: Trung luận.
2 – Cuốn Dvadaca Nikaya castra: Thập nhị môn luận.
3 – Cuốn Prajna Paramita Sutra castra: Bát-nhã-ba-la-mật-đa luận.
Ông Long Thọ còn viết rất nhiều quyển khác, nhất là quyển: Pancakrama, dạy về phù chú.
Mahacintya castra, luận về chơn lý huyền diệu ngoài phạm vi lý trí con người, gọi là Bất khả tư nghì luận.
Avatamsaka sutra, Hoa Nghiêm kinh, của Long vương truyền lại, về thuyết chơn không (Cunya),v.v...
Tam
Luận tông được truyền bá cùng khắp Ấn Độ, Trung Á và Cực
Đông, nhờ các đồ đệ trứ danh của ông Long Thọ, như thầy Arya
Deva, Candrakirti, Canti Deva. Qua thế kỷ thứ IV thầy Suryasama đến
Thổ-nhĩ-kỳ tự thân thâu được thầy Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập),
con của một người Ấn Độ và một vị công nương tại Koutcha.
Chính ông Cưu-ma-la-thập này là Sứ đồ của Tam Luận tông tại
Trung Hoa. Ông dịch ba quyển giáo khoa ra Hán văn, được người Tàu
nhiệt liệt hoan nghênh.
Qua
thế kỷ thứ VII (625) có nhà sư Nhật Bổn tên Eikwan (Kiết-tạn)
qua tàu thỉnh trọn bộ Tam Luận về xứ mở đạo lấy tên là
Sanron.
***
Tam
Luận tông cũng như Phật giáo Bảo thủ, không nhìn nhận có linh
hồn và sự thực tại của vạn hữu. Nhưng trong khi Bảo thủ nói
rằng nội tâm và ngoại cảnh đều là hiện tượng, thì Tam Luận
tông lại nói không có hiện tượng, không có Ta, không có ngũ
uẩn, chỉ Niết bàn là thật có thôi.
Ông
Long Thọ dùng biện chứng lật đổ tất cả những quan niệm,
những nền móng triết học trong thời đại của ông, luôn cả giáo
lý của Phật Tổ Gotama.
Về
linh hồn, ông Long Thọ biện rằng: kẻ nào nhìn nhận có linh
hồn là quấy. Nếu hẳn thật có linh hồn, thì hoặc nó ở trong
thân, hoặc nó bao bọc cái thân. Có linh hồn ở trong thân hoặc ở
ngoài thân, thì xác thân không bao giờ tiêu hoại, bởi theo sự
tin tưởng của con người, linh hồn là một vật tồn tại. Dầu ở
trong thân hoặc ngoài thân, khi một cánh tay hoặc một bàn chân
bị chặt, linh hồn ấy cũng phải bị đứt đoạn một phần. Bằng
nói rằng trong khi tay hoặc chân bị chặt, linh hồn rút vào ẩn
trú trong thân. Vậy khi cái đầu bị chặt, linh hồn ẩn chỗ nào,
để cho xác thân phải hư thúi? Hơn nữa, linh hồn của kẻ điên ở
đâu?
Về
vật chất, ông Long Thọ nói không có (Sắc thị không). Nếu đem
ngũ uẩn ra phân tích đến phần vi tế gọi là nguyên tử, rồi kết
luận rằng ngũ uẩn là có cũng chưa nhầm, bởi trong khi nguyên
tử này ở kế cận với các nguyên tử khác, thì mỗi nguyên tử
phải có nhiều mặt đối diện nhau, tất cả còn có thể phân tích
ra được nữa. Càng phân tích tế
biệt chừng nào, càng thấy không có cái nguyên tử đầu tiên. Tất
nhiên là ngũ uẩn giai không. Hơn nữa, những hiện tượng sanh ra
bởi sự biến đổi của các nguyên tử đều là không thực thể, tức
là không có. Cái chi thật có chẳng bao giờ biến đổi. Nếu nói
như Phật Gotama, vạn hữu là vô thường, thì vô thường là thật
tướng của vạn hữu, tức là thú nhận rằng chẳng có chi hết. Từ
đây ông Long Thọ đổi Phật giáo làm cái đạo Cunyavada (Đạo Hư vô
hay Chơn không).
Hiện
tượng theo Phật Nguyên thủy, là sự liên kết của nhân và quả
trong thời gian. Ông Long Thọ cho rằng thời gian không có, quá
khứ, hiện tại và vị lại cũng không có. Nếu có thì hiện tại
phải có trong quá khứ và vị lai cũng phải có trong hiện tại.
Vật bị chứa đựng trong vật khác, không thể ra khỏi vật khác
ấy được. Vật thì quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ có một. Tức
là không có trước, không có nay, không có sau, không có thời
gian.
Ông
Long Thọ cũng không nhìn nhận có quả có nhân. Nếu có quả thì
quả ấy có trong nhân hoặc ở ngoài nhân. Quả có trong nhân thì
quả với nhân là một, quả không thể phát sanh ngoài nhân được.
Quả ở ngoài nhân, thì nhân đâu có quả. Nhân không thể có trước,
hoặc có một lượt, hoặc có sau quả, thì mối quan hệ giữa nhân
và quả là vô lý. Kết luận không quả, cũng không nhân.
Ông
Long Thọ còn một lý luận nữa để thủ tiêu luật nhân quả: Đã
nói là vạn vật là vô thường biến đổi, thì làm sao trong chỗ vô
thường ấy lại có một cái định luật lâu dài, như luật nhân
quả được? Làm sao từ trong cái chớp nhoáng này qua cái chớp
nhoáng khác, lại có thể nảy sinh ra những kết quả vô cùng
được? Hơn nữa, cái chớp nhoáng trước không thể sanh ra cái chớp
nhoáng sau được. Cho nên không có nhân, không có quả, cũng không
có gì sanh, không có gì diệt, không có gì trường cửu, không có
gì không trường cửu.
Sau
khi triệt các nền móng của tư tưởng, ông Long Thọ chỉ còn
bứng gốc cái tư tưởng là xong cuộc khai thác rừng triết lý để
trống chỗ cho ông lập điền địa mới của ông: Cái biết (Thức)
không thể nhờ ngoại trần và nội tri
mà thực hiện được. Trí cũng không thể biết được sự vật bên
ngoài, vì ngũ quan, trí não và sự vật chẳng bao giờ kề sát
nhau, tức là không thể phù hợp tương đồng với nhau, thì sự quy
nhứt của cả ba phần ấy không thành tựu được. Như thế, nếu nói
có cái biết, xin hỏi cái gì biết? Cái trí không biết lấy nó
được, cũng như cái đầu ngón tay không thể tự rờ đụng lấy nó
được: lưỡi dao không thể tự cắt lấy nó được.
Có
người hỏi ông Long Thọ vậy chớ những biện luận của ông ở đâu
ra? Ông trả lời: Nếu tôi nói rằng biện luận ấy phát sinh do cái
biết thì tôi là kẻ nói bậy.
Bấy
nhiêu đủ biết rằng ông Tổ sư Tam Luận tông ỷ tài ỷ tận nói
cho hoác xước, đến nước bí phải tự thú rằng ông là người nói
bậy. Nếu ông không phải là người điên chữ, thì ông cũng là
một phần tử phá hoại Phật giáo chơn truyền.
Ông
Long Thọ không biết có trời đất vạn vật, không nhìn nhận có
nhân có quả, có thời gian không gian, không tin có tư tưởng và
sự hiểu biết, để lập ra một đạo giáo gọi là Chơn không. Nhưng
cái Chơn không của ông là cái vừa có mà cũng vừa không, hoặc
không có mà cũng không không. Riêng cái có hoặc riêng cái không
chẳng phải chơn lý. Chơn lý là trạng thái của người đã vượt
khỏi hai cái quan niệm Có và Không, nghĩa là chỗ không thể lo
nghĩ được, gọi là “Bất khả tư nghì”, là Niết bàn.
Lý
luận của ông Long Thọ có thể gọi là kỳ quái. Một mặt ông
bài xích tất cả những bằng cứ về vũ trụ, về nhơn sanh, về tư
tưởng; Mặt khác ông lại nói rằng: Nếu đời là một cơn ác
mộng, sự làm lành hẳn thật là một giấc chiêm bao tốt nhứt,
còn vạn vật là bào ảnh, thì tham thiền nhập định khác nào ở
cảnh giới thần tiên.
Từ
thuyết Hư vô, ông trở lại chỗ thực tại. Bề ngoài là ảo mộng,
sau cái ảo mộng đó chính là Niết bàn tuyệt đối. Đời là rỗng
không, mà rỗng không là Niết bàn. Niết bàn là Phật, ta cũng
là Phật, bởi ta cũng là rỗng không. Chính đây là then chốt
thần bí của Tam Luận tông. Luận như ông Long Thọ cũng đủ chứng
Niết bàn rồi, cần gì phải tu.
Biện chứng phá hoại của ông Long Thọ là một lối đàm thoại dễ mà chơi. Chính ông nói như thế.
Thấy
Phật Gotama đóng chặt gầm trời Phật giáo trong Giới Định tuệ,
giết chết linh hồn và cầm cố con người trong thế giới hiện
tượng, muốn được tự do, ông Long Thọ phải tìm phương pháp giải
thoát khỏi phạm vi tồi
túng của Phật giáo, ông nhứt định đạp đổ cái thế giới hiện
tượng, để thực hiện ý muốn của ông và mở đường tẩu thoát qua
cảnh giới siêu hình. Ông cũng không ngờ rằng ông là người dọn
đường khai thác cho những thuyết Duy Tâm tự do phát triển, trong
giới Tân tiến.
Đức
Phật đã nói rằng có biện chứng nào đem con người đến đạo
quả Niết bàn. Tài trí của ông Long Thọ đã không đem lại lợi
ích cho ông, mà còn lây mầm tà kiến, ngã mạn cho những người
chạy theo biện chứng của ông.
2
– VIJNANAVADA: Duy Thức hay Pháp Tưởng tông, cũng gọi là YOGACRA:
Dù Dà tông: Tông này lập ra bởi hai anh em ông Asanga (Vô Trước)
và Vasubandhu (Thiên Thế
Thân). Hai ông này sanh trưởng tại Peshawer, xứ Gandhara, là nơi
Phật giáo Tân tiến phát triển mạnh bạo theo phong tập người Hy
Lạp, trong thế kỷ thứ IV, kỷ nguyên này, vì thời ấy Ấn Độ bị
người Hy Lạp xâm chiếm. Ông Thiên Thân sống dưới sự bảo hộ của hoàng tử Gupta Samudragupta Ier. Khi ông hoàng này lên ngôi năm 326, ông Thiên
Thân được bổ sung làm chức Thái phó. Dưới chế độ đô hộ có
lẽ ông gặp uất trắc, nên ông và anh ông bỏ nơi chôn nhau cắt rún,
đến Behar là chỗ Phật Địa, xuất gia theo Tiểu thừa Tân tiến.
Ông Thiên
Thân lập ra Câu Xá tông, tưởng cùng anh mình xây dựng mối đạo
cho lâu dài, chẳng dè ông Vô Trước bỏ ra đi nơi khác, tạo lập
một sự nghiệp riêng, là Duy Thức tông vậy. Thấy sự nghiệp này
có mòi thạnh đạt, ông Vô Trước trở lại cảm hóa em, để cùng
nhau đi chung một đường. Ông Thiên
Thân bỏ Câu Xá tông qua phụ giúp cho ông Vô Trước rất đắc lực.
Hai anh em viết ra nhiều quyển sách giáo khoa cho phái Duy Thức.
Tác phẩm của ông Vô Trước là: quyển Yogacara Bhumi Castra Dù Dà
Sư Địa Luận, (của Bồ tát Di Lạc hiện xuống (1) đọc cho ông
chép ra), dạy về phương pháp tu tâm.
Quyển Yoga castra: Dù Dà Luận.
Quyển Mahayana sutralamkara catra: Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, nói về giáo lý tổng quát Đại thừa Duy thức.
