1Toàn bộ lý do để học Giáo Pháp, những giáo lý của Đức Phật, là để tìm ra cách vượt qua khổ và đạt đến sự bình an và hạnh phúc. Dù chúng ta có nghiên cứu những hiện tượng của thân hay tâm, nghiên cứu tâm (citta) hay những yếu tố tâm lý của nó (tâm sở, cetasika), thì chỉ khi nào chúng ta đạt được sự giải thoát khỏi khổ là mục tiêu rốt ráo của việc tu hành, thì lúc đó chúng ta mới thực sự đang đi đúng con đường: phải vậy mới được. Khổ có mặt vì có nguyên nhân và điều kiện [nhân và duyên] của nó.
Nên hiểu rằng khi tâm được tĩnh tại là nó đang ở trong trạng
thái tự nhiên bình thường của nó. Ngay khi tâm động vọng thì nó trở nên có điều
kiện, nó trở thành hữu vi (sankhāra).
Khi tâm bị hấp dẫn theo thứ gì thì nó bị điều kiện tác động. Khi sân khởi sinh,
tâm bị tác động. Ý muốn chuyển động chỗ này chỗ nọ khởi sinh từ sự tác động. Nếu
sự tỉnh giác của chúng ta không theo kịp với những sự phóng túng đó của tâm khi
chúng xảy ra, thì tâm cứ chạy theo chúng và bị tác động bởi chúng. Mỗi khi tâm
chuyển động, thì ngay lúc đó, nó trở thành một thực tại theo quy ước.
1 [Đây
là bài giảng pháp giảng cho một nhóm nhà sư học giả đến thăm thiền sư Ajahn
Chah tại chùa Wat Pah Pong.]
[Đây
cũng là bài giảng đã được in và phát hành với một tên sách khác là “Chìa Khóa Đi Đến Giải Thoát”.]
Do
vậy, Phật đã dạy chúng ta phải quán sát những điều kiện tác động này nọ của
tâm. Mỗi khi tâm chuyển động, nó trở thành không ổn định và vô thường (anicca), khổ (dukkha), và vô ngã, không thể coi là một cái ‘ta’ nào cả (anattā). Đây là ba đặc tính phổ quát của
tất cả mọi hiện tượng có điều kiện (mọi pháp hữu vi). Phật dạy chúng ta quán
sát và quán xét những chuyển động đó của tâm.
Điều
này giống như giáo lý về sự khởi sinh tùy thuộc, tức chuỗi nhân-duyên (paticca-samuppāda): sự trong đó, hiểu biết
ngu mờ (vô minh, avijjā) là nhân duyên làm khởi sinh những ý hành tạo tác tạo nghiệp
(hành, sankhāra); cái này lại là nhân duyên làm khởi sinh phần thức của một
chúng sinh (thức, viññāna); rồi thức này là nhân duyên làm
khởi sinh phần tâm trí và vật chất của chúng sinh đó (danh-sắc, nāma-rūpa), và vân vân..., như chúng ta đã học
trong kinh điển. Phật đã phân chia thành từng mỗi mắc xích của cái vòng nhân-duyên
để chúng ta dễ học hiểu. Đây là cách mô tả chính xác về thực tại, nhưng khi cái
tiến trình này diễn ra trong sự sống thực, các học giả hàn lâm không còn theo kịp
với những gì đang diễn ra. Giống như khi ta bị té xuống từ ngọn cây. Chúng ta
đâu còn biết có bao nhiêu nhánh cây chúng ta đã qua trên đường té xuống đất, vì
té quá nhanh. Tương tự vậy, khi tâm bất ngờ bị chạm bởi một nhận thức của tâm
(tưởng, tâm tưởng), nếu nó thấy thích thì nó bay bổng trong một trạng thái tốt.
Nó chỉ coi đó là tốt nhưng nó không hề biết đến một chuỗi những điều kiện tác động
đã xảy ra và gây ra nhận thức đó. Tiến trình nhân duyên đó diễn ra theo đúng
như đã được mô tả lý thuyết trong kinh sách, nhưng nó hoàn toàn vượt qua những
giới hạn của lý thuyết đó.
Chẳng
có gì để có thể chỉ ra: ''Đây là vô minh, Đây là cách hành tạo tác, và Đây là
phần thức''. Tiến trình không cho các học giả một cơ hội nào để đọc ra thứ tự
những phần hay mắc xích đang diễn ra. Mặc dù Phật đã phân tách và giải thích
trình tự diễn tiến của những khoảng-khắc tâm (sát-na) theo từng chi tiết vi nhỏ
nhất, nhưng đối với tôi tiến trình đó xảy ra chẳng khác nào như cú té cây. Sau
khi nghe cái bịch, làm gì ta có thể biết mình đã rớt bao nhiêu thước bao nhiêu
tấc từ ngọn cây. Cái chúng ta biết khi té xuống đất là cái bịch và đau!. Chỉ vậy
thôi.
Tâm
cũng như vậy. Khi nó té ngã vì thứ gì, ta chỉ ý thức biết được đó là khổ đau.
Những sự khổ, đau, buồn, rầu, sầu, não và tuyệt vọng có từ đâu? Nó không đến từ
lý thuyết trong kinh sách. Chúng ta chẳng bắt kịp chỗ nào và viết ra những chỗ
đã tạo ra sự khổ đau. Sự khổ đau của chúng ta không xảy ra tương ứng chính xác
theo lý thuyết, nhưng tiến trình thực xảy ra và trình tự trong lý thuyết chỉ giống
như hai kẻ đồng hành trên một con đường mà thôi. Vì vậy, sự học thuật học giả
là không thể nào theo kịp với thực tại. Vì lý do này nên Phật đã dạy chúng ta
phải tự mình tu dưỡng sự hiểu biết rõ ràng. Bất cứ sự gì khởi sinh, nó khởi
sinh xảy ra trong sự biết này. Rồi cái (người-) biết đó khi biết thì biết theo
đúng lẽ với sự thật, và như vậy thì cái tâm và những yếu tố liên hợp với nó (tức
tâm sở) không phải là cái ‘của ta’. Do vậy, cuối cùng thì tất cả những hiện tượng
đó sẽ bị dẹp bỏ và bỏ đi như rác rưởi vô giá trị. Chúng ta không cần phải dính
líu theo chúng, không cần phải coi chúng là ‘cái gì’. Buông bỏ, dẹp bỏ qua một
bên.
Lý
Thuyết và Thực Tại
Đức Phật không dạy về cái tâm và những yếu tố liên hợp của
tâm [tâm và tâm sở], do vậy chỉ có chúng ta bị dính vào những khái niệm đó. Ý dạy
duy nhất của Phật là muốn chúng ta nhận biết chúng là vô thường, khổ, và vô
ngã. Rồi buông bỏ chúng. Dẹp chúng qua một bên. Chỉ cần
ý thức
biết chúng khi chúng đang khởi sinh. Cái tâm này vốn đã bị tác dộng điều kiện,
vốn đã thành hữu vi rồi. Nó đã bị dẫn dắt và tác động nên đã bị lạc lối và bị mất
thắng (mất tự chủ) khỏi trạng thái tỉnh giác tinh khiết. Ngay khi nó trượt thắng,
nó tạo ra những hiện tượng có điều kiện (hữu vi) lại tiếp tục tác động lên cái
tâm, và sự phóng tâm cứ vậy mà diễn ra liên tục. Chính tiến trình nhân duyên
này liên tục khởi sinh ra những thứ tốt, xấu, thiện, ác và mọi sự khác như
chúng ta đã thấy. Phật dạy chúng ta phải giục bỏ tất cả, tức dẹp bỏ cái tiến
trình đó. Tuy nhiên, lúc đầu chúng ta phải làm quen với lý thuyết để sau này
chúng ta có khả năng giục bỏ nó ở giai đoạn sau. Đây là một tiến trình tự
nhiên. Tâm chỉ đơn giản đang diễn ra theo đường lối tự nhiên đó. Những yếu tố
tâm lý (tâm sở) cũng đang diễn ra theo cách tự nhiên đó.
Lấy ví dụ về Con đường Tám phần (Bát Thánh Đạo). Khi trí
tuệ (paññā) nhìn thấy mọi thứ mọi sự
một cách đúng đắn bằng sự minh sát, cái nhìn đúng đắn (chánh kiến) này sẽ dẫn đến
ý hành đúng đắn (chánh tư duy), lời nói đúng đắn (chánh ngữ), hành động đúng đắn
(chánh nghiệp), và chánh vân vân. Tất cả những điều này liên quan đến những điều
kiện tâm lý khởi sinh từ một sự tỉnh giác hiểu biết tinh khiết. Sự hiểu biết
này giống như cái đèn lồng treo bên lối đi trong đêm tối. Nếu cái đèn treo
đúng,
nếu sự hiểu biết là đúng đắn, thì nó sẽ tỏa sáng và chiếu sáng từng bậc từng bước
chỗ lối đi.
Bất
cứ thứ gì ta trải nghiệm, nó đều khởi sinh từ bên trong sự biết này. Nếu tâm
không có thì sự biết này cũng không có. Tất cả mọi sự ở đây chỉ là những hiện
tượng của tâm. Như Phật đã nói, tâm chỉ là tâm. Nó không phải là một ‘con người’,
một cái ‘ta’, là ‘mình’ hay là bản ‘ngã’ của mình; chẳng là một ‘ai’ cả. Chẳng
là cái ‘người’ này hay ‘người’ nọ nào cả. Giáo Pháp chỉ là Giáo Pháp. Nó là tự
nhiên, là tiến trình vô chủ thể, là vô ngã. Nó không phụ thuộc vào ‘ta’, ‘chúng
ta’ hay vào ‘ai’ cả. Nó chẳng là ‘cái gì’ cả. Bất cứ thứ gì một người trải nghiệm
thì đó chỉ là một trong năm uẩn (khandha):
thân (sắc), cảm giác (thọ), nhận thức (tưởng), ý nghĩ (hành) và tâm thức (thức).
Đức Phật dạy phải buông bỏ nó, buông bỏ trải nghiệm đó, buông bỏ mọi thứ thuộc
về năm uẩn này.
Thiền
giống như chiếc đũa. Trí tuệ minh sát (vipassanā)
là một đầu và sự tĩnh lặng hay thiền định (samatha)
là một đầu. Khi ta cầm chiếc đũa lên, một đầu này nhấc lên thì đầu kia cũng lên
theo, đúng không? Vậy đầu nào là thiền tuệ minh sát (vipassanā) và đầu nào là thiền định (samatha)? Đầu nào là đầu, đầu nào là cuối? Cả hai đều là tâm. Khi
tâm được bình an, đầu tiên sự bình an có được là nhờ sự tĩnh lặng của thiền định
(samatha). Ta tập trung và hợp nhất
tâm vào những trạng thái bình an của thiền, gọi là trạng thái định (samādhi). Tuy nhiên, nếu sự bình an và
tĩnh tạo của định phai biến dần, thì khổ sẽ khởi sinh trở lại ngay đó. Tại sao
vậy? Bởi sự bình an có được chỉ từ thiền định thì vẫn còn dựa trên sự dính chấp.
Và sự dính chấp này có thể là một nguyên nhân của khổ.
Cho
nên, sự tĩnh lặng hay định chưa phải là phần kết cục của con đường đạo. Đức Phật
đã nhìn thấy điều này từ chính sự trải nghiệm của mình rằng: sự bình an loại đó
là chưa rốt ráo, là chưa tột cùng. Những nguyên nhân nằm bên dưới tiến trình
sinh hữu (bhava) đã chưa được đưa đến
ngừng diệt (nirodha). Những điều kiện
[nhân duyên] gây ra tái sinh vẫn còn đó. Sự nghiệp tu hành tâm linh của người
tu lúc đó vẫn chưa đạt đến mức hoàn thiện. Tại sao? Tại vẫn còn khổ hoặc bóng
dáng khổ. Do vậy, từ cơ sở sự tĩnh lặng của thiền định đó, người tu cần phải
nên tiến lên quán xét, điều tra, và phân tích bản chất có điều kiện của thực tại
hữu vi cho đến khi nào người ấy không còn bất kỳ sự dính chấp nào nữa— ngay cả
sự dính chấp vào sự tĩnh lặng của thiền định cũng không còn. Sự tĩnh lặng hay định
vẫn còn là một phần của thế giới hữu vi có điều kiện và thực tại theo quy ước.
Dính chấp vào loại bình an này là sự dính chấp vào thực tại theo quy ước; và chừng
nào ta còn dính chấp vào đó, thì ta vẫn còn bị sa lầy trong vòng sinh tử. Sự
tham đắm vào sự bình an của thiền định vẫn còn dẫn dắt đi tiếp trong luân hồi
sinh tử. Thường khi sự bất an và động vọng của tâm lắng xuống, nó tạo ra sự
tĩnh lặng và bình an, thì người tu hay bị dính đắm vào loại bình an đó.
Do
vậy, Đức Phật đã xem xét những nguyên nhân và điều kiện còn gây ra sinh tử, khổ
đau. Trước khi giác ngộ, khi nào Phật vẫn chưa hoàn toàn xuyên thấu vấn đề và
hiểu biết sự thật thì Phật vẫn tiếp tục dò tìm sâu hơn và sâu hơn với một cái
tâm bình an và tĩnh lặng, suy xét quán chiếu về cách của tất cả mọi sự bình an
và bất an xảy ra. Sự điều tra suy xét của Phật cứ tiếp tục nỗ lực cho đến khi
mọi thứ
xuất hiện đều rất rõ ràng đối với Phật, rõ ràng và đúng toàn diện như một hòn sắt
được nun đỏ mọi mặt hoàn toàn. Năm tập hợp tạo nên cái ‘con người’ được gọi là
năm uẩn lúc này đã trở nên hoàn toàn rõ ràng, giống như hòn sắt đã hoàn toàn được
nung đỏ từ trong ra ngoài. Khi hòn sắt đã được nun đỏ hoàn toàn từ trong ra
ngoài, ta rờ đâu mà không bị cháy tay? Có chỗ nào còn ngụi lạnh không? Dù sờ
bên trên, bên dưới, bên phải, bên trái đều bị cháy tay. Có thấy còn chỗ nào ngụi
lạnh không? Không thể nào. Hòn sắt đã được nun đỏ hoàn toàn thì chỗ nào cũng giống
nhau. Giống như sự dính chấp nào cũng đều nguy hại như nhau, và do vậy chúng ta
cũng không nên dính chấp vào sự tĩnh lặng bình an do thiền định tạo ra. Nếu
chúng ta nhận lầm loại bình an đó, chúng ta cho rằng có ‘người’ được bình an và
tĩnh lặng, thì điều đó càng củng cố thêm cái quan niệm sai lầm về cái ’ta’ hay
một ‘linh hồn’ cố định nào đó nữa. Cái cảm nhận hay quan niệm về một cái ‘ta’
(ngã chấp) chỉ là một phần của thực tại do quy ước. Khi còn nghĩ "Ta bình an", "Ta bất an", "Ta tốt", "Ta xấu", "Ta hạnh
phúc", hay "Ta không hạnh
phúc"... thì ta càng dính kẹt sâu hơn trong sinh tử. Điều đó càng thêm khổ.
Khi yếu tố hạnh phúc (lạc) biến mất, chúng ta lại bất hạnh (khổ). Khi sầu não
biến mất, ta lại được hạnh phúc. Rồi khi hết hạnh phúc, ta lại khổ. Hết sướng
thì khổ, hết khổ thì sướng. Chúng ta cứ bị dính trong cái vòng lẩn quẩn bất tận,
chúng ta cứ luân hồi đảo tới đảo lui trong thiên đường và địa ngục.
Trước
khi giác ngộ, Phật đã nhận ra trong tâm mình về cái hình thái luân hồi này. Phật
biết rõ những điều kiện tạo ra sinh tử vẫn chưa ngừng diệt. Sự nghiệp tu hành vẫn
chưa
hoàn tất. Tập trung nhìn vào tính chất có điều kiện [hữu vi] của sự sống, Phật
đã quán xét đúng theo lẽ thực tự nhiên: ''Vì có nguyên nhân nên còn có sinh, vì
có sinh nên có tử và tất cả mọi thứ chuyển động, đến đi, sinh diệt''. Phật đã lấy
những chủ đề này để quán xét về sự thật của năm tập hợp uẩn cấu thành nên cái ‘con
người’. Tất cả mọi thứ thuộc thân và tâm, mọi thứ được nhận thức và tư duy, đều
là có điều kiện (tùy duyên), không ngoại trừ thứ gì. Khi Phật đã biết được lẽ
thực này, Phật đã dạy chúng ta phải buông bỏ tất cả. Khi Phật biết được sự thật
đó, Phật đã dạy chúng ta phải từ bỏ tất cả. Phật khích lệ mọi người hãy hiểu biết
theo đúng lẽ thực của sự thật. Nếu chúng ta không hiểu đúng theo lẽ thực tự
nhiên, chúng ta sẽ khổ. Chúng ta sẽ không thể buông bỏ những thứ thân tâm đó.
Tuy nhiên, khi chúng ta đã nhìn thấy lẽ thực của sự thật, chúng ta sẽ nhận ra
cách mọi thứ đã che mờ và dẫn lừa chúng ta như thế nào. Như Phật đã dạy: ''Tâm
không có thể chất gì hết, nó không là cái gì cả''.
Tâm
không phải là cái gì được sinh ra thuộc về ai hết. Nó không chết như cái ‘tâm của
ai’. Tâm này là tự do, sáng tỏ, tỏa sáng, và không bị dính bất cứ vấn đề hay thứ
gì hết. Lý do có vấn đề khó khổ khởi sinh là do tâm bị che mờ bởi mọi sự có điều
kiện, bởi những thứ hữu vi, bị che mờ bởi cái ý niệm sai lầm về cái ‘ta’. Do vậy
Phật dạy phải quan sát tâm này. Ngay từ nguyên sơ, có gì ở trong tâm? Ngay từ
nguyên thủy, thực sự không có gì trong tâm. Tâm không khởi sinh với những thứ
có điều kiện, và nó không chết vì những thứ đó. Khi tâm gặp thứ gì đó tốt, nó
không thay đổi để trở nên tốt. Khi tâm gặp thứ gì xấu, nó cũng không xấu theo.
Đó là lúc tâm có trí tuệ minh sát rõ ràng
để
nhìn thấu bản nhất của mọi thứ. Lúc đó có một sự hiểu biết rằng: về bản chất
tâm là những trạng thái không chất liệu nào trong đó.
Trí
tuệ của Đức Phật nhìn thấy tất cả mọi thứ đều là vô thường, bất toại nguyện (khổ)
và vô ngã. Phật muốn chúng ta nắm vững hoàn toàn theo cách này. Sự biết thì biết
theo đúng lẽ thực của sự thật. Khi nó biết sự sướng hay sự khổ, nó vẫn không động
vọng. Cảm xúc hay sự động vọng theo sự sướng là một dạng sinh. Khuynh hướng theo
buồn phiền là một dạng chết. Khi nào còn có chết là còn có sinh, và cái gì được
sinh ra rồi cũng chết. Có sinh có diệt, có diệt có sinh. Những thứ còn sinh và
diệt là còn dính trong vòng sinh thành liên tục bất tận. Khi tâm người thiền đi
đến trạng thái hiểu biết được lẽ thực trên, thì sẽ không còn nghi vấn gì về sự
trở thành và tái sinh tiếp diễn là có hay không. Người tu tự mình biết rõ là sẽ
có, và sẽ còn tiếp diễn mãi trong vòng sinh, trở thành, và chết. Không cần phải
hỏi ai khác về vấn đề này.
Đức
Phật đã điều tra về mọi mặt những hiện tượng hữu vi, và nhờ đó Phật có khả năng
buông bỏ tất cả chúng. Thân năm uẩn cũng buông bỏ luôn, và sự biết chỉ như một
người quan sát khách quan về cái tiến trình sinh diệt của sự sống đang diễn ra.
(Giống như người ngồi quan sát một trận banh một cách khác quan, không thiên vị
bên nào, không bên nào là của ta hay là gì của ta cả; trò chơi tiếp diễn ta biết
rõ hai bên lúc thắng lúc thua, lúc được lúc mất... ta mặc kệ và buông bỏ. Chỉ
ngồi quan sát những sự thắng thua có mất đó diễn ra mà thôi. Bên nào thua hay
ăn ta cũng không buồn hay vui gì cả. Ta bình tâm và buông bỏ, và chỉ ngồi quan
sát). Trở lại, là người tu khi trải
nghiệm
điều gì tích cực, ta không trở nên tích cực theo điều đó. Ta chỉ đơn thuần quan
sát và đơn thuần nhận biết điều đó. Khi trải nghiệm điều gì tiêu cực, ta cũng
không bị tiêu cực theo nó. Và tại sao như vậy? Bởi vì tâm người tu lúc này đã
được cắt lìa khỏi những nguyên nhân và điều kiện, nó không còn dính nhân duyên,
nó không còn tùy nhân duyên. Người tu đã nhìn xuyên thấu vào Sự Thật. Những điều
kiện dẫn đến tái sinh cũng không còn. Đây là một sự biết chắc chắn và đáng tin
cậy. Đây là một cái tâm thực sự đang bình an. Đây là cái không còn sinh, không
còn già, không còn bệnh, và không còn chết. Đây không còn nhân và quả, không
còn tùy thuộc vào nhân và quả. Đây không còn phụ thuộc vào tiến trình nhân
duyên mà khởi sinh. Tâm này bây giờ đã ở trên và vượt trên sinh/tử,
ở trên
và vượt trên sướng/khổ, ở trên và vượt trên thiện/ác. Bạn nói sao cho đúng? Nó
vượt trên những khả năng diễn tả của ngôn từ. Tất cả mọi điều kiện hỗ trợ đều
đã ngừng diệt và bất kỳ cố gắng nào để mô tả trạng thái tâm lúc này đều chỉ dẫn
đến sự dính chấp mà thôi. Ngôn từ mà dùng lúc này chỉ là sự lý thuyết của tâm
mà thôi.
Sự mô tả thuộc lý thuyết về cái tâm và sự hoạt đông của
tâm là chính xác, nhưng Đức Phật đã nhận ra rằng loại hiểu biết dựa trên diễn tả
lý thuyết chỉ là vô dụng, so với cái thực của nó. Chúng ta hiểu biết điều gì đó
một cách trí thức và rồi tin nó, nhưng nó không mang lợi ích thực thụ. Sự hiểu
biết trí thức không dẫn đến sự bình an của tâm. Sự biết của Phật xuất phát từ sự
từ bỏ, buông bỏ. Nó tạo kết quả là buông bỏ và từ bỏ. Bởi vì chính cái tâm này
luôn dẫn dắt chúng ta dính theo những điều đúng/sai, làm cho chúng ta luôn luôn
đối đãi. Nếu chúng ta khôn, chúng ta
dính
chấp theo những điều đúng. Nếu chúng ta ngu, chúng ta dính chấp theo những điều
sai. Cái tâm kiểu đó là thế gian, và Đức Phật lấy những thứ trong thế gian để
suy xét quán chiếu về chính thế gian. Rồi sau khi đã hiểu biết rõ về thế gian đúng như nó đích thực là, Phật trở thành
''Người hiểu biết thế gian một cách rõ ràng và bao trùm''.
Nói
về đề tài thiền định (samatha) và thiền
tuệ minh sát (vipassanā), điều quan
trọng là phải phát triển những trạng thái định và tuệ này trong tâm chúng ta.
Chỉ khi nào chúng ta tự mình tu tập những trạng thái đó thì ta mới tự mình biết
chúng thực sự là gì. Chúng ta có thể đi tìm học nghiên cứu kinh sách nói về những
yếu tố tâm lý của tâm (tâm sở), nhưng loại hiểu biết trí thức qua sách vở đó là
vô dụng, không thực sự có khả năng nhổ bỏ những gốc rễ ích kỷ tham, sân, si. Chúng
ta chỉ học biết lý thuyết về tham, sân, si; chỉ có thể mô tả những đặc tính
khác nhau của những ô nhiễm trong tâm. Đại khái như tham là vầy; sân là vậy; si
được định nghĩa là như vầy. Chúng ta chỉ mới biết những bản chất đó về mặt lý
thuyết, chúng ta chỉ có thể nói về chúng ở mức độ lý thuyết vậy thôi. Chúng ta biết
và chúng ta thông minh trí thức, nhưng khi những ô nhiễm đó thực sự khởi sinh
trong tâm, liệu chúng có khởi sinh như lý thuyết đã nói hay không? Ví dụ, khi
chúng ta trải nghiệm thứ gì khó chịu, chúng ta có phản ứng và dính vào một trạng
thái xấu (khó chịu) hay không? Ta có dính chấp nó không? Ta có thể buông bỏ nó
không? Nếu có sân khởi sinh và chúng ta nhận ra nó, chúng ta có dính theo nó
không? Hoặc khi ta đã nhìn thấy nó, ta có buông bỏ nó không? Nếu chúng ta biết
rằng: khi chúng ta nhìn thấy thứ gì ta không thích, ta khởi tâm sân ghét, vậy
thì chúng ta
phải
quay lại học và tu tập lại từ đầu. Bởi vì việc tu tập và sự phản ứng của chúng
ta vẫn chưa đúng đắn. Chúng ta vẫn còn khởi tâm dính theo sự xấu, sự tốt, sụ sướng,
sự khổ. Sự tu tập chưa được hoàn thiện. Khi việc tu đã đến mức hoàn thiện, sự
buông bỏ sẽ xảy ra. Hãy nhìn sự tu tập theo ánh sáng này.