Quyển Mahayyana Abhidharma Sangiti Castra: Đại thừa A-Tì-Đạt-Ma kết tập, dạy về các phép siêu hình Đại thừa.
Quyển
Mahayana Samparigraha castra: Nhiếp Đại Thừa Luận, dạy về ý
nghĩa bao quát Đại thừa. Quyển này được ông Paramartha (Chơn Đế)
dịch ra hán văn trong năm 563 và truyền bá qua Nhật Bổn làm
sách giáo khoa cho phái Shoron và phái Kegon.
Ông Thiên Thân cũng viết nhiều bộ sách về Duy Thức như quyển: Saddharmapundarikopadesa Diệu Pháp Liên Hoa kinh Ưu Bà Đề Xá.
Dasadhumika sutra castra: Thập Địa Kinh Luận.
(1)Triệu chứng thiên về Huyền bí.
Sukhavativyunopadcsa: Vô Lượng Thọ kinh Ưu-bà-đề-xá nguyệt sanh kệ:
Nirvana castra: Niết Bàn Luận.
Gayasirsasutratika: Văn-Thù Sư -Lợi Bồ tát vấn Bồ đề kinh luậnv.v...
Ông
có rất nhiều đệ tử đại tài, như các ông: Dinnaga. Sthiramati,
Dharmapala (Đàm-ma Ba-la), ciladhara (giới Hiền), Jayascna,
Candragomin (thế kỷ thứ V tới thứ VII).
Lúc
ông Huyền Trang qua Ấn Độ (630) gặp ông Cilabhadra, đương làm
Hiệu trưởng Đại học đường Nalanda, tại Berar, là một trường
triết học danh tiếng nhứt, đã sản xuất rất nhiều bực kỳ tài
về văn chương và triết học. Sau khi khảo cứu Duy Thức Luận tại
Đại học Đường Nalanda thầy Huyền
Trang rất vui mừng gặp được môn sở thích, liền xin thọ giáo
với ông Cilabdadra (Giới Hiền), lúc ấy ông này được 106 tuổi
(633) (1).
Duy
Thức tông được thầy Huyền Trang đem về truyền bá ở Tàu từ năm
645. Một nhà sư Nhật tên là Dosho Thỉnh bộ Duy Thức về mở đạo
tại nước nhà, lập ra phái Hosso. Qua năm 712, phái Hosso được
thạnh hành nhờ một danh sư trổ tài giảng giải, là ông Genho.
Tuy
rằng Duy Thức tông nhìn nhận cái thuyết “Chơn không” (Cunya) của
ông Long Thọ, nhưng họ không chịu cái biện chứng nghịch ngợm
và trái ngược với lý trí của ông Long Thọ. Họ giải thích
thuyết Chơn không một cách khác. Cũng như ông Tổ sư Tam luận, họ
công nhận vạn hữu là ảo giác, nhưng nếu nói ảo giác, hay ảo
tưởng, tức là phải có cái gì khác, cái gì tưởng. Cũng như
khi nói Hư vô hay Chơn không tất phải hiểu rằng có một vật chứa
đựng mà trong ấy.
()Thầy
Huyền Trang đến đây học đạo trong thời kỳ cách xa ngày Phật
Gotama nhập Niết bàn 1.257 năm, là thời kỳ chánh pháp không còn
tồn tại ở Ấn Độ.
Không
có đồ bị chứa. Vật chứa đựng chính là cái tư tưởng rỗng
không: Không có khách quan, chủ quan và sự biết. Chơn không là
cái tuyệt đối không phát biểu. Từ trong cái tuyệt đối không
phát biểu ấy, mới nảy sanh cái tuyệt đối phát biểu, là cái
Alaya Vijinama (A-lại-da thức)(1).
Thế
giới bên ngoài không có, chẳng những không có về phần siêu
hình, lại cũng không có về phần phương diện sắc tướng và kinh
nghiệm. Cái thật có là cái tư tưởng, chẳng những nó tự biết
lấy nó, mà nó còn biết luôn cả biểu tượng của nó.
Ông Thiên
Thân nói: Cái hiện hữu của một quan niệm được xác định, là
khi nào ta biết rằng phần khách quan của quan niệm ấy là hư
ảo. Ta biết có một vật bên ngoài, hoặc ta tự cho ta có một
cái bản ngã, là nhớ những hiện tượng phát sanh trong trí não.
Hiện tượng trong trí não ấy có thật, nhưng chẳng gọi rằng có
một cách tuyệt đối; Bởi vật được biết và cái biết đều là
hình thức của tư tưởng; Phần khách quan, chủ quan và cái biết,
cả ba đều là ba cái tưởng của một tư tưởng thôi. Nhưng ba
tưởng ấy không thật có. Cái được gọi là thật có là cái tư
tưởng rỗng không (2). Tư tưởng rỗng không ấy chính là cái
A-lai-da thức, là nơi chứa đựng tất cả những hình ảnh, nơi
phát sanh vũ trụ và tâm thức. Toàn thể các pháp, hiện tượng,
dục giới, sắc giới, vô sắc giới mà có ra cũng do nơi tâm thức.
(1)Đây
là cách tu chính, sửa chữa biện chứng của Tam Luận tông để
ứng dụng qua Duy thức. Duy Thức tông cũng có thể coi như một
nhóm đứng ra hòa giải hai thuyết Hư vô của ông Long Thọ và Như
Lai tự tánh của ông Mã Minh mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến.
(2)Ông Long Thọ đã thủ tiêu cái tư tưởng và cái thức, bây giờ tới phiên ông Thiên
Thân tái lập. Cậm cụi đọc qua tác phẩm của các triết gia này
thật mệt trí lao công, nhưng cũng ráng đọc để chỉ cho các bạn
tu hành thấy rõ nó là món thuốc độc của tin thần.
Ông Thiên
Thân nói rằng thế giới chỉ là quan niệm, là tư tưởng, là ý,
là thức. Ông Vô Trước cho biết rằng học thuyết của ông không
ngoài cái thức. Vũ trụ của Duy Thức Luận bao hàm tất cả hiện
tượng, tất cả động tác của tư tưởng, thì cái A-lại-da thức
hay cái tiềm thức của vũ trụ chính là cái bản tính siêu việt,
là chủ quan tuyệt đối duy nhứt, là mẹ sanh của nuôn loài vạn
vật, là nơi chứa đựng các quả báo để giờ chuyển hóa ra nhân.
Cái
Ta hư hoặc đã bị phá hủy và được thay thế bằng cái Tâm phổ
biến không phân chia bỉ thử, gồm cả chúng sanh đồng nhứt như
nhau. Cũng như biển cả vừa trường tồn vừa biến đổi, A-lại-da
thức là một thực thể vừa vô hình, vừa sanh ra vạn trạng. Nó
là cái tinh hoa của cái biết, mà chính nó không biết chi cả.
Không thể xem nó như cái Thức, nhưng nó là chủ tể của tinh
thần và vật chất, của tư tưởng và không gian.
Cái
tinh hoa của sự vật là tư tưởng: Sự phân biệt và chủ quan,
khách quan và tâm thức của mỗi cá nhân là Vô minh. Tư tưởng rỗng
không là trạng thái cao cả hơn cái ngã và cái Vô ngã, một
trạng thái siêu việt, tuyệt đối, không thể dùng biện chứng mà
ngộ được, chỉ có trực giác mới đưa hành giả đến chỗ tiêu giao
khoái lạc.
Tóm
lại cái A-lại-da thức này là một danh từ đồng nghĩa với cái
Chơn không của Tam Luận tông và cái Brahina (Thần Bà-La-Ma) của
Bà-la-môn giáo.
Hai anh em ông Vô Trước và Thiên
Thân dựa theo triết lý của các bậc tiền bối, mong đi sâu thêm
một đôi dặm đường vào cõi siêu hình, chẳng dè cũng bị chặn
đứng dưới chơn tường bí mật làm ranh giới giữa cảnh tương đối
và tuyệt đối. Màn Vô minh chưa vén hé được, hai ông vẫn còn ở
trong vòng luẩn quẩn của lý trí. Câu chuyện sau đây là một
bằng chứng mà nhiều Phật tử không muốn hiểu sự thật:
Chúng ta còn nhớ hai anh em ông Vô Trước và Thiên Thân đã bỏ xứ Gandhara đến Behar lập sự nghiệp. Ông Thiên
Thân khởi dựng ra Câu-Xá tông. Ông Vô Trước thấy phận làm anh
không lẽ nương nhờ nơi em, nên tách ra đi lập thân. Đến xứ Oude,
ông dựng lên Duy Thức tông được nhiều người sùng mộ. Đôi phen ông
rủ em ông đến hiệp tác với ông để khuyết trương mối đạo. Ông Thiên Thân tiếc cơ đồ không chịu theo anh.
Ngày
nọ, ông Vô Trước sắp đặt mưu chước cám dỗ rồi mời em đến chơi
tại chùa Ayodhia, xứ Oude. Khi ông Thiên Thân đến nơi, ông Vô Trước
tiếp rước em một cách niềm nỡ trọng hậu, và trong khi chuyện
vãn với em, ông chẳng hề đàm luận về đạo lý. Sau khi cơm nước
xong xuôi, ông đưa em ông lên an nghỉ trên một tòa lầu, dựa mé
sông Hằng (Gange). Đêm ấy nhằm trăng thu rạng tỏ, trời thanh trong
trắng. Giữa khoảng trống của nhành cây bồ đề và thốt nốt,
bóng trăng chiếu rọi mặt nước ao hồ, đầy hoa sen đua nở. Ông
Thiên Thân mới ngồi dựa cửa sổ trầm ngâm niệm tưởng. Thình lình
có một chú tiểu đến đứng ngay dưới cửa sổ cất tiếng tụng
một bài kinh huyền bí. Ông Thiên Thân lấy làm lạ, lóng tai nghe.
Ban đầu ông ngạc nhiên, sau lại càng nghe càng thấm, càng mê,
càng thích, cho đến nỗi nước mắt tuôn rơi hai hàng. Chừng chú
tiểu dứt đọc rồi, ông mới nghĩ và so sánh thì ông nhận thấy
triết lý Tiểu thừa của ông rất khô khan cạn cợt, không thể
sánh với bài kinh của ông vừa nghe, và than rằng: Trước kia ta
trót lầm tưởng rằng con người không thể trọng vây nương nhờ nơi
oai lực thần thông của Phật, và kết quả của sự tu hành là
đến chỗ không không. Chẳng dè đức Phật từ bi vô lượng, bằng thị
hiện luôn luôn giữa tín đồ và phận sự của người Phật tử là
phải tìm con đường huyền bí, để quy hồi thao Phật (1). Rồi ông
(1)Một bằng thứ nhứt chỉ rằng ông Thiên Thân chưa thông hiểu giáo pháp của Phật Gotama.
nghĩ
cho ông là người đã mang tội phỉ báng Phật Pháp, nên ông chụp
bẻ lá sậy dựa hiên nhà, quyết cắt bỏ cái lưỡi của ông để
đền bù tội lỗi.
Ông
Vô Trước chực sẵn sau lưng, bước tới chụp tay em và nhỏ nhẹ
thốt rằng: Em, chẳng nên làm vậy, từ đây cái lưỡi của em sẽ
được dùng để thuyết minh chơn lý.
Từ
đó trở về sau, ông Thiên Thân bỏ Câu Xá tông theo anh đi mở đạo,
hoằng hóa Pháp Tướng tông cúng khắp xứ Cachemir, Nepal, Behar,
cho đến ngày lìa bỏ thế gian tại chùa Ayodhia, năm 350.
Trước
kia ông Vô Trước, Thiên Thân và đệ tử ruột của hai ông là thầy
Buddhasimha, cùng nhau thệ nguyện và giao kết rằng trong ba thầy
trò nếu ai chết trước, phải trở về cho biết những huyền vi bí
ẩn của bên kia lằn mức thế gian, để chỉ dạy cho nhau (1).