Chúng
ta phải thực sự nhìn sâu vào trong tâm này nếu chúng ta muốn nếm được những kết quả của việc tu tập.
Việc cố gắng mô tả lý vận hành của tâm [tâm lý học của tâm] bằng những thuật ngữ
như là “những khoảng khắc tâm”, “những sát-na khác nhau của tâm trong dòng tâm
thức” và “những đặc tính của tâm như tâm sở”... là vẫn không thể theo kịp với
thực tế thực hành, theo ý kiến của tôi là vậy. Sự mô tả học thuật đó vẫn là
không đủ so với sự vận hành thực sự của nó. Về thực tế thì còn nhiều thứ hơn nữa.
Nếu chúng ta đi học những điều đó, rồi có thể hiểu biết về chúng một cách tuyệt
đối một cách rõ ràng và thấu suốt. Nhưng nếu không có sự sáng rõ của trí tuệ
minh sát, làm sao chúng ta học cho xong về những điều đó? Vậy là không thể nào
hiểu biết rõ ràng và thấu suốt. Không có kết cuộc. Không bao giờ xong. Chúng ta
sẽ không bao giờ kết thúc những việc học hay nghiên cứu đó.
Thực
hành theo Giáo Pháp là điều cực kỳ quan trọng. Khi tôi thực tập, đó là cách tôi
học. Hồi đó tôi đâu biết gì về những sát-na tâm hay tâm sở...là gì. Tôi chỉ
quan sát cái tính “biết”. Nếu một ý nghĩ ghét khởi sinh, tôi hỏi mình tại sao. Nếu
một ý nghĩ thương khởi sinh, tôi tự hỏi tại sao. Đó là cách. Dù đó nó được đặt
tên hay hay gọi bằng danh từ là “yếu tố tâm lý” hay “tâm sở”, thì cũng đâu có
gì? Chỉ cần thâm nhập vào ngay một điểm đó cho đến khi ta có
thể
giải quyết những cảm giác thương và ghét đó, cho đến khi chúng hoàn toàn biến mất
khỏi tâm ta. Khi tôi có khả năng ngừng thương ngừng ghét, tức không thương
không ghét gì nữa trong bất kỳ tình huống nào, thì lúc đó tôi có khả năng chuyển
hóa và vượt qua khổ. Rồi điều gì xảy đến cũng không thành vấn đề, tâm và trái
tim đã được giải tỏa và thư thái. Không còn gì nữa. Tất cả đã ngừng lại.
Cứ thực tập như vậy. Nếu người ta thích nói nhiều về lý
thuyết, đó là chuyện của họ. Nhưng dù có nói có bàn đến đâu đi nữa thì sự thực
hành cũng quay về một điểm này ngay đây, ngay sự-biết này. Khi có gì khởi sinh,
nó khởi sinh ngay đây. Dù nhiều hay ít, nó khởi sinh ngay đây. Khi nó ngừng, nó
cũng ngừng ngay đây. Chứ còn ở đâu khác? Đức Phật gọi điểm này là “Sự Biết”.
Khi sự-biết biết đường lối của mọi thứ một cách chính xác, theo đúng lẽ thực của
sự thật, thì chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của cái tâm. Mọi thứ không ngừng giả
lừa. Ngay trong khi bạn nghiên cứu về chúng, chúng cũng đồng thời giả lừa bạn.
Tôi phải nói cách khác ra sao? Là ngay cả khi bạn biết về chúng, rõ ràng bạn vẫn
bị chúng che mờ ngay tại nơi bạn biết chúng. Tình cảnh thực sự như vậy. Vấn đề
là vầy: theo
ý kiến của
tôi, Phật đã không muốn chúng ta chỉ biết những thứ đó được gọi là gì. Giáo lý
của Phật có mục tiêu là chỉ ra cách thức để chúng ta giải thoát mình khỏi những
thứ hữu vi giả lừa đó thông qua việc điều tra tìm thấy những nguyên nhân tìm ẩn
bên dưới những thứ đó.
Giới,
Định, Tuệ
Lúc
xưa tôi tu tập Giáo Pháp mà không biết gì nhiều. Tôi chỉ biết rằng con đường giải
thoát bắt đầu bằng Giới
Hạnh
(sīla).2 Giới hạnh là sự bắt đầu đẹp đẽ của
con đường Đạo. Sự bình an sâu lắng của trạng thái định (samādhi) là khúc giữa đẹp đẽ. Và trí tuệ (paññā) khúc cuối đẹp đẽ. Cho dù chúng có thể được phân chia thành
những mảng tu tập khác nhau, nhưng khi chúng ta nhìn sâu hơn vào bên trong
chúng, chúng ta thấy ba phẩm chất này hội tụ với nhau thành một. Để duy trì giới
hạnh, bạn phải có trí biết, trí tuệ. Chúng ta thường khuyên dạy nhau phải tu dưỡng
những chuẩn mực đạo đức trước, bằng cách tuân giữ năm giới hạnh căn bản để đức
hạnh của chúng ta được chắc vững. Tuy nhiên, việc hoàn thiện đức hạnh cần phải
có nhiều trí tuệ hiểu biết. Chúng ta phải biết xem xét những lời nói và hành động
của chúng ta, và biết phân tích những hậu quả của chúng. Tất cả đó là công việc
của trí tuệ hiểu biết. Thực vậy, chúng phải dựa vào sự hiểu biết trí tuệ của
chúng ta để tu dưỡng phần giới hạnh.
Theo lý thuyết, giới hạnh có trước, rồi mới có định tâm, rồi
có trí tuệ; thứ tự là giới, định, tuệ. Nhưng khi suy xét kỹ về chỗ này, tôi thấy
phần trí tuệ hiểu biết mới là viên đá nền móng cho tất cả mọi phần tu tập khác.
Để hoàn toàn hiểu biết về những hậu quả của những điều ta nói và làm—đặc biệt
là những hậu quả xấu— thì chúng ta cần phải dùng trí tuệ hiểu biết để dẫn dắt
và giám sát, để suy xét kỹ sự vận hành của luật nhân quả. Cách làm đó sẽ thanh
lọc những hành động và lời nói của chúng ta. Khi chúng ta đã quen biết rõ về những
hành vi nào là đạo đức
2 [Sila: Giới Hạnh có nghĩa rộng bao hàm cả
những việc như: sống lối sống có đạo đức, tuân theo những giới luật, và cư xử
theo tư cách có giới hạnh là không làm hại người và hại mình. Trong ngữ cảnh
này, sila cũng có thể dịch là Đức Hạnh.]
và
hành vi nào là vô đạo đức, thì chúng ta nhìn ra chỗ để tu tập tu sửa. Từ đó
chúng ta dẹp bỏ những điều xấu và tu dưỡng những điều tốt. Chúng ta dẹp bỏ những
điều sai và tu dưỡng những điều đúng đắn. Đó là giới-hạnh. Khi chúng ta tu dưỡng
như vậy, tâm sẽ dần dần trở nên vững chắc và ổn định. Một cái tâm vững chắc và
không lay động là không còn bất an, lo sợ, mặc cảm, hối hận và ngu mờ về những
hành động và lời nói của mình. Ngay chỗ này là sự ổn định của tâm, đây là sự định-tâm
(samādhi).
Sự
hợp nhất ổn định của tâm tạo nên một nguồn năng lượng thứ hai và mạnh mẽ hơn
trong việc tu của chúng ta, giúp ta có thể quán xét sâu sắc hơn về những thứ
bên ngoài như cảnh sắc, âm thanh... mà ta trải nghiệm. Khi tâm đã được thiết lập
với một sự chú tâm chánh niệm và sự bình an vững chắc và không lay chuyển, thì
chúng ta có thể tham dự vào việc điều tra liên tục để tìm hiểu thực tại của sắc
thân, cảm giác, nhận thức, ý nghĩ, tâm thức; các hình sắc, âm thanh, mùi hương,
mùi vị, những cảm nhận thân và những đối tượng của tâm. Khi chúng liên tục khởi
sinh, chúng ta liên tục điều tra với một sự kiên định nhất quán không để mất đi
sự chánh niệm của mình. Rồi sau đó chúng ta sẽ biết được những thứ đó đích thực
là gì. Chúng chỉ xuất hiện theo đường lối tự nhiên của chúng. Đó là lẽ tự nhiên
đến đi, sinh diệt của chúng. Khi sự hiểu biết này của chúng ta tăng lên, trí tuệ
được sinh ra. Một khi đã có sự hiểu biết rõ ràng (sự rõ biết) về đường lối diễn
ra của mọi thứ, đúng như chúng đích thực là, thì những nhận thức (tưởng) của
chúng ta từ trước giờ sẽ được bứng bỏ và sự hiểu biết trí thức theo khái niệm
trước giờ sẽ biến
chuyển
thành trí tuệ đúng đắn. Đó là nói chung về cách giới, định, tuệ hợp nhất lại và
hoạt động như một.
Khi trí tuệ gia tăng và mạnh mẽ hơn thì sự định tâm cũng
trở nên mạnh chắc hơn theo. Khi định càng vững chắc và khó lay chuyển thì giới
hạnh cũng bao trùm hơn và khó lay chuyển. Khi giới hạnh được hoàn thiện, nó
dung dưỡng sự định tâm, và khi định gia tăng nó làm tăng độ chín chắn của trí
tuệ. Ba mảng tu tập này đan quyện vào nhau. Khi hợp nhất vào nhau, ba phần này
tạo thành Bát Thánh Đạo, con đường của Đức Phật. Khi giới, định, tuệ đạt đến đỉnh
cao, con đường Đạo này có sức mạnh tẩy sạch mọi thứ đã làm ô uế và ô nhiễm sự
tinh khiết nguyên sơ của cái tâm.3 Khi tham muốn nhục dục khởi lên, khi sân giận và si mê có
mặt, con đường Đạo này có năng lực cắt bỏ chúng đến tận gốc rễ.