Ít
ngày sau khi ông Thiên Thân qua đời, một đêm nọ ông Vô Trước đương
ngồi mật niệm với các đồ đệ của ông, bỗng thấy hào quang
chiếu sáng cả tịnh thất, hồn ông Thiên Thân hiện về cất tiếng
dạy rằng: Ta nay đã gặp được đức Phật Maitreya (Di Lạc) rồi
(2). Gương mặt ông quang minh tươi sáng, người người dòm xem không
mỏi mắt. Lại có đủ thánh thần đông đầy hầu hạ, dâng hoa cúng
trầm và ca tụng vang rân.
Người mê tín cho đó là linh thiêng, bực chánh tín xem như tiểu thuyết.
Mục đích của các triết học gia này là viết sách nuôi
(1)Bằng chứng thứ hai chỉ rằng thầy trò ông Vô Trước, ông Thiên Thân còn ở trong vòng luẩn quẩn của triết lý.
(2)Phật
Di Lạc chưa ra đời mà ông Thiên Thân lại gặp. Ông không thể gặp
được Phật Tổ Gotama, trong giới huyền bí, là giới đại kỵ của
người đã tìm được chơn lý. Đây để chứng tỏ rằng hai ông Tổ sư
Duy Thức tông đã lập đạo ở bên ngoài giáo pháp của Phật Thích
Ca.
mạng.
Người ta còn nhớ trong quyển Dù Dà Luận (Yoga castra), ông Vô
Trước có dạy rằng: Vì mục đích cao thượng và bác ái, các
thầy tu phải rứt bỏ cái nghèo của mấy ông Tỳ khưu phái xưa,
để thâu thập tài sản, sự nghiệp, vàng bạc, châu báu, hầu giúp
ích cho kẻ khác. Và trước kia ông Thiên Thân có viết trong cuốn
A-Tì-Đạt-Ma Câu-Xá Luận (Abhidharma kosa Castra) rằng giáo pháp
của đức Phật đã tới ngày cùng, giờ đây là thời kỳ của tật
xấu, ai muốn giải thoát phải tu cho gấp. Ý ông muốn biểu người
ta với ông. Lúc ấy đốt đuốc kiếm Phật pháp chánh truyền cũng
không ra, bởi Bà la môn đã bứng tận gốc rễ, thánh kinh còn
lại đã bị đốt hết, cổ pháp chùa thờ Phật Gotama đều bị phá
hủy tan nát.
ĐẠI – THỪA TÂN – TIẾN
I
– AVATAMSAKA: Hoa Nghiêm tông kinh Avatamsaka (Hoa Nghiêm) là tác
phẩm của ông Long Thọ luận về Cunya (Chơn không), hồi thế kỷ thứ
I, kỷ nguyên này. Nhưng đây lại nói về thuyết Bhuta Tathata
(Phật tánh) của ông Acvaghosa (Mã Minh), trong thế kỷ thứ II. Bởi
hai thuyết Chơn không và Phật tánh hay Như Lai tự tánh mường
tượng nhau, nên có nhiều soạn giả lầm dịch là Hoa Nghiêm tông,
nên để Phật Tánh tông hay Như Lai Tự Tánh tông mới đúng cho.
Tổ
Sư tông này, ông Acvaghosa: Mã Minh, là một người Bà la môn, sanh
trưởng tại Caketa, trong tỉnh Oude, giữa thế kỷ thứ II, kỷ nguyên
này. Ông là vị quân sư của vua Kaniahka, trị vì xứ Behar. Nhờ
một đồ đệ của ông Long Thọ khuyến dụ ông gia nhập môn theo Đại
thừa Tân tiến.
Ông
Mã Minh là tác giả của: quyển Buddha Carita (Phật sở hành
tán), là một tập thi ca khen ngợi đời sống của đức Phật.
Quyển
Mahayana Craddhotpada (Đại thừa khởi tín luận, là một tập luận
đầu tiên của Đại thừa Tân tiến, nói về thuyết Bhuta Tathata
(Phật tánh). Thuyết này mường tượng với
thuyết chơn không của ông Long Thọ và cũng tương tự với thuyết
A-lại-da thức của ông Vô Trước. Thuyết A-lại-da thức chính của ông
Mã Minh bày ra, sau lại ông Vô Trước lấy đó mà lập luận thêm.
Ông
Mã Minh phân tư tưởng ra hai cảnh tượng: cảnh tượng thay đổi,
tức là Luân hồi và cảnh tượng vĩnh viễn tức là Phật tánh.
Phật tánh tự hiển xuất, bất biến và bao quát cả vạn vật. Nó
là cái định lý của sanh mạng. Là bản thể siêu hình, không
thể dùng trí óc (1) mà hiểu được, chỉ có trực giác mới
chứng ngộ được thôi. Tùy theo mỗi biểu hiện của nó, người ta
đặt cho nó nhiều tên khác nhau. Nếu nói về cái tinh hoa của chư
Phật, gọi nó là Phật tánh (Bhuta Tathata), về sự tồn tại của
thực vật, gọi nó là Pháp (Dharma), về nguyên lý của trí tuệ,
gọi nó là Bồ đề (bodhi), về trạng thái của Tâm đã đoạn
tuyệt ái dục, gọi nó là Niết bàn (Niryana), về chủ trì sáng
suốt theo triều lưu vạn vật, gọi là Bát nhã (Prajha). Về sự
không chấp Có và chấp Không, gọi nó là Chơn như (Cunyata), về
phôi chủng của càn khôn vạn vật, gọi nó là Như Lai tạng
(Tuthagatagarba).
Hình
thức hữu lậu của Phật tánh là thế giới hiện tượng, có tâm
thức làm chủ quan, và ngoại trần làm khách quan, tức là cái
Chơn không hay cái Luân hồi. Hình thức vô lậu của Phật tánh là
trạng thái bất khả tư nghì, tức là Niết bàn. Ngoài Phật tánh
không có vật chất và tin thần, Phật tánh vừa là trạng thái
tuyệt đối và tương đối, vừa là bản thể mà cũng vừa là hình
thức biến chuyển của sự vật. Nó là vật
(1)Tổ sư cũng nói như các ngài đã có trực giác và chỉ một luận điệu in nhau.
chất và tinh thần, là sống và chết, là Luân hồi và Niết bàn, là Tương đối và Tuyệt đối.
Đây
là một biện chứng mù mờ, không ranh giới, không phân minh, muốn
dễ hiểu người ta thường so sánh Phật tánh như nước yên lặng,
và hình thức thay đổi của nó sóng chao trên mặt nước.
Theo
ông Mã Minh thì trạng thái khách quan của Phật tánh là cái Như
Lai tạng, tức là mẹ sanh của thế giới bên ngoài, còn hình
trạng chủ quan của nó là cái A lại da thức, tức là mẹ sanh
của nguồn tư tưởng. Đại thế giới là con người, hai bên mà vẫn
một thể tánh.
Tóm
lại lý thuyết Phật tánh của ông Mã Minh, là đường lối khai
thác cho Đại thừa Tân tiến trở về với giáo lý phiến thần cũ
kỹ của đạo Bà la môn. Chính trong kinh Upanishads (Ưu-ba-ni-tat)
đã có ghi chép những câu: Tương đối và tuyệt đối vốn chẳng
phải hai, nước biển và sóng biển vẫn đồng nhứt thể.
Ông
Mã Minh, cũng như các tổ khác, thuộc dòng Bà la môn nên chỉ
ông dùng tài biện luận, gạt tín đồ Phật giáo theo về với Bà
la môn. Trong quyển Buddha carita (Phật sở hành tân) ông đã khởi
xướng truất phế Phật Thích Ca để thay thế vào ngôi vị giáo
chủ một ông Phật khác. Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XX,
trong giới thiện tri thức Cao Ly, Trung Hoa, Nhật Bổn không ai để
ý đến mưu mô xảo quyệt của bọn Bà la môn và đứng ra kêu gào
tín đồ trở về nguyện bổn.
II
- THIÊN THAI TÔNG. – Cuối thế kỷ thứ VI, một nhà sư Tàu tên Trí
Khải sáng tạo một ngôi chùa nguy nga trên núi Thiên Thai, tại
tỉnh Chiết Giang. Ông lập ra một tông mới cũng lấy tên là Thiên
Thai tông (570). Ông chiết trong giáo lý của Tam Luận tông, Hoa
Nghiêm tông và Thiền Na tông, để lập ra một đạo tổng hợp. Chế
độ tu hành của Thiên Thai tông được nhiều người hoan nghinh ưa
thích. Đến năm 805 có vị Tăng Nhật Bổn tên Dengyo Daishi qua Tàu
khảo cứu Thiên Thai tông đem về xứ mở đạo. Ông cũng theo gương
ngài Trí Khải, chọn hòn núi Hieizan, lập một cảnh chùa đồ sộ
có danh tiếng nhứt, tên Enryakuji, được nhiều người thọ giáo
nhập đạo.
Thấy
rằng Phật giáo Tân tiến chia ra hai phe đối chọi, một phe nhìn
nhận có sự vật bên ngoài, mặc dầu là tương đối; Phe khác lại
cho rằng không có chi hết, Đại đức Trí Khải căn cứ vào thuyết
Như Lai Tự Tánh để dung hòa cả hai bên. Với thuyết Như Lai Tự
Tánh, muốn luận xuôi cũng được mà muốn giải ngược cũng xong.
Dùng thuyết ấy làm nền tảng lập pháp, ngài Trí Khải thừa
nhận những lý lẽ bài bác đối chọi của chánh đề và phản đề,
rồi áp dụng biện pháp hòa giải các đạo giáo tương phản.
Thành ra Thiên Thai tông là một đạo rất hoan hỷ, dễ dãi, khỏi
phải mệt lòng lo nghĩ bao la, khỏi phải bận trí tìm hiểu xa
vời, con người được thảnh thơi an nhàn, thì bề tu tâm dưỡng
tánh mới được mau chứng ngộ Phật tánh. Tìm được Phật tánh,
cũng tìm được nguồn cội của cái Có và cái Không và trong ấy
Có và Không là đồng nhứt.
Trong
khi tọa thiền, hành giả phải tự thấy và chắc rằng mình sẽ
thành Phật, miễn là Tâm trụ được trong danh hiệu Phật, dầu là
một lần cũng đủ thành Phật, vì Phật và Ta là đồng nhứt.
Theo học thuyết người Nhật thì súc vật, cây cỏ, đất đá thì cũng có thể thành Phật cả.
Có
không, phải quấy, hư thiệt, một khi vào lò Thiên Thai rồi thì
hết còn tương phản, xung khắc, hết còn giá trị cao thấp, lại
được đồng hóa ra một màu, một giống in nhau; Chính đây là phương
pháp tối thượng, để chứng ngộ cái Như Lai tự tánh vậy.
Phá
tan được sự tranh chấp giữa tông này phái nọ, Tổ sư Trí Khải
chứng tỏ rằng tinh thần của ngài cao cả hơn các Tổ khác, cho
nên Thiên Thai tông đáng gọi là tối thượng vậy.
Muốn
học đạo tối thượng, phải biết phân biệt phải quấy chánh tà.
Khi gặp quấy, không bất bình với cái quấy, lúc gần tà, không
cảm nhiễm theo tà; Thấy phải, học đòi theo cái phải, gặp
chánh, rước lấy cái chánh. Không dùng trí tuệ suy xét phán
đoán, đạo nào cũng theo, tôn chỉ nào cũng cho là của Phật; Vì
đó mà Phật giáo đồ không đồng nhứt, không đồng tâm, cũng không
đồng một Như như tự tánh.
Mặc
tình thế gian bài bác biện luận, Tổ sư Trí Khải không thiên
không chấp, giữ tâm thanh tịnh theo về với Phật. Làm sái tôn
chỉ của ngài là bội sư phản Phật vậy.
***
III CHƠN NGÔN TÔNG HAY MẬT TÔNG HAY PHÙ CHÚ GIÁO
Một
cái thuyết về Phật tánh chưa đủ cho sự tiến triển của Thần
Bí giáo, bởi một khi nó được khai thác rồi, thì càng ngày nó
càng phải tiến bộ thêm lên. Giai đoạn mới trong sự biến chuyển
của Đại thừa Tân tiến, chính là sự thành lập Chơn Ngôn tông
vậy.
Tổ
sư của tông này không ai khác hơn là ông Long Thọ. Những đồ đệ
kế thừa chuyên môn của ông về tông này là: Ô.Ô.Nagabodhi (Long
Trí), Vajrabodhi (Kim Cang Trí), Amoghavajra (Bất Không Kim Cang).
Năm
719 ông Kim Cang Trí qua Tàu truyền bá giáo pháp Mật tông. Qua
năm 733, đệ tử của ông là ông Bất Không Kim Cang nối gót theo
thầy qua Tàu. Hai thầy trò chung lo hoằng dương Mật tông, thâu
được rất nhiều tín đồ.
Qua
năm 805, một nhà sư Nhật tên Kôbô Daishi sang Tàu học đạo đem về
xứ lập ra phái Shingon, và cất một cảnh chùa đồ sộ đặt tên
là chùa Kôyasan. Chùa này thờ Adibouddha (Bố Di Sơ Phật) và
chuyên dạy toàn là phù chú.
Mật
tông dạy rằng Phật tánh, cái thật tướng tuyệt đối hay cái
tinh hoa của sự vật chính là đức Maha Vairocana (Đại Nhựt
Phật). Ngài là cái bản thể siêu hình, cái tâm linh của vũ
trụ. Mối liên quan giữa Ngài và nhơn loại, kết cấu do ba điều
bí mật về thân, về khẩu, về ý (1). Phát giác được ba điều bí
mật này, thì đắc Niết bàn, nghĩa là vào cảnh giới siêu hình
(2) của Đại Nhựt Phật.
Đại
Nhựt Phật là ngôi Toàn Tri, Hóa Công của càn khôn vạn vật.
Tất cả chúng sinh: Trời, người, thú đều là biểu hiện của
toàn năng và ý muốn của ngài (3), cho đến trong hột cát, trong
nhỏ nước cũng có bản thể và sinh lực của ngài. Thân khẩu ý
của ngài bao hàm cả vũ trụ và cả mỗi phần vi tế trong vũ
trụ.
Đại
Nhựt Phật là thực thể, khi thực thể ấy biểu hiện, thì vạn
vật sanh hóa. Người hành đạo phải tự biết mình là Phật và
phải tự tôn mình như Phật. Muốn thực nghiệm phải tùy theo
phương pháp ma thuật, phải có dùng linh phù, chơn ngôn thần chú
và pháp ấn, thì hành giả mới siêu thoát sanh tử luân hồi gọi
là con đường tu tắt về Niết bàn.
Mật tông còn kêu là Kim Cang tông. Hai chữ Kim Cang có nhiều nghĩa: Hột xoàng, Sét (búa) của Trời Đế
(1) Bí mật về ý của linh phù, về khẩu là chơn ngôn thần chú, về thân là pháp ấn.
(2) Phương pháp hợp hóa siêu hình này là thiền định theo Dù Dà.
(3) Đây là hình thức phổ biến của thầy Bà la môn.
Thích
hoặc của các vị thần, quyền trượng ngọc ấn của các thầy
cầm tay trong khi hành lễ, phù hiệu của Chơn không tuyệt đối.
Kim Cang là một tông cao cả hơn các tông khác, bởi hành giả
tiến đến mức cứu cánh mau lẹ. Tu theo hạnh Bồ tát còn phải
trải qua nhiều đời kiếp để thực hành lục độ, tu theo Kim Cang
thành Phật trong nháy mắt. Không bắt buộc trau dồi hạnh kiểm,
được phép uống rượu, được phép có vợ, miễn là, trong khi hành
đạo, biết cố gắng mở mang trực giác chứng được Chơn không thì
đắc quả Phật chẳng sai. Dầu tin hay không tin có sự linh nghiệm
huyền bí, trong lúc niệm phù bắt ấn phải làm cho đúng và
phải tưởng rằng linh, thì có kết quả.
Một
vị Đại sư Nhật, tên Tomika Kojun có viết trong quyển Kim Cang
(Himitsu Hyakuwa) như vầy: Mật tông không buộc diệt bỏ những lầm
lạc và tình dục, trái lại phải gìn giữ nó nguyên vẹn và
luyện lọc cho nó tinh vi. Khi nước ngập đến chót nước bên này,
tự nhiên nó tuôn chảy qua bên kia; tình dục cũng như thế ấy, khi
nó phát triển đến cực điểm, nó hết còn là chướng ngại vật
nữa. Nếu muốn tiến tới, phải biết chịu đựng với khổ và phải
trải qua bao nhiêu lầm lạc, khổ và lầm lạc là mẹ của sự
thành công.
Ông
Aryadeva (Đề Bà), đệ tử của ông Long Thọ cũng có nói rằng
thau có thể trở thành vàng y, nếu biết sơn nó bằng một lớp
sơn huyền bí, bực trí tuệ nên biết rằng tình dục là vật hỗ
trợ của hạnh phúc. Tình dục làm say đắm người đời, nhưng chỉ
có tình dục mới giải thoát cái đời. Vì đó mà điện trong
chùa có thờ nhiều vị thần tình dục và có chưng những tranh
ảnh về tình dục.
Kinh
Pháp Hoa dạy rằng người phụ nữ không thể thành Phật được,
trước phải tu và nguyện thành người nam rồi mới có thể thực
hành chí nguyện. Nơi Tây phương Cực lạc cũng chẳng có phụ nữ,
chính đó là lời nguyện của Phật Di Đà. Phật Thích Ca cũng
cấm một cách nghiêm ngặt không cho các thầy Tỳ khưu mơ tưởng
gần gũi phụ nữ.
Bậc xuất gia trong Phật giáo nhất định phải giữ tròn trinh tiết. Cư sĩ mỗi tháng cũng có tám ngày cuất gia tạm,
mà Mật tông lại xem sự giao cấu như một phương pháp huyền diệu
để tiến vào cõi siêu hình. Người tu của tông này, khi rèn đúc
tinh thần được cứng rắn, không để cho thú tánh làm chủ, có
thể ăn ở với phụ nữ mà không phạm giới luật. Cho nên khi Phật
giáo bị bứng gốc rồi, tại Népal các thầy tu ở chung với vợ
trong chùa, tu sĩ ở Tây Tạng và Nhật Bổn cũng đồng noi gương
tốt đẹp ấy tới giờ.
Ông
thầy dạy Mật tông được coi như Phật sống, tượng trưng của Tam
bảo. Thờ Phật gỗ Phật đá đến ngàn năm muôn kiếp, cũng không
giải thoát được, chỉ nhờ thầy mà thành Phật, nên phải kính
trọng và cúng dưỡng ông. Có vật chi quý báu phải dâng cúng cho
thầy: vàng ngọc, tượng voi, tôi tớ cho đến vợ đẹp, con xinh.
Thầy thọ hưởng là chư Phật thọ hưởng, phước báu vô lượng.
Thầy không dạy bùa chú, ấn pháp và huyền bí của đạo, không ai
khám phá được bí mật siêu hình. Kinh sách toàn dạy những lời
u uẩn, bùa chú kỳ quái, không thể đoán được.
Kinh
Samyutta Nikaya dạy rằng: hành động của mỗi người bằng thân
khẩu ý, là tài sản sự nghiệp của họ. Nó dính theo họ như
bóng theo hình. Mật tông lợi dụng chỗ này, lập ra ba pháp huyền
bí để hủy diệt cái nghiệp do thân khẩu ý tạo ra: a) Miệng
đọc chơn ngôn để cầu đồng hóa với Phật. Muốn hành Đại Nhựt
Phật thì đọc: A-VA-RA-H-KHA.A, là đất; VA là nước; RA là lửa;
HA là gió; KHA là hư không. Lục tự đại minh chơn ngôn trong kinh
Phổ Môn (Pháp Hoa) cũng là một câu chú của Mật tông. Chúng ta
thường đọc: Án ma ni bát mi hồng, không trúng giọng, nên đọc Ôm
ma ni pad me hum. Câu này có nghĩa là cầu xin thông hóa với vị
Nữ thần Manipadma (Ngọc trong Hoa Sen), chúng ta ám hiểu là Phật
Bà Quan Âm. Chữ Om (A.U.M) theo Tây Tạng có nghĩa là Phật Pháp
Tăng. Chữ “Hum” có quyền lực đánh đuổi tà ma.
b) Linh phù đặt trong một vòng tròn, có hoa sen, để làm đề mục gom thần định trí (về phần ý).
c) Tay thì bắt ấn cho thân chuyển động (về phần thân).
Còn
rất nhiều ấn chú để trừ ma, ếm quỷ, trục thần, khiển tướng,
Đại bi chú, Lư hương tán, Tịnh khẩu nghiệp, Tịnh tam nghiệp,
Án thổ địa chơn ngôn trong kinh Kim Cang, đều là thần chú của
Mật tông, do tác giả lượm lặt để vào. Những sự huyền diệu phi
thường trong Pháp Hoa cũng do ảnh hưởng của Mật tông mà đặt
ra.
Về
phương pháp tu luyện theo Mật tông, nếu không có thần chỉ dạy,
coi theo kinh sách làm càng ắt nguy hại tánh mạng, không điên
khùng cũng thổ huyết ho lao. Tuy vậy trong nhóm tu Phật của
chúng ta cũng có một ít người còn mê theo Mật tông, và cũng
có người chết rất oan uổng. Hiện giờ cũng thấy một vài tu sĩ
trẻ tuổi chuyên tu theo Mật tông. Mấy ngài đã chặt hết đôi ba
ngón tay cúng dường cho Phật, mà dường như cũng chưa liễu phù
siêu chú, không khéo có ngày các ngài chặt luôn cả cánh tay như
thầy Huệ Khả. Các ngài in bùa chú phát cùng chùa, bảo cho
người ta coi, hoặc dán trên vách mỗi ngày ra vô dòm xem được
phước vô lượng vô biên. Ai có tiền cho mấy ổng làm việc lỗi
thời, đã không có phước, lại còn un đúc mấy ổng tự làm cho
có tật nguyền, thêm nặng gánh cho xã hội phải nuôi báo cô trọn
đời.
**
IV – THIỀN TÔNG
–
Đầu thế kỷ thứ VI, kỷ nguyên này, ông Bodhidharma (Bồ Đề Đạt
Ma) sanh trưởng tại Dékan, học trò của ông Prajnatara, một vị
trưởng lão Đại thừa Tân tiến, lập ra tại Trung Hoa một đạo mới
gọi là Thiền tông. Trước kia ông ở Ấn Độ đến năm 520, vì có
gây ra một việc bất hòa giữa Tăng chúng, có chỗ nói ông xích
mích với nhà vua và sợ tai hại xảy đến, nên ông trốn sang qua
Tàu, nhầm trào vua Lương Võ Đế. Không được vua này nạp dung, ông
sang lên miền Bắc mở đạo. Ông tịch tại Hồ Nam trong năm 529,
mật truyền giáo pháp lại cho một đồ đệ Trung Hoa là thầy Huệ
Khả. Từ đó, Thiền tông được lưu truyền xuống cho các Tăng Xán,
Đạo Tín, Hoàng Nhẫn, Huệ Năng. Khi Lục tổ Huệ Năng qua đời
(703) phái Thiền tông chia ra nhiều phe, lần lần suy đồi.
Giáo
lý của Thiền tông căn cứ vào một nguyên tắc với Chơn Ngôn tông:
Tâm tức Phật, Phật tức tâm, ngoài tâm không Phật. Tưởng Phật
trong tâm là có Phật, tìm Phật ngoài tâm là ảo mộng, phải
phản chiếu hồi quang, mới gặp Phật. Đại cương giáo lý Thiền
tông chỉ có bấy nhiêu, chính là lời của ông Đạt Ma giảng cho
vua Lương Võ Đế nghe.