Khuôn khổ của sự tu là Bốn Chân Lý [Tứ Diệu Đế] mà Đức Phật
đã tìm ra, đó là: (i) Có sự khổ ở khắp nơi (dukkha),
(ii) có nguyên nhân của khổ (samudaya),
(iii) có sự chấm dứt khổ (nirodha),
và (iv) có con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ (magga). Con đường Đạo này gồm ba phần là giới, định, tuệ; đó là
khuôn khổ để tu tập cái tâm. Ý nghĩa đích thực của những danh từ đó không thể
tìm thấy
ở chỗ
ngôn từ, mà nó được tìm thấy ở sâu trong tâm này, nhờ vào sự tu tập thực sự. Đó
là giới, định, tuệ. Ba phần đó quay tròn liên tục. Bát Thánh Đạo bao trùm mọi
hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, cảm nhận của thân hoặc đối
3 [Không
thừa khi nhắc lại, những ô nhiễm (kilesa)
là những tính chất làm ô nhiễm, làm ô uế, hay gây độc hại cho cái tâm. Đó là những
tính tham, sân, si, và bất kỳ trạng thái bất thiện nào của tâm từ tham, sân, si
mà ra.]
tượng
của tâm. Khuôn khổ để tu hành theo Giáo Pháp chính là Tứ Diệu Đế: xoay quanh sự
khổ. Tuy nhiên, nếu các phần của Bát
Thánh Đạo vẫn còn yếu và song sênh, thì những ô nhiễm vẫn chiếm lĩnh trong tâm
chúng ta. Nếu Bát Thánh Đạo được mạnh mẽ và dũng mãnh, nó sẽ chinh phục và tiêu
diệt những ô nhiễm. Nếu những ô nhiễm quá mạnh và quá cương trong khi Đạo còn yếu
sức và non nớt, thì lúc đó những ô nhiễm sẽ còn khuất phục Đạo. Lúc đó những ô
nhiễm vẫn còn chinh phục cái tâm. Nếu sự biết còn chưa được nhanh và nhạy bén
vào lúc các hình sắc, cảm giác, nhận thức, và ý nghĩ được trải nghiệm, thì những
thứ [sắc, thọ, tưởng, hành] đó sẽ chiếm lĩnh tâm và phá hoại chúng ta. Con đường
Đạo và những ô nhiễm diễn tiến theo kiểu như vậy. Khi sự tu tập trong tâm tiến
triển, hai thế lực đó phải chiến đấu nhau để dành nhau từng bước tiến. Giống
như có hai kẻ chiến đấu tranh cãi nhau bên trong tâm, phần ô nhiễm và phần Đạo
đang chiến đấu với nhau để dành lấy thế chiếm lĩnh ở trong tâm. Đạo hướng dẫn
và củng cố năng lực quán xét. Khi nào chúng ta có năng lực quán xét một cách
chính xác, thì khi đó những
ô nhiễm
sẽ không còn đất sống. Nhưng nếu chúng ta còn non nớt, thì khi nào những ô nhiễm
tụ tập lại và lấy lại sức mạnh của chúng, con đường Đạo phải thối lui nhường
lĩnh địa cho chúng. Cả hai phe sẽ liên tục và liên tục chiến đấu... cho đến khi
nào có kẻ chiến thắng hoàn toàn và cuộc chiến đấu đã được giải quyết xong.
Nếu chúng ta nỗ lực tu tập phát triển theo Giáo Pháp thì
những ô nhiễm sẽ dần dần và chắc chắn bị bứng nhổ tận gốc. Khi Tứ Diệu Đế đã được
tu tập hoàn toàn, nó sẽ cư ngụ luôn trong tâm chúng ta. Khi nào có khổ khởi
sinh
thì chắc
chắc là có nguyên nhân của nó. Khổ có nguyên nhân của nó chứ không phải từ
không đâu mà có. Đó là Diệu Đế thứ hai của Phật. Nhưng nguyên nhân là gì? Đó là
do giới hạnh còn yếu. Định lực còn yếu. Trí tuệ còn yếu. Khi Đạo còn yếu không
trụ được, thì những ô nhiễm chiếm lĩnh trong tâm này. Khi chúng chiếm lĩnh, Diệu
Đế thứ hai tham dự cuộc chơi trong đó, và nó gây khởi sinh ra đủ loại khổ đau.
Khi chúng ta đang bị khổ, thì những phẩm chất giúp giảm khổ cũng biến đâu mất.
Những điều kiện (duyên) giúp khởi sinh con đường Đạo là giới, định, tuệ. Khi những
phần này đạt được sức mạnh đầy đủ, thì con đường Đạo mới tiến tới và tiến mạnh
và không thể ngăn được, sẽ không ngừng tấn tới để vượt qua sự dính chấp và ràng
buộc đã gây ra cho chúng ta quá nhiều khổ thân và khổ tâm. Khổ sẽ không thể khởi
sinh nữa, bởi Đạo đang tiêu diệt những ô nhiễm. Tại điểm này sự chấm dứt khổ diễn
ra, ngay tại đây Diệu Đế thứ ba hiển hiện. Tại sao con đường Đạo có thể dẫn đến
sự chấm dứt khổ?. Là bởi do giới, định, và tuệ đang đạt đến đỉnh hoàn thiện của
chúng, và Đạo đã gom tụ chúng thành một cái đà mạnh mẽ và không thể nào ngăn chận
được. Tất cả đều hội tụ về ngay đây. Tôi có thể nói rằng, nếu ai tu tập theo
cách này thì những ý tưởng lý thuyết về cái tâm sẽ không thể hiện đúng như
trong bức tranh hiện thực này. Nếu tâm được giải thoát khỏi những thứ (ô nhiễm)
đó, thì nó chắc chắn là chỗ chắc chắn và đáng nương tựa. Từ giờ trở đi, dù tâm
có tự chọn con đường nào của nó, chúng ta không còn cần phải uốn nắn hay dẫn đường
thì nó mới đi thẳng được. Từ giờ tự nó đi sao cũng thẳng; nó đang thẳng tiến về
mục tiêu cuối cùng.
Giờ
tôi nói theo ví dụ thực. Hãy nhìn những lá trên cây xoài. Chúng trông ra sao?
Chỉ cần chúng ta xem xét một lá xoài thì chúng ta có thể biết những lá xoài
khác là ra sao. Chỉ cần biết một lá thì ta cũng biết hàng ngàn lá xoài khác
cũng như nhau. Chúng như nhau. Thân cây xoài cũng vậy, chúng ta chỉ cần xem xét
một thân xây xoài thì có thể suy ra những thân cây xoài khác, vì chúng đều là
xoài mà. Đâu khác nhau. Một ngàn cây xoài khác cũng có tính chất tương tự như
nhau. Đó là cách quy nạp suy ra mà Phật đã dạy.
Giới,
định, tuệ tạo nên con đường Đạo của Phật. Nhưng con đường không phải là cốt lõi
của Giáo Pháp. Bản thân con đường không phải là kết cục, không phải là mục tiêu
cuối cùng rốt ráo của Phật. Nhưng đó là con đường dẫn dắt đi vào trong tâm, con
đường hướng nội. Cũng giống như cách các thầy đã đi từ Bangkok đến chùa Wat
Nong Pah Pong này. Đó không phải là con đường mà các thầy nhắm tới. Cái mục
tiêu các thầy nhắm tới là cái chùa này, nhưng các thầy cần con đường đó để đi tới
đích đây. Bản thân con đường các thầy đã đi không phải là cái chùa này. Đó chỉ
là con đường dẫn đến cái chùa này. Nhưng nếu ai muốn đi đến cái chùa này, người
đó cần phải đi theo con đường đó. Cũng giống như giới, định, và tuệ. Chúng ta
có thể nói đó không phải là bản thể cốt lõi của Giáo Pháp, nhưng đó là con đường
để đi đến Giáo Pháp. Khi giới, định, tuệ đã được nắm vững, kết quả sẽ là một sự
bình an sâu lắng của tâm. Đó là mới là đích đến. Một khi chúng ta đã đạt đến sự
bình an này, thì ngay cả khi chúng ta nghe thấy tiếng ồn hay bất cứ thứ gì, tâm
vẫn bình tâm, không hề nao núng hay động vọng. Một khi
chúng
ta đạt đến sự bình an này, thì không còn gì phải làm nữa. Phật đã dạy buông bỏ
tất tất cả mọi thứ. Bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta không còn lo âu hay quan trọng
nó nữa. Rồi thì, chúng ta tự mình thấy biết một cách thực thụ và không còn chút
nghi ngờ. Chúng ta không còn tin một chiều theo những gì người khác nói.
Nguyên
lý cốt lõi của Phật giáo là sự trống không [tánh không] của mọi hiện tượng. Phật
giáo không dựa trên những sự biểu trưng thần kỳ của những năng lực thần thông,
những năng lực siêu thường, hay bất kỳ thứ gì bí ẩn lạ thường nào. Phật không
nhấn mạnh sự quan trọng của những thứ đó. Tuy vậy, những loại năng lực đó là có
thực và có thể luyện tập được, nhưng khía cạnh này chỉ làm ngu mờ tính khoa học
và ý nghĩa tuyệt luân của Giáo Pháp; do vậy Đức Phật đã không khuyến khích hay ủng
hộ việc phát triển những loại năng lực thần thông đó. Phật chỉ khen ngợi những
người biết tu tập để có năng lực giải thoát bản thân mình khỏi sự khổ.
Để
làm được việc đó đòi hỏi phải tu tập; và công cụ và trang bị để làm được công
việc đó chính là lòng rộng lượng (hạnh bố thí), giới, định, và tuệ. Chúng ta phải
nhận lấy các phần đó và tu tập chúng. Khi cùng được tu với nhau, chúng tạo
thành con đường Đạo thiên hướng vào bên trong nội tâm, và trong các phần tu đó
thì trí tuệ là đi đầu. Con đường Đạo này không thể chín muồi được nếu tâm vẫn
còn bị bao bọc cứng chắc bởi những lớp ô nhiễm; nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm và
mạnh mẽ, con đường Đạo sẽ xóa sổ những lớp ô nhiễm ô uế đó. Tuy nhiên, nếu những
ô nhiễm đó đậm đặc và mạnh bạo thì nó sẽ tiêu diệt con đường Đạo. Lý hai chiều
đối kháng là vậy. Việc tu tập
Giáo
Pháp đơn giản liên quan đến việc hai thế lực này chiến đấu với nhau cho đến khi
Đạo chiến thắng, và người tu đi đến kết cục của con đường. Hai thế lực đó tham
gia vào cuộc liên tục và không ngừng cho đến tận lúc kết cục.
Những
Nguy Hại của Sự Dính Chấp
Dùng những công cụ tu tập để phân xếp những khó khăn và những
thử thách quan trọng. Chúng ta dựa vào sự kiên nhẫn, sự chịu khó và sự hy sinh
để tu. Chúng ta phải tự mình làm cái việc tu tập, tự mình trải nghiệm, tự mình
chứng ngộ cho mình. Những người học thuật học giả thì thường bị rối trí và ngu
mờ. Ví dụ, khi họ ngồi thiền, ngay khi họ trải nghiệm một chút sự tĩnh lặng thì
họ liền nghĩ ''À, đây chắc là tầng thiền định thứ nhất''4. Tâm
họ làm việc kiểu vậy đó. (Họ luôn bị ‘nhớ bài’, bị dính những ý nghĩ về lý thuyết
cứ hiện lên làm xáo trộn cái tính tự nhiên của thiền). Và khi ý nghĩ đó vừa khởi
sinh, sự tĩnh lặng đó cũng biến mất. Rồi ngồi thiền được chút tĩnh lặng khác, họ
nghĩ họ chứng đắc tầng thiền định thứ hai luôn. Tu thiền mà cứ nghĩ và phỏng
đoán như vậy là không phải. Chẳng có cái bảng chỉ dẫn nào tuyên bố là ta đang đạt
mức định sâu nào hay tầng thiền định nào. Thực tại của thiền là hoàn toàn khác.
Trong thiền, không có bất kỳ bảng hiệu nào trên đường đi chỉ dẫn rằng “Đường
này đi vào chùa Wat Nong Pah Pong'' cả. Đó không phải cách tôi đã từng biết về
tâm. Tâm không tuyên bố hay chỉ dẫn như vậy.
Mặc dù nhiều học giả uyên bác đã viết mô tả về các tầng nhất
thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền... nhưng
4 Nhất
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền... những tầng định tâm thâm sâu.
những điều
đã viết chỉ là những thông tin bề ngoài. Nếu tâm thực sự nhập vào những trạng
thái tĩnh lặng thâm sâu đó [tầng thiền định], thì nó đâu biết gì về những điều
như đã được mô tả. Nó biết, nhưng cái nó biết không phải như lý thuyết mà chúng
ta đã học. Nếu những học giả đó cố gắn kết lý thuyết và lôi lý thuyểt vào trong
sự thiền, thì họ sẽ rối trí; khi họ ngồi thiền họ cứ luôn tự hỏi: ''Hừmm, gì
đây? Có phải đây là nhất thiền không?''. Vậy đó! Sự tĩnh lặng cũng bị tan mất ngay,
và họ chẳng trải nghiệm được thứ gì thực sự có giá trị. Và tại sao vậy?. Bởi vì
còn có tham muốn, và khi vẫn còn dục vọng thì điều gì xảy ra? Tâm sẽ lập tức
rút ra khỏi thiền. Chính vì lẽ này tất cả chúng ta phải nên dẹp bỏ mọi ý nghĩ
và phỏng đoán trong khi ngồi thiền. Dẹp bỏ chúng hoàn toàn. Chỉ cần lấy thân, lời
nói và hành động (làm chỗ quán xét, tu tập), và lặn sâu hết mình vào việc tu tập.