Tư
cách của ông Bồ Đề Đạt Ma đối với Phật Tổ Gotama rất lạ kỳ.
Nhà sư này xóa bỏ giáo lý cổ truyền, muốn riêng một mình ông
tự tìm giáo lý ấy thôi, nên ông có nói rằng: Đạo quả của
Phật Gotama là đạo quả cá nhơn, ai đạo lại không được. Vả lại
tiếng Buddha (Phật) chỉ là một danh từ Ấn Độ chẳng phải tên
của một người, nó có nghĩa là Toàn giác, ma ai ai cũng có
thể chứng được. Ta đây đương thực hành thiền định để chứng đạo
quả ấy. Thế thì cần chi phải theo đạo pháp cổ truyền, thánh
giáo chẳng lợi ích chi, bởi đó là tượng trưng của một cái
Toàn giác đã chết mất rồi, là di tích của một pháp thiền
định đã cứng sẵn như đá rồi: Ta cần phải thay thế bằng một
pháp thiền định kim thời, một cái Toàn giác cá nhơn mới khác.
Phật
Gotama xưa kia, nhờ đêm thanh vắng, ngồi trầm tư mặc tưởng dưới
cội Bồ đề mà thành đạo quả, bây giờ ai muốn chứng đạo quả
Toàn giác, cứ lặng xét tự tìm lấy trong tâm. Lặng xét thế
nào, cũng không thấy Thiền tông chỉ dạy một phương pháp nhứt
định, gọi là đạo pháp mới, cứ để mạnh ai nấy tự tìm theo
sáng kiến riêng của mình vậy thôi. Ông Đạt Ma nói: Không có
cách nào dạy làm Phật, bởi chẳng ai cho ai cái bản thể thần
bí được, mỗi người mỗi tự tìm lấy thôi. Người nào ngộ được
thì đối với họ không Thiên đàng, không địa ngục, không bỉ thử,
không có chi ở ngoài tâm cả. Nhưng muốn thâu đoạt được cái
huyền vi ấy, phải có đức tin, một đức tin trọn vẹn, không còn
một bợn hoài nghi. Bởi thế nên tụng kinh, khổ hạnh và học
hành chẳng bổ ích chi cả. Cảm hứng trong cảnh thần bí là đủ
rồi, và cũng trong lúc cảm hứng mà ông Bồ Đề Đạt Ma thuyết
pháp cho vua Lương Võ Đế nghe: Tâm ơi! Khi lớn ngươi bao gồm cả vũ trụ, lúc nhỏ mũi kim không qua lọt ngươi. Tâm ơi! Phật ơi! Bởi ngươi mà Ta đến đây (Tàu) lập giáo truyền đạo.
Tôn
chỉ của Thiền tông rất giản dị, phải có một đức tin trọn
vẹn, không còn một mảy hoài nghi, chẳng cần thờ cúng, bố thí,
trì giới, xem kinh, nghe pháp. Nói cho ngay ra thì không cần trau
dồi hạnh kiểm đạo đức. Về Thiền định thì tùy nơi hành giả
tự tìm Phật trong tâm. Trước mặt vua Lương Võ Đế, Tổ sư Đạt Ma
đã tỏ ra là một người không định tĩnh tinh thần:
-
Từ khi tức vị đến nay, trẫm đã lập ra rất nhiều cảnh chùa
và ấn tống vô số kinh sách, chẳng hay công đức ấy sẽ đem kết
quả chi trong kiếp vị lai?
-
Tâu bệ hạ, chẳng có kết quả chi hết. Đời người như bóng tối,
công đức của bệ hạ chẳng khác nào như cái bóng tối của một
bóng tối.
- Vậy thì trẫm phải làm điều chi đáng gọi là cao quý?
- Chẳng có chi là cao quý. Điều chi cũng rỗng không cả thảy.
- Vậy chớ Thiền sư sống cách nào?
-
Bần Tăng sống trong giấc mộng, và ráng sức cho đừng nằm mộng
nữa và muốn cho chung quanh bần Tăng được yên lặng như Niết bàn.
- Vậy Thiền sư là người gì?
- Bần Tăng cũng chẳng biết bần Tăng là người gì.
Đây
là câu chuyện gặp gỡ đầu tiên giữa ông Đạt Ma và vua Lương Võ
Đế. Từ Ấn Độ mới bước chơn lên kinh thành Nam Kinh, với mục
đích khai đạo lập giáo, trên lãnh thổ Trung Hoa, được một vị
đế vương tiếp rước trọng hậu, mà vua ấy lại là một tín đồ
rất nhiệt thành với Phật pháp, ông Đạt Ma không biết thừa cơ
hội duy nhất, để cảm hóa vị chúa tể Trung Quốc, lại chọc cho
ông này nổi trận lôi đình, cho quân hầu đánh gãy răng, đuổi ra
khỏi xứ. Người ta nói ông Đạt Ma là Phật sống, có đủ thần
thông phép lạ, biết quá khứ, vị lai, nhưng ông lại không biết
tâm lý của vua Lương Võ Đế, nên ông thử lòng vua để học một
bài học đích đáng. Ông chưa có tha tâm thông, nên lên miền Bắc,
ông cũng phải thử lòng người để tìm kẻ có duyên với ông hầu
truyền tâm pháp. Đi đến đâu cũng bị bạc đãi đánh đập. Ông từ bi
nhẫn nại, cố tìm cho ra người kế nghiệp. Từ khi truyền đạo
được cho thầy Huệ Khả rồi, ông xoay mặt vô vách, cố tìm đạo
quả Niết bàn, không biết ông tìm ra chưa, rồi kế ông qua đời.
Thầy
Huệ Khả, trong lúc hành thiền, cảm hứng thế nào mà sanh ra
cuồng tâm, tự lấy dao chặt đứt hết một cánh tay. Để tránh
tiếng, người ta nói Tổ sư Đạt Ma thử lòng thầy, thầy muốn tỏ
lại cho Tổ biết dạ nhiệt thành của thầy, nên thầy phải hy sinh
một cánh tay cúng dường cho Phật. Hy sinh này, đi tới đâu cũng
nghe người người ca tụng, cho nên mới có mấy vị tu sĩ thanh
niên, noi gương chặt một vài ngón tay, để cầu đạo.
Thiền
tông ở Ấn Độ và Tàu là một đạo không mấy thích hợp với
người tu Phật, bởi người ta sợ bị tán thất tinh thần. Khi
truyền bá qua Nhật Bổn nó trở thành một học phái hoạt bát phi
thường.
Năm
729, thầy Dôsen (Đạo Tuyên) khai đạo Thiền tông ở Nhật, nhưng
không được thạnh đạt. Qua năm 1168, thầy Eisai (Huệ Khai ?) sang
Tàu khảo cứu đem về sáng lập đạo Zen. Đến năm 1225, đoàn thể
Zen, được thầy Dôgen (Đạo Lẫm) chỉnh đốn và sửa đạo hiệu lại
là Sôtô. Không còn là một thần bí giáo, học phái Sôtô chuyên lo
đào tạo phẩm hạnh con người, bằng cách trau dồi đức tánh tối
cao và tự chủ.
Lý
tưởng của đoàn thể Sôtô vượt khỏi các điều lành dữ, tội
phước, để khắc chế những vận mạng tốt xấu. Bạo hành, can đảm
và thản nhiên trước mọi hoàn cảnh. Tâm hồn nào được đào
luyện cứng rắn và giác ngộ rồi thì nó sẽ đồng nhất với càn
khôn vạn vật. Nó chẳng còn bối rối trước sự thắng bại, sống
chết, dõng mãnh trước những tai ách, họa hoạn, cứng cõi trước
các hy vọng và cám dỗ. Người trong đạo Sôtô sánh đời họ như
một núi đá giữa biển, không lay chuyển trước các phong ba bảo
tố. Họ chẳng chịu ngồi im một chỗ, thích quay cuồng trong chốn
hồng trần, để đương đầu với cảnh huống khó khăn với một tinh
thần bình tĩnh, nhứt quyết, dũng cảm, khí khái. Các bực anh hùng
võ sĩ đều dùng giáo pháp Sôtô để làm quyển kinh nhật tụng
của họ. Khí phách của người Nhật được hùng dũng là nhờ nơi
đạo Sôtô vậy.
Ngoài
học phái Sôtô còn một đoàn thể khác gọi là Hokke do ông
Nichiren (Nhựt Liên) lập ra trong thời kỳ 1222-1282, người Nhật coi
ông này như ông thánh. Hai phen ông đứng ra chỉ trích Giáo hội tu
sĩ do chánh phủ nhìn nhận; Hai phen ông bị tù đày và đến năm
1271, cũng vì nhục mạ Giáo hội nói trên, ông bị án tử hình.
Khi đem ông ra pháp trường, giám sát vừa sắp khai đao, trời bỗng
nhiên u ám, sấm sét nổ vang, làm cho giám sát kinh sợ buông đao.
Nhờ vậy ông được ân xá, trở về hăng hái tiếp tục thực hành
nhiệm vụ sứ đồ của ông. Ông có viết một tập vận
thư, đầy biện chứng châm chích thành kiến, tập tục trong thời
kỳ ấy và giục lòng thiên hạ theo về với tôn chỉ của ông. Nhờ
dĩ vãng của ông mà nhiều người phục tùng và cảm mộ.
Giáo
lý của ông thuộc loại phiếm thần, thiên về Thiên Thai và Mật
tông. Theo Tổ sư Nhựt Kiên, Phật là bản thể của vũ trụ, là tâm
hồn của vạn vật. Phật quá khứ, hiện tại, vị lai vẫn có
một. Toàn thể vũ trụ là thân của Phật; Hồn của con người là
hồn của Phật; tâm của con người là tâm của Phật, bởi thế nên
ai ai cũng có thể thành Phật. Người nào được Phật khai ngộ,
thì sống một cách tương thân tương ái với đồng loại vì đức
tánh của Phật là đức tánh cố hữu của trời người, súc sanh
ngạ quỷ.
Chủ
nghĩa của ngài Nhựt Liên là chủ nghĩa bình dân, đạo đức.
Chính ngài cũng không tĩnh tọa tham thiền như các nhà sư, suốt
đời ngài vẫn tranh luận với các nhà quyền thế, để binh vực
quyền lợi dân chúng, nên được nhiều người kính mến.
Tóm
tắt đạo của Tổ sư Nhựt Liên không còn tánh cách thoát ly thế
tục như giáo pháp của Phật Gotama, mà nó là một chủ nghĩa
Hoạt động của người hoạt động, cũng như đạo Zen, đạo Sôtô, là
một giáo khoa riêng biệt cho người Nhật Bổn tu bồi khí phách anh
dũng vậy thôi.
Ông
biết lợi dụng triết học Tân tiến để huấn luyện tinh thần
chủng tộc. Ông đã làm lợi ích cho quê hương xứ sở về phương
diện thế gian. Thà làm như ông, hơn là lợi dụng áo cà sa hoặc
danh từ Phật giáo để xã hội nuôi dưỡng cho phì da ấm cật,
cùng xây dựng thế lực cá nhơn, trên hậu thuẫn là kẻ cuồng tín.
V – TỊNH ĐỘ TÔNG HAY LÀ CHƠN TÔNG HAY LÀ TỊNH THỔ CHƠN TÔNG
Tịnh
Độ tông là một đạo hoàn toàn mới lạ, không giống với Đại
thừa Tân tiến, cũng như Đại thừa Tân tiến không giống với Phật
giáo Nguyên thủy. Đại thừa Tân tiến không giống với Phật giáo
Nguyên thủy thế nào, chúng ta đã biết rồi. Bây giờ thử hỏi
Tịnh Độ tông khác hẳn và đối chọi với Đại thừa Tân tiến chỗ
nào? Bởi một đàn thờ Phật A Di Đà như một vị thần độ mạng, đàn khác lấy Phật tánh làm ngôi tuyệt đối vô ngã.
Tông
nào cũng có ông Tổ sư sáng lập, riêng về Tịnh Độ tông không
thấy kinh sách nào ghi chép ai là người đề xướng tôn thờ Phật A
Di Đà.