Quan sát sự vận hành của cái tâm, nhưng đừng lôi kinh sách vào đó với bạn. Nếu
thiền mà còn lôi theo kinh sách bên mình thì mọi sự sẽ trở thành một đống rối
beng, bởi vì chẳng có gì trong sách vở là tương ứng một cách chính xác với mọi
thứ thực sự diễn ra trong thiền.
Những
người học nhiều có đầy những kiến thức về lý thuyết thường không mấy thành công
trong tu tập. Họ bị dính ngang mức độ thông tin. Điều sự thật là trái tim và
tâm không thể được do lường bằng những tiêu chuẩn bên ngoài. Nếu tâm đang được
bình an, cứ để cho nó bình an. Những mức độ thâm sâu của sự bình an (như tầng
thiền định) là có thực. Về cá nhân tôi, tôi không biết nhiều về lý thuyết tu tập.
Khi tôi đã trở thành Tỳ kheo đã ba năm, lúc đó tôi vẫn chưa biết trạng thái định
tâm (samādhi) thực sự
là gì.
Tôi cứ luôn nghĩ suy về nó và cố hình dung về nó khi đang thiền tập, nhưng lúc
đó tâm tôi càng thêm bất an và xao lãng hơn trước đó! Số lượng nghĩ suy càng
lúc nhiều thêm. Khi không thiền tập tôi thấy bình an hơn. Tội nghiệp tôi, sao
khó thiệt, cứ bực bội quay quất! Nhưng mặc dù gặp nhiều trở ngại như vậy, tôi vẫn
không nản chí bỏ cuộc. Tôi cứ tiếp tục tu. Khi nào tôi không cố gắng làm điều
gì thì tâm tương đối được bình an. Nhưng hễ khi nào tôi cố làm cho cái tâm hợp
nhất đạt định, thì tâm bị động vọng không còn kiểm soát được. ''Chuyện gì đang
xảy ra ở đây, tại sao lại xảy ra như vậy'', tôi cứ tự hỏi.
Sau
này tôi mới nhận ra việc thiền có thể ví như tiến trình thở vậy. Nếu chúng ta cố
o ép hơi thở ngắn, dài, sâu hay cạn, thì điều đó rất khó làm được. Tuy nhiên nếu
chúng ta cứ đi thả bộ và thậm chí không để ý mình đang thở, thì lúc đó tâm cực
kỳ thư thái. Do đó, tôi suy ra rằng: ''À, có thể đó là cách tâm vận hành!''.
Khi một người đi thả bộ không để ý đến hơi thở thì hơi thở đâu có làm người ấy
khổ, đúng không? Đúng vậy, lúc đó chỉ cảm thấy thư giãn. Nhưng khi tôi ngồi suốt
và quyết tâm thệ nguyện sẽ thiền cho được tâm an, thì ngay đó đã tạo sự dính chấp
và ràng buộc một cách miễn cưỡng. (Sự dính chấp ràng buộc là ngược lại với thiền,
bởi thiền là là sự buông bỏ). Khi tôi cố kiểm soát hơi thở cạn hay sâu, thì nó
chỉ càng thêm áp lực hơn trước đó. Tại sao? Bởi vì năng lực ý chí tôi đang dùng
đã bị ô nhiễm bởi sự dính chấp và ràng buộc. Tôi không biết điều gì đang diễn ra. Mọi sự thất vọng,
bực bội và khó khăn đó đang có mặt bởi tôi đang mang dục vọng vào sự thiền.
Sự
Bình An Không Lay Chuyển
Tôi
từng ở trong một cái chùa trong rừng, cách làng xóm khoảng nửa dặm. Một tối nọ
dân làng tổ chức ăn uống tiệc tùng rất ồn ào, lúc đó tôi đang đi thiền. Chắc
cũng đã hơn 11 giờ tối. Từ buổi trưa ngày hôm đó trong tôi cảm giác rất lạ thường.
Tâm tôi rất tĩnh lặng. Hầu như chẳng có nghĩ suy nào. Tôi cảm thấy rất thư thái
và bình thản. Tôi đi thiền cho đến khi thấy mệt, nên tôi quay lại ngồi trong
cái lều mái rơm của tôi. Khi tôi ngồi xuống, tôi chưa kịp tréo hai chân thì lạ
thay, cái tâm tôi cứ muốn chìm sâu vào một trạng thái bình an rất sâu. Tự nó xảy
đến như vậy. Ngay sau khi tôi ngồi xuống, tâm thực sự thật bình an. Nó vững chắc
như đá. Như thể tôi không còn nghe tiếng tiếng ca hát ồn ào của đám tiệc bên
làng—thực tế thì tôi vẫn có thể nghe—nhưng tôi vẫn có thể dẹp bỏ hết mọi tiếng ồn
ra khỏi mình.
Lạ
thay. Khi tôi không hề chú ý đến tiếng ồn thì tâm tĩnh lặng hoàn hảo—không còn
nghe tiếng gì nữa. Nhưng nếu tôi muốn nghe, tôi vẫn có thể nghe mà không hề bị
tiếng ồn quấy nhiễu. Lúc đó giống như có hai đối tượng trong tâm được đặt cạnh
nhau, nhưng hai thứ đó không đụng chạm nhau. Tôi có thể nhìn thấy cái tâm và đối
tượng mà nó tỉnh giác là hai thứ khác nhau và riêng biệt, cũng giống như cái
bình nước và cái ly ở đây vậy. Rồi tôi hiểu ra rằng: khi tâm hợp nhất trong trạng thái định (samādhi), nếu ta hướng sự chú tâm ra bên ngoài, ta có
thể nghe; nhưng nếu ta lặn sâu vào sự trống không (tánh không) của nó, thì nó sẽ
im lặng một cách hoàn hảo. Khi tiếng
ồn được nhận biết, tôi có thể thấy rằng
sự biết và tiếng ồn là hai thứ riêng biệt khác nhau. Tôi quán niệm rằng: ''Nếu
đây không phải là cách của tâm, vậy thì cách nào khác?''. Đó là cách nó diễn
ra.
Sự biết và tiếng ồn là hai thứ riêng biệt khác nhau. Tôi cứ tiếp tục điều tra
theo cách như vậy cho đến khi sự hiểu biết của tôi càng sâu hơn nữa: ''À chỗ
này mới quan trọng. Khi sự liên tục nhận biết các hiện tượng bị cắt đứt, thì kết
quả là sự bình an''. Sự ảo tưởng trước giờ về tính liên tục (santati) đã được chuyển hóa thành sự
bình an của tâm (santi). Do vậy, tôi
tiếp tục ngồi, nỗ lực thiền tập. Tâm lúc đó chỉ còn tập trung duy nhất vào sự
thiền, bỏ mặc tất cả mọi sự mọi thứ khác. Tôi đã ngừng thiền ngay tại điểm này,
chỉ một lý do là sự thiền tập đã xong. Tôi ngừng thiền
ở đây dễ
dàng, nhưng không phải do lười biếng, do mệt mỏi, hay do thấy chán. Hoàn toàn
không phải. Những thứ đó đã đâu còn trong tâm. Đó chỉ là do đã đạt đến một cân
bằng và bình tâm hoàn hảo ở bên trong tâm – chỉ cần đến đó là hoàn mãn.
Cuối cùng tôi cũng thả thân nghỉ ngơi, nhưng đó chỉ như là
sự chuyển đổi tư thế mà thôi. Còn tâm của tôi thì vẫn ổn định, cân bằng, không
lay chuyển và không một chút lay động. Tôi kê gối định nằm nghỉ. Ngay khi tôi nằm
xuống, tâm lập tức trở nên bình an và bình tâm như khi ngồi thiền lúc nảy. Rồi,
ngay khi đầu tôi sắp chạm xuống gối, sự tỉnh giác của tâm bắt đầu chảy hướng
vào bên trong, tôi không biết nó chảy vào đâu, nhưng nó cứ liên tục hướng chảy
sâu hơn và sâu hơn vào bên trong. Giống như một nguồn điện đang chạy theo dây
diện vào cái công tắc. Khi dòng điện trào đến công tắc điện, thân tôi bùng nổ một
tiếng vang làm điếc tai. Sự biết trong lúc đó là cực kỳ sáng rõ và tinh tế. Khi
đã vượt qua điểm đó, tâm được giải thoát để tiến sâu vào bên trong. Nó tiến sâu
vào bên trong đến một điểm nó không còn là gì nữa. Tuyệt đối không có
bất
cứ thứ gì từ thế giới bên ngoài có thể tiến sâu vào điểm đó. Không thể có bất cứ
thứ gì có thể thâm nhập đến điểm đó. Sau khi an trú bên trong đó trong một
quãng thời gian, tâm rút lui và thoát ra khỏi đó. Tuy nhiên khi tôi nói tâm rút
lui thì tôi không nói nghĩa là tôi đã làm nó rút lui hay thoát ra. Tôi chỉ đơn
giản là một người quan sát, chỉ ngồi biết và chứng kiến. Tâm từ từ bước ra khỏi
trạng thái cho đến khi nó quay về trạng thái bình thường.
Khi trạng thái đời thường của tâm đã trở lại, câu hỏi phát
sinh là: ''Đó là gì vậy?!''. Câu trả lời đến ngay thức thì: ''Những trạng thái
đó xảy ra từ trong sự hài hòa của chúng. Ta không cần phải đi tìm lời lý giải''.
Câu trả lời này đủ dư làm thỏa mãn cái tâm của tôi.5
Sau một lúc, tâm tôi lại tiếp tục chảy hướng vào trong.
Tôi chẳng làm gì cố ý để điều khiển cái tâm theo hướng nào hết. Nó tự như vậy.
Khi nó chuyển sâu hơn và sâu hơn vào bên trong, nó lại chạm đến điểm đó, như
dòng điện trào tới công tắc điện vậy. Lần này thì thân tôi như tan ra thành từ
mảnh nhỏ và từng phân tử siêu nhỏ nhất. Tiếp tục tâm được giải thoát để thâm nhập
sâu vào bên trong chính nó. Sự im lặng tột cùng. Sự im lặng này thậm chí thâm
sâu hơn lần đầu. Tuyệt đối không có thứ gì bên ngoài có thể vào sâu đến đó. Tâm
lại an trú vào đó trong một quãng thời gian, tùy theo ý định trước đó của người
thiền, và sau đó nó lại rút lui và thoát ra. Lúc đó, tâm chỉ đơn thuần chảy
theo cái đà của chính nó và tất cả là tự nó diễn ra. Tôi không hề tác động hay
điều khiển cái tâm thoe hươngs nào hết, tâm chảy vào bên trong (định)
5 Có
lẽ thiền sư đang tả thực về trạng thái định mà giáo lý gọi là Nhất thiền.
hay
thoát ra bên ngoài là hoàn toàn tự nó xảy ra theo đường lối tự nhiên của nó.
Tôi chỉ đơn thuần là người đang biết và đang quan sát.6
Rồi tâm tôi quay trở lại với trạng thái tâm thức đời thường
của nó, và giờ tôi chẳng còn thắc mắc hay phỏng đoán về điều gì vừa mới xảy ra.
Khi tôi tiếp tục thiền, tâm lại tự động hướng vào bên trong. Lần này thì dường
như tất cả vũ trụ đều tan ra thành những phân tử siêu siêu nhỏ. Trái đất, mặt đất,
núi non, đồng ruộng và rừng ngàn—cả thế giới—đều tan rã thành không gian. Mọi
người biến mất. Mọi thứ biến mất. Đến lần thứ ba này thì tuyệt đối không còn lại
gì hết.7
Cái tâm, sau khi đã hướng sâu vào bên trong (nhập định),
nó an trú ở đó trong quãng thời gian như đã định trước. Tôi có thể nói tôi
không hiểu chính xác tại sao tâm vẫn an trú ở đó. Rất khó mà tả thực lại điều
gì đã xảy ra. Bởi không có gì có thể so sánh với điều đó, nên không thể dùng nó
hay ngôn từ để tả thực về trạng thái đã xảy ra. Không có ví dụ so sánh nào là
chính xác hết. Lần này tâm cũng an trú bên trong đó lâu hơn những lần trước đó,
và sau một quãng thời gian lâu tâm mới thoát ra khỏi trạng thái định sâu đó.
Khi tôi nói tâm thoát ra, tôi không nói nghĩa tôi làm nó thoát ra hoặc tôi có
điều khiển điều đó xảy ra. Tâm tự mình làm lấy. Tôi chỉ đơn giản là một người
quan sát. Cuối cùng tâm cũng quay trở lại trạng thái tâm thức đời thường của nó
(sau khi thoát ra khỏi định). Làm sao chúng ta có thể đặt tên cho ba lần xảy ra
như vậy?
6 Có
lẽ thiền sư đang tả thực trạng thái định mà giáo lý gọi là Nhị thiền.
7 Có
lẽ đây là trạng thái Tam thiền
Ai biết
được? Ta dùng chữ gì để đặt tên dán nhãn cho những trạng thái đã xảy ra đó?. (Tức
là, nếu ta có gọi đó là Nhất thiền, Nhị thiền, Tam thiền... đi nữa, thì những
danh từ đó cũng không chính xác so với những thực tại không thể tả thực được đó).
Năng
Lực Định Tâm [Định Lực]
Mọi
sự tôi đang nói với các thầy là liên quan đến cái tâm diễn ra theo đường lối tự
nhiên. Đây không phải sự diễn tả cái tâm hay những trạng thái tâm lý của tâm
(tâm sở) dựa theo lý thuyết. Không cần thiết phải làm điều đó. Khi có niềm tin
và lòng tin, ta cứ bước vào và thiền tập thực sự. Không lòng vòng, không nửa vời
nửa vợi, mà phải đặt hết cuộc sống vào việc thực hành. Và khi việc tu hành của
các thầy đạt đến giai đoạn như tôi vừa mới tả, thì ngay sau đó cả thế giới sẽ
hoàn toàn đảo ngược lại đối với các thầy. Lúc này, sự hiểu biết của các thầy về
thực tại là hoàn toàn khác với trước đó. Cách nhìn của các thầy đã được chuyển
hóa hoàn toàn. Nếu có ai nhìn thấy các thầy ngay lúc này, họ có thể nghĩ các thầy
đang ngu ngơ hay điên khùng. Nếu sự trải nghiệm này xảy ra cho những ai không nắm
vững thấu suốt về bản thân họ, thì họ có thể điên khùng thiệt, bởi vì sự trải
nghiệm đó là cực kỳ lạ thường và kỳ lạ mà họ chưa từng thấy trước đó. Những người
trên đời thường thể hiện rất khác, so với cách họ thể hiện trước đó về trước.
Nhưng các thầy là người duy nhất nhìn thấy điều đó. Nhìn thấy sự thay đổi. Tuyệt
đối mọi thứ đều thay đổi. Mọi ý nghĩ đều chuyển hóa: giờ thì người khác nghĩ một
cách, ta nghĩ theo cách khác. Họ nói về mọi thứ theo một cách, còn ta ta nói
theo cách khác. Họ đang đi dần xuống lối mòn, còn ta ta đang leo dốc lên theo
lối
khác. Bây giờ, các thầy không còn giống hệt với mọi người, các thầy giờ khác biệt
với họ. Cách trải nghiệm mọi thứ như vậy sẽ không bị phai nhạt hay yếu dần đi.
Nó luôn luôn duy trì và kéo dài. Khi đã tu được đến cách trải nghiệm đó thì
cách trải nghiệm đó sẽ còn mãi. Hãy cố tu tập thử, cố tu tập như vậy. Nếu đúng
như những gì tôi đã miêu tả nảy giờ, thì các thầy không còn cần phải đi tìm ở
đâu xa xôi nữa. Chỉ cần nhìn ngay vào trong trái tim này. Tâm lúc này rất dũng
mãnh, bản lĩnh và không thể lay chuyển được. Đó là năng lực của tâm, đó là nguồn
sức mạnh và năng lượng. Tâm có sức mạnh tiềm tàng của nó. Đó chính là năng lực
và nguồn lực của định (samādhi).
Cho
đến lúc này, đó cũng chỉ mới là năng lực và sự tinh lọc của cái tâm có được nhờ
trạng thái định sâu (samādhi). Mức độ
định tâm này là mức định thâm sâu tột cùng nhất. Tâm đã đạt đến đỉnh cao của sự
định (samādhi); đó không phải chỉ là
loại định nhất thời. Cho đến lúc này, nếu người tu bật chuyển qua thiền quán minh sát (vipassanā), thì sự quán sát sẽ không bị gián đoạn, đứt quãng, và đầy
trí tuệ minh sát. Hoặc người tu có thể tập trung hết năng lượng và dùng nó theo
những cách khác nhau; (tùy theo mục đích tu tập của người tu). Ví dụ, sau khi đạt
định thâm sâu như vậy, người tu có thể phát triển những năng lực thần thông, biểu
diễn những màn kỳ diệu, hoặc có thể dùng những năng lực siêu thường đó làm những
việc mình muốn. Những thầy tu và ẩn sĩ thời xưa đã dùng năng lực định để làm nước
thần, làm những vòng bùa chú hộ mệnh, làm mê hoặc người khác. Khi đạt đến giai
đoạn định sâu này thì có thể làm được những thứ đó, và có thể mang lại một số
ích lợi cho người làm; Nhưng,
đó chỉ
giống như lợi ích của cồn rượu mà thôi. Uống nó chưa biết có giải sầu được chút
nào hay không, nhưng uống vô ta sẽ say xỉn và khổ đau thôi.
Mức
độ định ngay chỗ này là điểm nên dừng. Phật đã đạt đến mức định này và Phật đã
dừng lại ở đây. Dừng lại ở mức độ định sâu (samādhi)
này và dùng nó làm nền tảng để thiền quán và minh sát (vipassanā). Tuy nhiên, không nhất thiết phải đạt được mức độ định
thâm sâu như vậy thì ta mới có khả năng quán sát những thực trạng xung quanh
ta; do vậy ta cứ đều đặn quán sát cái tiến trình nhân quả (không cần chờ cho đến
khi đạt định rất thâm sâu tuyệt đỉnh). Để làm được điều này, chúng ta tập trung
vào sự bình an và sự sáng rõ của cái tâm để phân tích những hình sắc, âm thanh,
mùi hương, mùi vị, những cảm nhận của thân, những ý nghĩ, và những trạng thái
tâm mà chúng ta trải nghiệm. Hãy xem xét những trạng thái và những cảm xúc dù
nó tích cực hay tiêu cực, dù nó là tốt hay xấu. Xem xét quán xét tất cả mọi thứ.
Cũng giống như có người leo lên cây xoài và rung cây cho trái rụng; ta chỉ việc
đứng dưới xem xét từng trái xoài: trái nào hư rục thì ta bỏ, trái nào ngon lành
thì ta lấy gom lại. Việc đó không khó khăn mệt sức, bởi ta chỉ đứng dưới nhìn
và gom chứ đâu có leo trèo trên đó mà mệt nhọc. Ta chỉ đơn giản đứng dưới, xem
xét từng trái xoài và thu gom mang về.
Các
thầy có hiểu ý nghĩa ví dụ này không? Mọi thứ trải nghiệm bằng một cái tâm bình
an sẽ mang lại sự hiểu biết lớn lao hơn. Chúng ta không còn phóng tâm, tạo tác,
diễn dịch này nọ xung quanh điều gì được trải nghiệm. Sự giàu nghèo, vinh nhục,
khen chê, sướng khổ cứ xảy ra theo lý của chúng. Và chúng ta cứ bình an. Chúng
ta khôn
ngoan.
Điều đó thực sự đáng vui. Thực là đáng vui khi ta biết sàng lọc và xử lý mọi sự.
Những gì thiên hạ gọi là tốt, xấu, thiện, ác, sướng, khổ, này, nọ, hay bất cứ
là gì – tất cả đều được ghi nhận cho lợi lạc của chúng ta. (Miễn sao chúng ta đừng
dính chấp theo thứ gì). Giống như có người trèo lên cây xoài đạp rung để làm
xoài rụng xuống cho chúng ta nhặt lấy vậy. Chúng ta cứ ghi nhận và nhặt lấy những
trái xoài ngon mà không sợ hãi gì cả. Có gì ở đó mà ta phải sợ? Giàu nghèo,
vinh nhục, khen chê, sướng khổ, và tất cả những thứ khác trên đời cũng đâu hơn
gì những trái xoài đang rụng xuống, và chúng ta cứ nhìn những thói tính thế
gian đó cũng như ta đứng nhìn những trái xoài đang rớt xuống với một cái tâm
tĩnh lặng. Và chúng ta biết những trái nào là tốt, những trái nào là xấu.
Làm
Việc Hợp Theo Lẽ Tự Nhiên
Khi
chúng ta bắt đầu nắm giữ sự bình an và tĩnh lặng, mà chúng ta phát triển bằng
thiền tập, để quán xét mọi thứ, thì trí tuệ sẽ khởi sinh. Đây tôi gọi là trí tuệ
minh sát. Đây là vipassanā. Đó không
phải là thứ được tạo tác hay được chế ra. Nếu chúng ta khôn khéo, trí tuệ minh
sát sẽ tự nhiên có và tự phát triển. Chúng ta không cần phải đặt tên dán nhãn
cho cái đang diễn ra. Nếu chỉ có một ít trí tuệ minh sát, ta gọi đó là trí tuệ
minh sát nhỏ, vipassanā nhỏ''. Khi sự
nhìn rõ (minh sát) tăng lên chút nữa, ta gọi đó là trí tuệ minh sát vừa, vipassanā vừa. Nếu sự hiểu biết đã sáng
rõ hoàn toàn theo đúng với lẽ thực của Sự Thật, ta gọi đó là trí tuệ minh sát
hoàn toàn, hay vipassanā rốt ráo.
Theo cá nhân tôi, tôi thích dùng chữ trí tuệ paññā (bát-nhã) hơn là chữ
trí tuệ vipassanā (minh sát). Nếu chúng ta nghĩ ta ngồi và
thực hành “thiền minh sát”, thì điều đó đã gây khó
khăn
cho ta. (Thực ra chúng ta không thể làm ra hay tạo tác ra minh sát tuệ!). Trí
tuệ minh sát phải được tiến triển từ sự bình an và tĩnh lặng. Toàn bộ tiến
trình diễn ra một cách hoàn toàn tự nhiên theo đường lối tự nhiên của nó. Chúng
ta không thể chủ động làm ra nó hay thúc ép để có nó.
Phật
đã dạy rằng tiến trình đó tự nó chín muồi theo tốc độ của nó. Sau khi đã tu được
đến mức này, chúng ta cứ để yên cho nó tự tiến triển tùy theo những khả năng và
khuynh hướng tự nhiên của nó, và tùy theo công đức mà chúng ta đã tích lũy được
trong quá khứ. Nhưng chúng ta không được bớt nỗ lực trong tu tập. Tiến trình dù
nhanh hay chậm, đốn ngộ hay tiệm ngộ gì đó, là nằm ngoài khả năng kiểm soát và
ý muốn của chúng ta. Cũng giống như khi trồng cái cây. Cây tự nó biết lớn lên
theo tốc độ tự nhiên của nó. Nếu chúng ta muốn nó lớn thật nhanh thì đó chỉ là
sự ngu si mà thôi. Nếu chúng ta làm đúng việc của mình, kết quả sớm muộn gì
cũng có – cũng giống như việc trồng một cái cây. (Nếu cứ siêng năng tu tập đúng
đắn, kết quả sớm muộn gì cũng có, sớm hay muộn còn phụ thuộc vào nhiều căn cơ tự
nhiên, khuynh hướng bẩm sinh và công đức trong quá khứ, như đã nói trên). Ví dụ,
chúng ta trồng cây ớt. Việc chúng ta cần làm đúng là đào lổ, gieo hột, bón
phân, tưới nước cho nó và bảo vệ nó khỏi sâu rầy. Ta siêng năng làm đúng công
việc vun trồng đó, như vậy là đủ. Ngay chỗ này sẽ có mặt lòng tin. (Làm đúng,
tu đúng thì sẽ khởi sinh lòng tin đúng đắn). Dù cây ớt có mọc được hay không, mọc
chậm, mọc nhanh, ra trái nhanh hay chậm là còn tùy do nó. Đó không phải việc của
ta. Nó đâu mọc theo ý muốn của ta. Chúng ta không thể nắm kéo cho
nó lớn
cao lên mau, đó không phải cách của tự nhiên. Việc chúng ta làm đúng và đều đặn
là tưới nước và chăm bón cho nó. Còn nó lớn lên nhanh chậm và kết quả nhanh chậm
là ngoài khả năng và ý muốn của ta. Việc tu tập theo Giáo Pháp cũng như vậy đó,
ta nên thực hành theo hướng dẫn của Giáo Pháp, và hãy để cho tâm tự nhiên và
thư thả theo đường lối của nó.