Các
tác giả quyển Pháp Bửu Nghĩa Lâm đã tìm trong 200 bộ bí giáo
Tịnh Độ, và trong 180 quyển kinh, 20 quyển luận của Phật giáo
Đại thừa, từ quyển Hoa Nghiêm, Niết bàn, Pháp Hoa v.v... chẳng
thấy ai là ông giáo tổ.
Trong
Tam tạng Pàli của Phật giáo Nguyên thủy cũng chẳng thấy chỗ nào
đề cập đến Phật A Di Đà, nên giới Bảo thủ không quan tâm đến
vị Phật ấy.
Các
nhà sư Tàu và Nhật viết rất nhiều sử tích của Phật A Di Đà,
mà chẳng có tích nào giống nhau, và chẳng biết họ căn cứ vào
đâu. Có thật ra đây cũng không thấy bổ ích, vì không có bằng
chứng để làm tin, lại còn gieo thêm cái hoang mang vào trí óc
người nhẹ tánh.
Xưa
nay ai có từng xem tích nào, cứ gìn giữ tích ấy cho vững
lòng, và nhất là ghi nhớ 48 lời thề nguyện của Phật A Di Đà,
làm kim chỉ nam để tiến đến Cực Lạc Quốc độ. Tuy không đề cập
đến sự sanh trưởng của Phật A Di Đà, đã khuất lấp trong đêm
tối của thời gian tối cổ, thiết tưởng cũng nên cho biết quan
niệm của một vài tác giả về Phật A Di Đà theo phương diện siêu
hình. Có người nói rằng Phật A Di Đà là Thiền Na của Phật
Thích Ca, nghĩa là người dắt dẫn ông Thích Ca xuống trần làm
người Phật. Một tác giả Nhật cho rằng Phật A Di Đà mượn thân
ông Thích Ca để giáng phàm độ thế. Chỗ khác nói rằng chính
Phật Thích Ca đã mách bảo cho tín đồ biết Phật A Di Đà tại
Tây Phương và khuyên họ nên tu theo pháp môn Tịnh Độ cho dễ thành
Phật, hơn là theo giáo pháp khô khan cạn cợt của Ngài.
Ai
muốn biết từ đâu Tịnh Độ tông xuất phát, Pháp Bửu Nghĩa Lâm
khuyên đừng tìm trong xứ Ấn Độ, mà nên theo dõi sự phát triển
của Phật giáo Tân tiến nơi các xứ ngoài.
Vị
sứ đồ đầu tiên đem kinh Di Đà truyền bá tại Trung Quốc, trong
năm 147, kỷ nguyên này, là một ông hoàng Ý Lăn (Iran), tên
Ngan-Che-Kao, sanh trưởng tại Kushan.
Qua
thế kỷ thứ V, ông Cưu Ma La Thập, nhân dịp đi truyền bá Tam
Luận tông tại Trung Hoa có giảng kinh Di Đà và cho biết rằng
Phật A Di Đà là một đấng hộ mạng tối cao của mọi người. Ông
Cưu Ma La Thập, như đã có nói rồi, là con của một vị công chúa
tại Koutcha, thuộc xứ Ý Lăn. Do hai nguồn gốc này, mà Tịnh Độ
tông được nảy nở trước nhứt tại Trung Hoa, nên các nhà khảo
cứu Phật giáo, không còn nghi ngại gì mà không cho rằng đạo A
Di Đà phát sanh tại Ý Lăn. Người xứ này nửa Ấn Độ, nửa Ý
Lăn, nửa tu theo Phật giáo, nửa tu theo đạo Mazdeisme (Thiện Ác
nhị nguyên). Chúng ta sẽ có dịp nói đến đạo này.
Bắt đầu từ năm 252, kỷ nguyên này, kinh Da Đà được ông Sanghavarman (Khương Tăng Khải?) phiên dịch ra chữ Hán.
Ông
Cưu Ma La Thập, khi qua Tàu, cũng có dịch cuốn A Di Đà kinh ra
chữ Hán. Đến năm 424, tới phiên ông Kalayassas (Cương Lương Da Xá)
dịch cuốn Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh ra chữ Hán. Đến thế kỷ
thứ VI, có ông sứ đồ khác tên Bodhisri sang Hồ Nam truyền bá
đạo A Di Đà, thâu được một người đồ đệ tên Tan Loan, là một tu
sĩ danh tiếng tu theo đạo Lão. Ông này truyền giáo lại cho
nhiều đệ tử, tới ông Chan-tao được vua Đường Cao Tông ủng hộ.
Từ đó đạo Di Đà được thành lập chánh thức tại Trung Hoa (thế
kỷ thứ VII), với hai quyển kinh chánh là Vô Lượng Thọ kinh và
Đại A Di Đà kinh.
Qua
thế kỷ thứ IX và X, đạo A Di Đà truyền bá qua Nhật được thạnh
vượng mau chóng nhờ hai ông Ganshin và Ryônin. Đến thế kỷ thứ
XII, một nhà sư danh tiếng tên Hônen (Pháp Nhiên) truyền bá Tịnh
Độ tông được đông người tìm xin quy y thọ giáo, và tôn ông là
một vị thánh. Đạo hiệu của ông là Jôđô (Tịnh Thổ) hay là Shin
(Chơn tông).
Thánh
Pháp Nhiên truyền rằng các pháp hành không còn áp dụng được,
vì thời kỳ đã xa Phật, đời mạt pháp không còn ai hiểu thấu
đạo Phật, chỉ tỏ lòng tin Phật là đủ rồi.
Đệ
tử kế thừa của ông Pháp Nhiên là ông Fujiwara Shinran (Chơn Loan
1173-1262). Ông này sửa đạo hiệu lại là Jôdô Shinshu (Tịnh Thổ
Chơn tông). Tuy ông là thầy tu, nhưng ông vẫn có vợ con như người
thế; Ông dạy cứ tin tưởng nơi Phật A Di Đà là đủ, khỏi phải
cắt ái ly gia cũng không cần kiêng cử trong sự ăn uống. Theo ông
Chơn Loan, đạo đức và hạnh kiểm không bằng đức tin. Đức tin
không do nơi sự tinh tấn mà ra, chỉ nhờ sự gia hộ của Phật A Di
Đà mới có.
Việc
lành điều phải phát sanh từ trong tinh hoa của con người, là
cái bản chất phát biểu ra ngoài; Còn điều ác là sắc tướng
bề ngoài, chẳng khác nào cái bọc tạm, mà mình có thể bỏ
bằng cách không nhân nhạn trong thâm tâm rằng: “Chẳng phải ta là
người đã làm các điều ác ấy”. Không có điều ác nào làm cho
nhơ đục cái bản thể, vì bản thể là trọn lành, là tinh vi và
không thể làm điều tội lỗi. Cái tinh hoa của chúng sanh là tinh
hoa của vũ trụ, của chư Phật, chư Bồ tát, của Phật A Di Đà
và Phật Quan Âm. hai vị Phật này vẫn là một (1) thường xem
chúng sanh như bản thể của ngài, và đem lòng từ bi thương xót
khi thấy họ bị vô minh che ám mà làm những điều tội lỗi. Một
khi biết tự hối thì tội lỗi, là cái học bên ngoài, đã tiêu
ma.
Hai
yếu luận: Lành và Dữ nói trên chỉ rằng đạo Di Đà phát sanh
từ trong chủ nghĩa của đạo Mazdéisme, gọi là Thiện Ác nhị
nguyên giáo. Đạo này nhìn nhận hai nguyên lý: Lành (Ormazd) và
Dữ (Ahriman). Nguyên lý Lành tạo tác và cai quản càn khôn võ
trụ; Có sáu vị thần cao cấp (Amshaspands) và sáu vị thần hạ
cấp (Yazatas) chuyên lo về việc lành trong thế gian. Nguyên lý dữ
cũng có sáu hung thần cao cấp và sáu hung thần hạ cấp phụ
giúp để phá hoại nguyên lý lành. Rốt cuộc cái lành thắng cái
dữ.
Đối
chiếu hai giáo thuyết lành dữ nói trên của đạo Di Đà và đạo
Mazdéisma người ta tự hỏi hai đạo này có liên quan nhau như Tân
tiến và Bà la môn giáo không?
Theo
lời của Tổ sư Pháp Nhiên, đạo giáo của Phật Gotama khó thực
hành, và khó hiểu. Có lẽ vì đó mà người ta dùng phương tiện
thỉnh một vị Phật, từ bên kia mười muôn triệu sa bà thế giới
(2) về ngự tại Tây Phương, chờ tiếp dẫn tín đồ ra ngoài vòng
thống trị cả Ma vương, hưởng mọi hạnh phúc khoái lạc, chờ
ngày trực chỉ về Niết bàn.
(1) Nhiều cổ tượng Quan Âm có hình Di Đà trên trán.
(2) Ngoài phạm vi của Phật Thích Ca, rộng lớn không thể nghĩ ngợi được.
Thật
chẳng có vị Phật nào gần gũi với tín đồ hơn Phật A Di Đà.
Chẳng có chi làm cho con người hoan hỷ, khoan khoái, bằng sự phó
thác tâm hồn cho Phật A Di Đà, là đấng từ bi vô lượng. Niệm
danh hiệu của Ngài, chỉ niệm một lần cũng đủ cho Ngài cứu
độ. Vừa tỏ lòng ăn năn cải hóa và thành thật sám hối thì bao
nhiêu tội lỗi cũng tiêu. Nhứt là tin tưởng và nguyện cầu siêu
thăng về Cực Lạc Quốc độ, thì chắc chắn, trong giờ lâm chung
có Phật A Di Đà đến rước về Tây Phương Tịnh Thổ, y theo lời
thệ nguyện của Ngài.
Phương
tiện dụ dỗ này thật là thiện xảo, nhưng nó vẫn là một phương
tiện. Khi tín đồ mê thích, vui thú với đạo rồi, ít ra cũng
cho họ biết đây là giả cảnh (1) và dạy họ xoay về Niết bàn
tuyệt đối của Phật Gotama mới phải cho.
Có
lẽ người đề xướng cái phương tiện này cũng tính như thế,
nhưng giữa chừng người ấy đã chết mất, thành ra phương tiện kia
trở thành một đạo thần giáo thiệt thọ, rất lạc quan, với
một đấng Cứu thế, một cảnh giới cực kỳ vui thú, chứa đầy
những người có đức tin trọn vẹn nơi Phật A Di Đà. Thế thì
muốn cho được lòng người, cho vừa yêu sách của kẻ phàm tục,
chỉ có cách xóa bỏ luật nhân quả và hiểu rằng gặt hái không
còn là trồng tỉa nữa, mà chỉ là tin tưởng, cầu khẩn và van
lạy thôi.
Đức
tin trong sự ăn chay, đức tin trong sự tụng kinh, đức tin trong
sự niệm Phật thật là quý báu vô cùng. Nhưng thiếu Chánh kiến,
Chánh tư duy, nên nhiều người lấy cái ăn làm thuốc rửa lòng,
lấy sự tụng kinh làm phép chuộc tội, lấy sự niệm Phật làm
đường về Tây Phương.
Lê
hoát là vật chất, không thể sửa trị tinh thần được, như đã
có nói rồi. Kinh là lời của Phật dạy, không chịu xem
(1)Có
người hỏi tại sao Tây Phương là cảnh Phật mà còn có nhà cửa,
có ăn mặc? Có câu trả lời rằng đó là giả cảnh. Phật tại tâm
là rất phải tìm Phật tại Tây Phương.
cho
hiểu nghĩa lý để thực hành theo, cứ tụng suốt đời cho Phật
nghe, nghĩa có tội nghiệp cho cái dốt của mình không? Đêm nào
cũng niệm Phật lần chuỗi, mà không thấy minh tâm kiến tánh,
cũng không ai chịu tìm một lối niệm khác để đăng cảnh Phật.
Đức
tin có hai thứ: Chánh tín và Mê tín. Trong Bát chánh đạo,
Phật để Chánh kiến, Chánh tư duy trước nhứt, chỉ là đạo của
Ngài là đạo trí tuệ. Muốn học làm Phật phải dùng trí tuệ
suy xét mới phân biệt chánh tà, mới thấu lý cao siêu. Tu mà
không gia công tầm đạo học pháp, cũng không trì chí thực nghiệm
pháp hành, mà ai ai cũng muốn thành đạo chứng quả, trách sao
cho khỏi nhóm tà sư thừa cơ lợi dụng tâm lý mình ngồi không
thọ của cúng dường và bày những trò mê hoặc. Cho đến các bậc
tu hành chơn chánh cũng vẫn vui chịu cho thần linh chi phối,
không thấy các ngài vượt khỏi tập tục để tìm đạo pháp tận
cửa chơn lý.
Trong
kinh Anguttara Nikâya có một đoạn Phật ngôn như vầy: “Này các
thầy Kalâmas, các thầy chớ nên lầm lạc nghe theo những điều thu
thập, những lời truyền thống, những tiếng phong văn. Các thầy
chẳng nên lầm lạc theo những sưu tập lưu truyền, hoặc những lý
sự suy đoán, hoặc sau khi quan sát lý do, hoặc sau khi suy gẫm
một kiến giải ngôn luận nào và thừa nhận nó hạp với trào
lưu, hoặc bởi kiến giải ấy do thầy tổ các ngươi đưa ra. Khi nào
các ngươi tự biết rằng các điều ấy không tốt, hoặc sai lầm,
hoặc không được bậc trí tuệ ngợi khen, và chắc chắn rằng khi
các điều ấy được đem ra thực hành, truyền bá, nó sẽ đem lại
thất bại và khổ não, các thầy nên xua rảy nó ra”.
Những
lời kim ngôn cao thượng của đấng Chí tôn thốt ra với tấm lòng
từ bi, mong cho môn đệ hậu lai của Ngài tạc dạ ghi nhớ, để
tránh những lầm lạc theo cổ tục tập quán, theo kinh điển lưu
truyền, theo lời thầy tổ. Bởi Ngài biết trong thời đại nào
cũng có mê tín dị đoan, và ngoài bậc Chánh đẳng Chánh giác
không có ông giáo tổ nào (1) đưa người đến cửa chơn lý. Trong
muôn việc đức Thế Tôn khuyên chẳng nên bỏ vội, cũng chẳng nên
tin vội, và nên dùng trí tuệ suy xét cho chu đáo; Nếu đúng với
lẽ phải thì nên theo, bằng trái với lý trí thì bỏ ra, dầu
là việc ấy được phần đông công nhận, hoặc thích hợp với trào
lưu xã hội.
Ai
lại không tìm sự thật, ai lại không dùng trí tuệ để tìm sự
thật. Nhưng bao giờ trí tuệ bị chút tự ái, chút thiên vị cùng
quyền lợi che án, thì sự thật không còn là sự thật; Bởi nó
có phải mà cũng có quấy: Phải theo cái óc chấp nê, quấy với
cái trí bình đẳng.
Bồ
tát Sĩ Đạt Ta phải luôn luôn tinh tấn tu hành trên bốn A tăng
kỳ kiếp mới thành Phật được, nghĩa là quả vị Phật không phải
dễ mua chuộc, nhưng vẫn có người thiện trí thức tin rằng trọn
đời tu niệm qua loa, đến phút lâm chung cũng thành Phật được.
Kinh
sách đã ghi chép như thế ấy, thầy tổ đã dạy như thế ấy,
phần đông tin như thế ấy, lý trí cũng phải thừa nhận như thế
ấy. Cho nên chơn lý không còn là lẽ phải nữa, mà nó là đức
tin.
KẾT –LUẬN
Con đường về Niết bàn của Phật Gotama và của chư vị Tổ sư Tân tiến khác nhau một trời một vực.
Người
tu theo Phật Gotama phải tự lực hành trình từ thấp lên cao,
theo một con đường nhất định. Ai ai cũng phải mua sắm hành lý,
cất gói ra đi. Tùy năng lực, tùy trình độ,
(1) Nên biết rằng trong mười muôn triệu sa ba thế giới chỉ có một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời.
cứ
chậm rãi tiến đến mức cứu cánh. Dọc theo con đường ngàn trùng
diệu vợi, chỗ nào có cam go hiểm trở, có thú dữ rắn độc, chỗ
nào có ao sen bóng mát, có trạm nghỉ chơn, Phật Gotama tỉ mỉ
mách bảo cho biết trước. Mạnh ai nấy đi, tới đâu hay tới đó,
tiến bước nào chắc bước nấy, dầu đuối sức dừng chơn, cũng đã
có tiến được một đôi dặm đường, rồi từ đó tiếp tục tiến
nữa, không cần lo nghĩ đến thời gian, không gian. Muốn cho mau
tới mức, mà sức không đủ, có chạy cũng vô ích.
Người
đi trên con đường vạn hải thiên sơn này là người chiến sĩ xung
phong chiến đấu với Ma vương phiền não. Y giáp của họ là bác
ái, sức mạnh của họ là tinh tấn, hành lý của họ là giới
đức, khí cụ của họ là trí tuệ, chiến kỳ của họ là giải
thoát, khẩu hiệu xung phong của họ là chơn lý.
Người
tu theo các vị Giáo tổ Tân tiến có nhiều đường lối. Thay vì
phải xông pha ra mặt trận, họ ngồi tại văn phòng tham mưu, xem
binh thơ đồ trận, tìm phát minh cho được phi cơ trực thăng, vượt
khỏi quân thù, bay bổng về Niết bàn. Hoặc họ dùng vô tuyến điện thoại cầu cứu tận phương Tây, giặc vừa hãm thành họ lên pháo tiễn bay mất.
Chiến
lược Lục quân cũ kỹ của Phật Gotama dỡ thật, đã mệt nhọc
khó khăn, lại không hy vọng thắng nổi quân thù; Nên nhiều người
tự nguyện tùng chinh theo bộ đội Không quân của các vị Tướng
lãnh Tân tiến.
Hiện
giờ nghe nói Phật Di Lạc và nhiều thần tiên đương lập căn cứ
tại Việt Nam, để tuyển mộ một đội Không quân, chờ khi có tai
nạn, rước những người có đức tin cứng rắn về Niết bàn. Có
hiếm người trí thức đã tình nguyện đầu quân.
Trình độ tín ngưỡng tới đây là cùng.
***
Đọc qua hai quyển Chọn đường tu Phật
này, chắc chắn có nhiều người phẫn nộ và cho rằng đây là bọn
Tiểu thừa muốn chỉ trích người Đại thừa. Xin thanh minh rằng
chẳng phải vậy. Người Tiểu thừa làm sao biết được Đại thừa
mà chỉ trích, bởi giáo lý Tiểu thừa (1) không có đề cập đến
thừa nào cả và chẳng bao giờ dạy chỉ trích ai hơn là tự chỉ
trích lấy mình. Chỉ trích chê bai đàn em, chính là thông lệ
của người Đại thừa, bởi hai danh từ Đại thừa và Tiểu thừa
vốn của Đại thừa đặt ra để phân loại người trí kẻ ngu.
Người
nào phẫn nộ, người ấy cũng chưa phải là người học Đại thừa,
bởi người Đại thừa vốn không cố chấp, lại sẵn có đức tánh
từ bi hỷ xả rộng lớn bao la.
Chỉ trích không hạp hạnh kiểm của Tiểu thừa, phẫn nộ chẳng phải trình độ của Đại thừa.
Tác
giả bất quá là một đứa con của một gia đình Phật tử, đã
chịu ảnh hưởng sâu xa của Đại thừa và Tiểu thừa, từ trẻ đến
già, khi thì ở với bác, lúc lại về với chú. Nó đã từng
sống chung chạ cả đôi bên và lắm lúc được bác chú dắt đi thăm
hội hè. Có ở trong trường hợp đặc biệt ấy nên nó mới biết
mà nói ra. Thấy sao nói vậy với tấm lòng bình đẳng ngay thật,
chẳng phải nói để vạch lá tìm sâu với một ác ý phá hoại,
mà trái lại với thiện tâm xây dựng.
Mục
đích duy nhất của nó là tìm lẽ phải giữa Ông Giáo chủ Thích
Ca và các vị Tổ sư hậu lai. Lắm người đã có nêu vấn đề này
ra nhiều lược rồi, nhưng họ sợ đánh trống động chuông, bứt mây
động rừng, rồi sách vở của họ bán không chạy, nên công trình
của họ không có kết quả.
(1)Đúng ra là Phật giáo Nguyên thủy.
Sợ
con cháu lầm lạc, sợ ngoại quốc không kính nể (1) nên buộc
lòng phải trình bày sự thật, và nhấn mạnh những chỗ chúng ta
hay chấp nè, mong các bạn đồng thuyền nhận định lại quan niệm
của mình đối với Phật giáo. Có lẽ các bạn cũng muốn biết
sự thật chớ? Thì đây: Bên chú có ông nội ruột, bên bác có ông
nội ghẻ. Hai ông đều tử tế cả hai, nhưng bị ông nội ghẻ có
nhiều con riêng hay kích bác ông nội ruột, mà bác mình lại vui
sướng với những lời không chánh đáng ấy. Dòm lại coi ông nội
ruột của mình là người thế nào, mà bác mình cũng hắt hủi
không nhìn nhận là cha. Chừng đó mới thấy ông nội ruột mình
là người thật tốt, đã dày công xây dựng một sự nghiệp vô giá,
để lại cho toàn thể thế gian thừa hưởng. Nhưng vì ganh tỵ mà
ông nội mình bị bên bác truất phế. Méc với chú, chú vẫn làm
thinh. Tức tri mới tìm cho biết nguồn cội của sự bất hòa giữa
bác và chú. Câu chuyện chỉ có thế thôi.
Từ
khi ông nội qua đời, gia đình xào xáo, chú bác phân ly, người
Nam kẻ Bắc. Trong cảnh cốt nhục chia phôi, bác bỏ nhà ra đi với
hai tay không đến đâu khai thác điền địa đến đó. Nhờ tài khôn
lanh xảo quyệt, bác kinh doanh lập nghiệp dễ dàng, mỗi nơi bác
mỗi lập gia đình để bảo vệ tài sản.Vợ nhiều con đông, sanh ra
kình chống, tranh giành quyền lợi, xung khắc từ lời ăn tiếng
nói. Trước kia bác chia rẽ gia đình như thế nào, bây giờ con
của bác cũng chia rẽ như thế ấy. Cơ đồ của bác vì đó mà phải
làm cảnh hư đổ suy sụp.
Chú
thì thật thà chơn chất, cậm cụi khuyết trương di sản của ông
nội, lại nhờ con một dòng, trên thuận dưới hòa, trung hiếu
lưỡng toàn, không trụy lạc theo văn minh vật chất, cố duy trì
phong hóa tổ tiên. Sự nghiệp của chú càng ngày càng sung túc
phát đạt.
(1)Ai có đi dự Hội nghị Phật giáo Quốc tế thì biết lấy.
Đã
từng nhờ cậy bác, trong lúc hưng thời và có lúc cũng nương
theo chú để lập thân, hai bên chú bác thương đồng. Nếu không phô
trương lai lịch gia phổ, cho các anh bên nhà bác biết, để trở
về với chú, cộng hưởng sự nghiệp của ông nội, cho đỡ phần nào
trong cảnh nghèo túng, thì há chẳng phụ bạc bác mình hay sao!
Dầu
bác có tự ái buông lời quở phạt chửi mắng, cháu cũng nguyện
giữ chữ làm thinh, miễn là đạo nhà được xử cho vuông tròn.
Vì vậy mà phải nói. Nói những điều khuất lấp, nghe thấy, với
tấm lòng chơn chánh ngay thật và trình bày điều phải lẽ
quấy, để hòa giải chú bác đôi bên sum họp, cùng chung hưởng
hạnh phúc gia đình. Nói để thức tỉnh anh em chú bác, nói để
đoàn tụ con cháu, để hòa hiệp bè bạn, để gây tình huynh đệ,
để vạch con đường về cội rễ.