Nếu
chúng ta chứng đắc giác ngộ trong kiếp này, điều đó quá tốt. Nếu phải chờ đến
kiếp sau, điều đó cũng chẳng sao. Miễn sao chúng ta đã có lòng tin và sự cam kết
bất thoái chuyển vào Giáo Pháp. Nhanh hay chậm, đốn hay tiệm gì gì đó, là tùy
theo những căn cơ bản năng và huynh hướng bẩm sinh, và những công đức tích lũy
từ trước đến nay. Tu tập theo hướng này và sự tin tưởng này càng làm cho trái tim
và tâm được thư thái. Cũng giống như đi xe ngựa, đừng đẩy xe trước ngựa, hãy ngồi
yên chờ ngựa kéo đi. Cũng giống như cày ruộng vậy, đừng đi trước con trâu, phải
cầm cày đi sau và để cho trâu kéo. Điều tôi đang nói đây có nghĩa là tâm nó
luôn luôn đi trước nó. Nếu người tu muốn có kết quả nhanh là thiếu kiên nhẫn.
Đó không phải là cách, dù muốn nhanh cũng đâu được, hay càng nôn nóng thì càng
chậm thêm. Đó không phải cách đúng. Đừng có đi trước con trâu. Bạn phải đi sau con trâu.
Cũng
giống như tiến trình lớn lên của cây ớt. Tưới nước và chăm bón cho nó, nó tự
hút chất dinh dưỡng và lớn lên. Khi có kiến hay sâu rầy đến phá, đuổi sâu rầy
đi. Chỉ cần làm đúng như vậy thì cây ớt có thể lớn đẹp. Và khi nó đã lớn đẹp, đừng
cố o ép nó ra hoa kết trái nhanh nhanh theo ý ta. Việc đó đâu phải việc của ta.
Cứ nôn nóng
chỉ tạo
ra khổ đau vô ích. Cứ để yên cho nó tự nở hoa kết quả theo tốc độ của nó. Rồi
khi nó ra trái cũng đừng có muốn nó phải chín nhanh để ta có ăn. Đừng có o ép
hay thúc giục điều gì. Điều đó chỉ gây ra khổ cho mình! Khi hiểu được những ví
dụ tự nhiên này, chúng ta hiểu được trách nhiệm chúng ta là gì và những gì
không phải là việc của ta. (Cái gì cần tu thì ta làm; những gì không tự nhiên
và không nên làm thì đừng làm). Mỗi người có mỗi bổn phận để hoàn thành, bổn phận
là phải lo tu tập siêng năng và đúng đắn. Còn việc gì đến sẽ đến. Cái tâm tự hiểu
được vai trò của nó phải làm việc gì. Nếu tâm không hiểu được vai trò của nó
nên làm gì, thì người tu sẽ suốt ngày ngồi bên cây ớt thúc ép nó ra trái và
chín nhanh. Tâm mình cứ suốt ngày không lo tu mà cứ thúc muốn cây ớt phải lớn nhanh,
ra trái nhanh.
Chỗ
này không phải ở đâu xa mà ngay trong Diệu Đế thứ hai của Phật: tham muốn dục vọng
gây ra khổ. Đó là chân lý về nguyên nhân nguồn gốc của khổ. Nếu chúng ta đã hiểu
căn bản về chân lý này, vậy chúng ta thấy rằng việc thúc ép mong muốn có kết quả
sớm trong khi tu tập là điều ngu si, bởi nó chỉ tạo ra khổ. Đó là cách sai. Hiểu
cách tâm vận hành và buông bỏ nó và để cho mọi sự tự chín muồi tùy theo những
căn cơ bẩm sinh, bản năng, và những công đức tích lũy mà chúng ta đã tích lũy
trước giờ. Chúng ta cứ tiếp tục làm việc của mình, cứ lo tu đều tu đúng. Đừng
lo kết quả có sớm hay trễ. Cho dù phải mất một trăm kiếp hay một ngàn kiếp mới
giác ngộ, thì có sao đâu? (Bởi có muốn nhanh hơn cũng đâu làm gì được, mà cứ lo
muốn nhanh hơn thì việc tu càng sai lạc và lại càng trễ hơn nhiều). Dù phải tốn bao nhiêu kiếp, ta cứ giữ việc
tu
tập với một trái tim thư thái theo bước tu của mình. Rồi
một lúc nào đó, tâm lọt vào dòng
thánh đạo (nhập lưu), lúc đó thì không còn lo lắng lo sợ gì nữa. Lúc đó đã vượt
qua hết rồi, ta không còn lo về một hành động bất thiện nhỏ nhặt nào nữa. Phật
đã nói rằng tâm của một người nhập lưu (sotāpanna,
Tu-đà-hoàn), tức người đã chứng đắc tầng thánh quả đầu tiên, tâm của người đó
đã nhập vào dòng chảy Giáo Pháp hướng về phía giác ngộ hoàn toàn. Những nhập
lưu không còn bị rớt vào những cảnh giới thấp xấu khổ đau, không còn rớt vào cảnh
giới địa ngục. Làm sao họ có thể rớt vào cảnh giới địa ngục khi tâm của họ đã dẹp
bỏ những điều xấu ác bất thiện? Những người đó đã nhìn thấy mối hiểm họa của những
hành động (nghiệp) xấu ác. Giờ họ đã nhập lưu thành bậc thánh nhân, giờ bạn có
cố ép họ làm hay nói điều gì bất thiện họ cũng không còn khả năng làm nữa, do vậy
họ đâu còn cơ hội nào để bị rớt xuống cảnh giới thấp xấu hay địa ngục nữa. Bởi
tâm họ đang trôi chảy theo dòng thánh đạo, dòng chảy của Giáo Pháp.
Một
khi người tu đã bước vào dòng thánh đạo, người đó biết những trách nhiệm của
mình là gì. Người đó biết mình phải làm gì đúng đắn. Người đó biết phải tu tập
ra sao. Người đó biết lúc nào cần nỗ lực cố gắng và lúc nào cần thư thả. Người
đó hiểu biết thân và tâm của mình, hiểu biết tiến trình thân và tâm, và biết từ
bỏ những gì cần phải được từ bỏ, và liên tục từ bỏ cho đến khi không còn một
chút nghi ngờ.
Thay
Đổi Tầm Nhìn
Trong
đời tu của tôi, tôi chưa bao giờ cố nắm bắt nhiều đề tài rộng lớn. Chỉ một thôi.
Tôi thanh lọc tâm này.
Giờ
chúng ta nhìn vào thân. Nếu chúng ta bị hấp dẫn bởi một thân thể thì nên phân
tách nó. Nhìn kỹ nó: tóc, lông, móng, răng, da.8 Phật đã dạy chúng ta phải quán
xét một cách thấu đáo và lặp đi lặp lại về những bộ phận này của thân. Hình
dung (quán tưởng) từng bộ phận riêng, tách chúng ra, lột da từng cái và tìm ra
sự thật của từng cái. Đó là cách tu tập. Cứ thiền quán về những bộ phận đó cho
đến khi việc thiền quán đó được thiết lập một cách vững chắc và không dao động.
Nhìn thấy thân ở mọi người đều như nhau. Ví dụ, khi các tăng sĩ và sa-di đi vô
làng khất thực vào buổi sáng, dù gặp ai—dù là tăng hay người dân làng—hãy hình
dung người đó là một thân chết, một xác chết đang đi trước mặt mình. Duy trì tập
trung vào cái nhận thức này. Đây là cách đưa vào nỗ lực. Cách đó dẫn đến sự
chín chắn và phát triển. Khi ta nhìn thấy một phụ nữ đẹp, hãy hình dung đó là một
xác chết đang đi, hình dung cái xác đó đang tan rã và thối rửa. Nhìn thấy thân
mọi người ai cũng rồi như vậy. Và đừng để họ đến quá gần ta! Đừng để sự hấp dẫn
bề ngoài và sự mê đắm chiếm lấy tâm trí ta. Nếu các thầy nhận thức và quán tưởng
được thân của mọi người đang phân hủy và thối rửa, tôi có thể bảo đảm rằng
không còn sự mê đắm có mặt bên trong các thầy. Quán xét cho đến khi các thầy chắc
chắn về cái mình đang nhìn thấy là gì, cho đến khi nó cụ thể rõ ràng, cho đến
khi mình tinh thông về sự thật đó. Dù có tu theo con đường nào các thầy cũng đừng
xao lãng. Đặt hết tâm trí vô đó. Mỗi khi nhìn thấy ai thì chẳng khác nào nhìn
thấy cái
8 [Tóc,
long, móng, răng, da là năm bộ phận đầu tiên của thân là các đối tượng để quán
xét (quán thân) mà các sư thầy thường dạy ngay cho các tăng ni ngay sau khi họ
mới được thọ giới.]
xác chết
đang đi, (thân nào rồi cũng chết và mục rửa). Dù đó là nam hay nữ, cứ nhìn đó
như xác chết. Và cũng đừng quên nhìn thân mình như xác chết. Cuối cùng tất cả
chỉ là vậy, thân nào rồi cũng đến lúc như vậy. Cố tu tập cách này một cách hết
sức thấu suốt. Tu tập cho đến khi việc quán thân đó trở thành một phần và hành
trang của tâm mình. Tôi hứa điều này sẽ rất vui—nếu các thầy thực sự tu tập nó.
Nhưng nếu các thầy chỉ biết điều này qua kinh sách thì sẽ khó tu chỗ này. Các
thầy phải tự tu tập để tự mình hiểu biết. Và phải tu tập chỗ này với một sự
thành tâm tột cùng. Tu cho đến khi phần tu quán thân này trở thành một phần của
mình. Lấy sự chứng ngộ sự thật làm mục tiêu của mình. Nếu các thầy có động cơ
là ước muốn vượt qua khổ thì các thầy đang đi đúng đường.
Thời
nay có nhiều người dạy về thiền minh sát với rất nhiều kỹ thuật khác nhau. Tôi
sẽ nói như vầy: thực hiện thiền minh sát không phải là dễ. Chúng ta không phải
chỉ đơn giản nhảy vào thiền. Nó chẳng đi đến đâu nếu chưa có một chuẩn mực cao
về đức hạnh. Tự các thầy biết mình về chỗ này. Giới luật đạo đức và các giới hạnh
để tu tập là cần thiết, bởi nếu những hành vi, hành động và lời nói của chúng
ta chưa hoàn thiện thì chúng ta không thể nào đứng vững trên hai chân. Thiền tập
mà thiếu đức hạnh thì chẳng khác nào cố tình bỏ qua phần căn bản của con đường
Đạo. Tương tự, chúng ta thường nghe nói rằng: ''Không cần phải tu tập sự định tâm.
Cứ bỏ qua thiền định và đi thẳng vào tu thiền minh sát''. Những người tu hành
chẳng đến đâu thường hay nói như vậy. Họ nói rằng tu không cần phải có giới hạnh.
Củng cố và thanh lọc đức hạnh là một việc làm đầy thử thách, chứ đâu phải chuyện
đùa chuyện
nhỏ như họ nói. Nếu bỏ qua những giáo lý về đạo đức thì việc đó quá dễ, đúng
không? Hễ khi nào gặp khó khăn, chúng ta chỉ việc bỏ qua. Thiệt vậy, mọi người
đều thích bỏ qua những khó khăn, ai cũng muốn chọn cách dễ dàng. (Nếu vậy ai tu
không được?).