Chân thành cảm ơn Thầy hay Bậc Thiện hữu/Thiện tri thức đã đăng bài pháp này...
Trả lờiXóaChuẩn không cần chỉnh
Trả lờiXóaQuá hay va khá chính xác. Xin cám ơn đạo hửu. Mong rằng thông tin này được truyền đến nhiều đạo hửu khác để được nhiều lợi lạc trên bước đường học Phật.
Trả lờiXóaTác giả bài viết chủ quan và lôi kéo người đọc theo cách nhìn của mình. Tạo ra sự phân hoá giữa Phật Giáo nguyên thuỷ và Phật Giáo tiên tiến. Theo tôi tài biện luận này cũng chẳng giúp đến việc tu hành giải thoát như mong muốn của Phật.
Trả lờiXóaIm lang khong ai biet minh la ai
Xóaumk
XóaNam mô A Di Đà Phật https://www.youtube.com/watch?v=efLfVukfvDM
Trả lờiXóaNam mô A Di Đà Phật https://www.youtube.com/watch?v=efLfVukfvDM
Trả lờiXóaCám ơn thầy, xin thầy cho con xin địa chỉ hoặc điện thoại của thầy để được nhận sự chỉ dạy của thầy. Phật pháp rộng sâu, mà con như người mộng du, mong thầy thương xót chỉ dạy.
Trả lờiXóaChính xác sau khi phật nhập diệt ko có gì là đúng cả. Đại thừa xuất hiện sau 500 năm là do con người thời ấy tự tạo ra thôi. Có khi ma vương dụ bọn độn trí thời nay.
Trả lờiXóa
Trả lờiXóaCảm ơn bạn. Những đoạn văn này tôi đọc trong các tác phẩm của tác giả Từ An. Nhân thấy một vài đoạn mình thấy hay, ghi lại. Mời quý bạn xem qua. Phần còn lại trong các quyển Cát Bụi Hồng Trần, Tuần Trăng Vi Diệu…Những sách này mời các bạn vào trang web chuabenhdongian.com để xem và có gì trao đổi xin liên hệ với tác giả theo địa chỉ dưới đây:
Tác giả: Từ An
ĐT: 01275934607
Mê là tâm mê
Ngộ là tâm ngộ
Ngộ rồi biết không tâm
Không tâm còn chẳng có
Mê ngộ chỗ nào thành!
$$$
Tâm chạy theo cảnh
Cảnh lại sinh tâm
Đầu? Đuôi? Trụ xứ?
Chỉ bảo là lầm!
***
” Ai? ” Là chỗ sống chết!
Biết được ai, ai biết
Người này thõng hai tay
Vào chợ không còn mất!
@@@
Liễu sanh tức thoát tử
Đạt Lý là Sự thành
Sinh tử vốn không hai
Sự lý đâu trình thử!
&&&
Vô lượng lần sinh diệt
Dòng nhân quả luân lưu
Do mê mờ bản tánh
Thấy có ra có vào!
@@@
Chết đây lại sanh kia
Chúng sanh nhiều hay ít
Hình dung như bọt nổi
Biển nước chưa từng lìa
$$$
Pháp không sanh chẳng diệt
Tâm chưa từng đến đi
Đất bằng luôn dậy sóng
Chỉ tự mình phân ly
@@@
Tâm cảnh như hoa đốm
Lúc nào cũng lăng xăng
Chớ cầu tìm an ổn
Chỗ này hay chỗ kia
&&&
Bổn lai vốn là Biết
Lại muốn biết cái gì
Nên năng sở vọng lập
Có Phật có Chúng sinh
###
Không Thiền cũng chẳng Tịnh
Mật tu theo tâm mình
Tâm tâm chưa từng dính
Nói gì tu chẳng tu
^^^
Đạo không có đường vào
Vì nó không có cửa
Cửa là do mê lập
Bỏ vọng liền được vào
@@@
Tự tâm bạn bị điều kiện hóa nên sản sinh ra sự sự lý lý, rồi vô số vấn đề sinh ra, bạn bị cột trói bởi nó. Rồi cũng tự tâm bạn tạo tác học tập phương pháp để giải quyết vấn đề rồi cũng tự tâm bạn chứng đắc. Bạn đi tìm đạo sư để ấn chứng cho bạn, vì bạn không biết Đạo sư chính là Tự Tâm bạn, đầy đủ không thiếu thốn dù vô minh hay bất cứ phẩm tính nào
Xin thầy cho con địa chỉ hay nơi thầy hay thuyết pháp. Đọc xong bài của thầy con vỡ oà nhiều thứ quá. Hụt hẫng khi trước giờ lầm tưởng vào nhiều thứ không có thật, giả dối...Mong thầy có nhiều bài viết hay cho chúng con nghe. Từ giờ con chỉ niệm 1 câu: NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT...!!!
Trả lờiXóaCái ông cư sĩ Trùng Quang này tâm phân biệt còn lớn quá.Đạo hạnh còn quá yếu. Có biết thế nào là khai ngộ không mà đã đi nói liên thiên thế. Hay chỉ có đi nghiên cứu thôi mà đã nói pháp tôi tu là hay còn pháp anh tu là giả ah. Lo mà tu để chứng đạo quả đi ko xuống địa ngục bây giờ.
Trả lờiXóaNgu si
XóaKInh Văn từ hồi giờ đọc là của Tổ soạn và bọn tàu ô ngụy kinh Phật, giờ mới hiểu !
Trả lờiXóaTrên đường tìm đạo mục đích để tỉnh thức giác ngộ thì kinh sách, đạo sư… là những thiện tri thức không thể thiếu. Với lòng thành tâm muốn quý bạn cùng tiến trên đường Đạo, tôi xin được trân trọng giới thiệu trang web phapdonngo.com. Các bạn có thể vào Paltalk ( z Phap Don Ngo z ) để tiếp xúc trực tiếp với một người kiến tánh ( sư huynh Quang Liêm )
Trả lờiXóa(ý kiến riêng cá nhân tôi, nhận xét dựa trên hiểu biết và kinh nghiệm sống của chính mình như Phật Thích Ca đã dạy)
Trả lờiXóaTôi là người sinh ra và lớn lên hơn 20 năm không biết đến Tiểu Thừa là gì, chỉ tiếp thu văn hoá Đại Thừa như bao người Việt Nam. Nhưng sau hơn 20 năm, lúc này vẫn chưa biết giáo lý Tiểu Thừa, tuy nhiên tôi cảm thấy có gì đó không ổn trong cách truyền bá giáo pháp Đại Thừa tại Việt Nam, nói về nội bộ của những người tu tập chánh thức, giáo hội, tôi quả thật chỉ là hạng nhỏ nhoi không dám có ý kiến, nhưng nói về ảnh hưởng xã hội lên những người dân thường, tôi thấy có vấn đề.
Cách truyền bá tại VN, làm do người dân sùng kính Phật giáo như một liên minh các vị thần, vị nào cũng thần thông quảng đại, pháp lực vô biên, cũng có quyền thưởng phạt phán xét và đặc biệt là ngoài Phật Thích Ca còn phát sinh ra hình tướng vô số các vị Phật khác, được coi như thần linh. Những người tu chánh tông có thể coi đó là một phương pháp để quán tưởng gì đấy. Nhưng người dân thường thì chịu ảnh hưởng rất nặng, họ chẳng màng đến việc duy trì đức hạnh nghiêm khắc mà Đức Thích Ca cất công dạy, những điều rất đơn giản cần sự duy trì dài lâu, mà lại đi lao tâm khổ tứ vào việc thờ cúng, mê tín, bói toán, phong thuỷ để chiều lòng cách vị thần được đẻ ra. Nào là đặt tượng Phật sai hướng là tội, vẽ Phật không đẹp là tội, đến cả đeo dây chuyền có mặt Phật mà nhỡ vào nhà vệ sinh để làm việc đơn giản của một con người cũng là tội. Họ quên mất rằng Đức Thích Ca là một vị thầy, và cũng quên luôn rằng thầy dạy thì phải nghe và thực hành, chứ đâu phải là chữ thầy trả thầy rồi ngửa tay xin thầy muôn thứ? Tư tưởng này tôi cho là lầm lạc vì nếu giả bây giờ có khai thông cho họ nghe bằng những điều đơn giản mà ích lợi thì họ sẽ cho rằng đang phỉ báng Phật giáo của họ.
Về sau thì tôi biết đến Phật giáo Tiểu Thừa, thật ra nên gọi là Nam Tông vì danh xưng Tiểu Thừa được nghĩ ra một cách rất mỉa mai nhằm hạ thấp trường phái này. Tôi thấy Phật Giáo này coi Đức Thích Ca như một vị thầy rất gần gũi, giản dị và tìm cách thực hành giống nhất với Đức Thích Ca chứ không chấp nhiều vào thần này linh nọ rồi các cõi trời vàng bạc châu báu gì đó. Những hình ảnh này ai để ý sẽ thấy thực chất rất giống với xã hội của Trung Quốc.
Tạ ơn người viết bài .
Trả lờiXóaTự bản thân tôi cũng đã trở về với giáo lý Nguyên thủy ( lời dạy của Phật Thích ca ).Tôi là phật tử tại gia ở nước ngoài cũng từng sinh hoạt tại chùa và tu tập đại thừa hơn 20 năm ( thật uổng phí thời gian), trông thời gian nầy cố gắng học hỏi, nghe giảng pháp đại thừa, càng nghe càng cố hiểu thì càng loạn. các đại hoà thượng ,thượng tọa, đại đức, giảng thật nhiều triệt học đại thừa chung quy rốt cục bảo Phật tử niệm danh hiệu đi đà cầu vãng sanh cõi tịnh độ là pháp môn tối thượng thừa diếp độ tất cã căn cơ.
Sinh hoạt chánh tại chùa thì buôn bán ,luôn kêu gọi phật tử công quả để tạo phước, tiền bạc dư thừa mấy thầy cô sống hưởng thụ hơn người thường, điện thoại máy tín phải hiệu Apple mới tốt, ăn uống tại Restaurant là thường, tiền dư đi chơi nước ngoài mỗi năm.
Mỗi ngày chỉ một thời công phu sáng ,công phu chiều thì mấy điệu mới vào, ăn uống thì gần mỗi ngày có phật tử lo thật ngon dọn bày chẳng khác vua chứa mới vừa lồng ( gọi là hiểu đạo biết cùng dường)
Cuối tuần việc chánh để kiếm tiền là cầu siêu cầu an.
Đến lúc VN bị thiên tai thì giăng cờ giăng bảng bố thí chút mì, gạo( tiền tài cũng do phật tử đóng góp)nhưng không ý thức được rằng tự mấy thầy cô đại thừa đang phá hoại môi trường sinh sống của đất nước, bằng cách xây dựng chùa , trưng bay chánh điện ,cho đến bàn gế giường ( tạc rồng phượng kiểu vua chúa) để kiếm tiền thật nhiều còn phát hành bàn thờ phật bằng gổ thật từ VN qua, những xãn phẩm nầy phải đốn rừng mới có được, tự mình phá hủy môi trường sinh sống của dân nghèo rồi bố thì một chút ,cho là mình từ bi thật buồn thây cho dân VN,tự bản thân tôi cũng bỏ hết hơn 20 năm làm việc nầy gọi là hộ trì tam bảo được khen thưởng thật nhiều là đang hạnh bồ tất đạo ,thật là ngu lắm. cách đây 6 năm thấy rằng mình chỉ ảo tưởng sau khi chết xẽ được vãng sanh tịnh độ, nhưng hiện thời thì không tiến bộ từ thân cho đến tấm, cũng lúc đó lại đọc những bài pháp trong sáng dễ hiểu và trình bày đơn giãn để tu tập của Phật giáo Nguyên thủy .
Lạnh thay từ đó tôi đã trở về với Nguyên thủy, thực hành Bát chánh đạo và thiền Tứ niệm xứ.