Trước
kia tôi gặp một Tỳ kheo, thầy ấy nói thầy ấy là một thiền giả đích thực. Thầy ấy
xin phép ở lại đây với tôi và hỏi về thời biểu tu tập và các quy tắc trong
chùa. Tôi nói với thầy ấy rằng trong chùa này chúng tôi sống theo Giới Luật
Tăng đoàn, đó là những điều giới của Phật, và nếu thầy ấy muốn ở đây tu thầy ấy
phải từ bỏ những thứ như tiền bạc, của cải riêng. Thầy ấy nói rằng việc tu hành
của mình là ''không ràng buộc với tất cả những quy ước truyền thống''. Tôi nói
với thầy ấy tôi không hiểu thầy ấy đang nói gì. Thầy ấy nói rằng: ''Hay cứ để
con ở lại đây, con vẫn giữ tiền bạc nhưng con không dính vào nó. Tiền bạc chỉ
là quy ước thôi mà''. Thầy ấy thiệt đang nói lẩm cẩm. Thực ra thầy ấy lười biếng
không muốn tuân theo Giới Luật. Thiệt là khó, nhưng tôi phải nói với thầy ấy: ''Nếu
thầy ăn muối và có thể chân thật nói rằng nó không mặn, thì tôi sẽ nghiêm túc
nhận thầy ở lại. Nếu thầy nói muối không mặn, tôi sẽ dưa một bao muối cho thầy
ăn thoải mái. Cứ thử đi. Nó có mặn không? ‘Không ràng buộc với quy ước’ đâu phải
chỉ bằng cách nói khôn lanh đễ dàng như vậy. Nếu thầy cứ nói kiểu này, tôi
không thể ở cùng thầy''. Vậy là thầy ấy bỏ đi.
Chúng
ta phải cố gắng duy trì việc tu tập giới đức hạnh. Người xuất gia phải tu tập bằng
giới luật thiền môn
và
thử nghiệm giới tu khổ hạnh [hạnh đầu-đà, dhutanga]9. Còn
những Phật tử tại gia thì tuân giữ năm giới hạnh căn bản. Cố gắng tu sửa để đạt
đến sự hoàn thiện trong hành động và lời nói. Chúng ta nên tu dưỡng điều tốt
thiện hết khả năng của mình, và tu sống thiện lành theo đó.
Khi bắt đầu tu tập sự tĩnh lặng (thiền định), đừng cố một
hai lần rồi bỏ ngang vì thấy tâm không được tĩnh lặng. Làm vậy là sai. Làm vậy
là không đúng. Ta cần phải tu tập trong một thời gian lâu. Tại sao phải tốn nhiều
thời gian như vậy? Hãy nghĩ về điều đó. Đã bao nhiêu năm chúng ta đã để tâm
lang thang bất định? Đã bao nhiêu năm ta có tu tập định tâm lần nào đâu? Đã bao
nhiêu năm, hễ khi nào tâm lôi chúng ta đi đâu thì ta chỉ biết chạy theo nó khắp
nơi. Giờ để làm yên lặng cái tâm lăng xăng đó, đưa nó đến ngừng nghỉ, làm cho
nó tĩnh tại, thì một vài tháng thiền tập đâu là cái đinh gì. Hãy nghĩ về điều
này.
Khi chúng ta quyết tu tập cái tâm để nó bình yên trong mọi
tình cảnh thì hãy hiểu rằng, do lúc đầu những cảm xúc ô nhiễm xuất hiện, nên
tâm không được bình an. Nó sẽ bị xao lãng và khó kiểm soát. Tại sao? Bởi vì vẫn
còn dục vọng. Chúng ta không muốn tâm chúng ta nghĩ suy. Chúng ta không muốn có
những trạng thái hay cảm xúc làm xao lãng. Muốn cũng là một dạng của dục vọng.
Không muốn cũng là một dạng của dục vọng. Muốn, muốn không, hay không muốn đều
là tham dục. Không muốn là dục vọng, đó là dục vọng để không có. Khi ta
9 [Như
đã giải thích trong cách chú thích trước đây, giới khổ hạnh gồm 13 điều giới
giúp người tu tu tập tính biết hài lòng, sự từ bỏ, và và sức chịu khó để tu tập].
càng
muốn không trải nghiệm hay không có điều gì, thì ta càng mời gọi và đẩy chúng
vào. ''Tôi không muốn những điều này, sao chúng cứ đến hoài vậy? Tôi muốn nó
không như vầy, sao nó cứ như vậy?''. Đó, ngay chỗ đó ta dính. Ta muốn mọi thứ
phải có mặt theo một cách nào đó, đó là do ta chưa hiểu cái tâm của mình. Điều
này có thể mất rất nhiều thời gian trước khi chúng ta nhận ra rằng, muốn vầy muốn
vậy là sai lầm. Cuối cùng, khi chúng ta nhìn thấy rõ ràng, chúng ta có thể nói
rằng: ''Ôi, những thứ đó xảy đến là do ta mời gọi chúng chứ ai''.
Tham
muốn trải nghiệm điều gì, tham muốn được bình an, tham muốn không bị xao lãng
và động vọng—tất cả đều là dục vọng. Hoàn toàn là dục vọng. Nhưng không sao. Cứ
tu tập. Khi nào trải nghiệm một trạng thái hay một cảm xúc, hãy xem xét nó dựa theo
ba tính chất “vô thường, khổ và vô ngã”, và thảy chúng vào trong ba đặc tính đó.
Rồi suy xét và điều tra: những cảm xúc ô nhiễm này thường đi kèm với sự nghĩ
suy phóng túng này nọ. Khi có một trạng thái thì sự nghĩ lăng xăng đi sau nó. Sự
nghĩ suy và trí tuệ là hai thứ khác nhau. Sự nghĩ suy chỉ là phản ứng và chạy
theo những trạng thái của ta, và kéo theo nó cho đến bất tận. Nhưng trí tuệ thì
khác, khi có trí tuệ hoạt động, nó sẽ mang tâm đến chỗ tĩnh tại. Tâm sẽ dừng lại
và không còn chạy nhảy đi đâu nữa. Chỉ còn lại sự biết và ghi nhận cái đang được
trải nghiệm: Biết cái gì? Biết rõ khi trạng thái này có mặt, tâm là như vầy;
khi trạng thái kia có mặt, tâm là như vậy. Chúng ta duy trì cái ''sự biết''. Cuối
cùng, điều gì đến sẽ đến đối với người tu. Đến lúc rồi ta cũng biết được: ''A,
tất cả mọi sự nghĩ đó, mọi sự lăng xăng búa xua đó trong tâm, mọi sự lo nghĩ và
phỏng đoán
đó—tất
cả chỉ là những thứ vô danh vô nghĩa. Tất cả chúng đều là vô thường, khổ, và
không phải là ta hay của ta nào cả''. Thảy tất cả chúng vào một trong ba cái đặc
tính bao-trùm đó, và dập tắt không cho khởi lên lại. Ta cắt đứt chúng tận gốc rễ.
Sau đó khi ta ngồi thiền lại, nó vẫn khởi lên lại. Hãy cứ tiếp tục quan sát
chúng. Theo dõi chúng sát sao.
Cũng giống như chăn trâu. Có người nông dân, có ruộng lúa,
và có con trâu. Trâu thì thích ăn lúa, đúng không? Tâm chúng ta giống như con
trâu. Những trạng thái ô nhiễm thì giống ruộng lúa hấp dẫn. Sự-biết là người
nông dân. Việc tu theo Giáo Pháp cũng giống như vậy. Tự mình so sánh rồi sẽ thấy
và nhớ (niệm). Khi chăn trâu, ta thả nó đi ăn tự do, nhưng ta luôn để mắt đến
nó. Nếu nó đi lãng qua hay quay đầu về phía lúa, ta la lên. Khi trâu nghe tiếng
la, nó quay lại ăn cỏ. Nhưng ta không được mất chú ý, không được xao lãng hay
quên mất con trâu đang làm gì. Nếu gặp con trâu bướng bỉnh khó trị, ta phải
dùng roi quất mạnh vào lưng nó. Vậy sau đó nó không dám béng mảng qua ruộng lúa.
Nhưng đừng có lăn ra làm một giấc ngon lành; nếu ta ngủ quên, khi thức dậy đám
lúa chắc không còn nữa. Việc tu tập cũng giống như vậy: ta phải luôn quan sát
cái tâm của ta; sự-biết luôn huấn luyện cái tâm.
''Ai biết quan sát cái tâm mình thì tránh được cạm bẫy của
Ma Vương''.10 Và, cái sự biết này cũng chính là cái tâm. Vậy ai là người
quan sát cái tâm? Chỗ này rất dễ làm
10 [Ma
Vương (Mara) là hình tượng nhân cách
hóa trong Phật giáo, chỉ những thứ cản trở người tu tu tập và đi đến giác ngộ.]
chúng
ta khó hiểu và bối rối. Tâm là một thứ, sự-biết là một thứ khác; nhưng sự-biết
xuất phát từ chính cái tâm. Vậy biết cái tâm có nghĩa là gì? Nó là gì khi gặp
những trạng thái và cảm xúc? Nó là gì nếu không có những cảm xúc ô nhiễm này nọ?
Cái biết được những thứ đó là gì thì được gọi là cái-biết hay ''sự-biết''. Sự-biết
theo dõi cái tâm, và từ cái sự biết này sinh ra trí tuệ. Cái tâm bình thường
luôn nghĩ suy và bị dính theo những cản xúc này nọ liên tục—rõ ràng giống như
con trâu. Nó có béng mảng qua lại, ta phải luôn để mắt theo dõi nó. Nếu nó bước
qua ruộng lúa, la lên. Nếu nó không nghe, lấy roi quất nó. Đó là cách dập ngay
tham dục của nó.
Tu
tập cái tâm cũng không khác. Khi tâm trải nghiệm một cảm xúc và cứ dính theo
đó, công việc của sự-biết là dạy dỗ cái tâm. Xem xét trạng thái đó để coi đó là
tốt hay xấu. Giải thích cho tâm hiểu cách lý nhân-quả hoạt động. Và khi tâm gặp
cái gì nó cho là đáng quý và bám dính theo đó, sự-biết phải tiếp tục dạy cho
tâm hiểu lý nhân quả, cho đến khi tâm hiểu được (trí tuệ) và dẹp bỏ thứ đó qua
một bên. Điều này dẫn đến sự bình an của tâm. Sau khi tìm thấy rằng tất cả những
gì tâm cố nắm giữ và tham đắm đều là những thứ không đáng có, toàn là những thứ
tự trong bản chất là bất toại nguyện, nhờ đó tâm dừng lại, không còn phóng theo
những thứ đó. Nó không còn màng đến những thứ đó nữa. Dẹp bỏ dục vọng của tâm với
một sự quyết tâm. Thách đấu với nó đến tận gốc rễ của nó, cho đến khi những
giáo lý (của Phật) thấm sâu vào trong trái tim. Đó là cách chúng ta huấn luyện
cái tâm.
Từ
lúc tôi rút vô rừng để tu thiền, tôi đã tập luyện như vậy. Khi tôi dạy những học
trò của tôi tu tập, tôi cũng
dạy họ
tu như vậy. Bởi vì tôi muốn họ nhìn thấy sự thật, chứ không phải chỉ biết những
điều trong kinh sách. Tôi muốn họ nhìn thấy tâm của họ đã được giải thoát khỏi
những nghĩ suy đầy khái niệm hay chưa. Khi nào có sự giải thoát, ta biết; và
khi nào chưa có sự giải thoát, thì phải tiếp tục quán xét cái tiến trình nhân
quả diễn biến ra sao từ sự này đến sự khác. Quán sát cho đến khi các thầy biết
rõ và hiểu rõ về nó một cách thấu suốt. Khi một sự việc khởi sinh được soi chiếu
bằng trí tuệ thì nó sẽ tự nó tan diệt. Khi có sự gì khởi sinh khi đang tu tập
và ta bị kẹt ỏ đó, hãy quán xét điều tra về nó là gì. Đừng bao giờ bỏ lơ hay bỏ
qua nó, cứ tiếp tục điều tra cho đến khi tự nó phai biến. Cứ liên tục điều tra
ngay chỗ này. Cá nhân tôi, đây là cách tôi tiếp cận việc tu tập, bởi Phật đã dạy
rằng chúng ta phải tự mình thấy biết cho chính mình. Tất cả những bậc tu hành đều
tự mình thấy biết sự thật. Các thầy cũng phải tự khám phá để tự mình thấy biết
từ trong tận trái tim mình. Tự mình thấy biết.
Nếu
các thầy tự tin vào những điều mình thấy biết và tin tưởng vào chính mình, thì
dù ai nói ngã nói nghiêng hay chỉ trích gì gì, các thầy vẫn bình tâm thư thái.
Tại sao? Vì các thầy tự biết rõ chính mình. Nếu có ai khen nịnh các thầy, nhưng
các thầy tự biết mình không phải được như vậy, vậy các thầy có tin lời khen đó
không? Dĩ nhiên không. Các thầy cứ tiếp tục việc tu tập của mình. Nếu ai không
tự tin vào chính mình thì khi có ai khen ngợi, họ sẽ thấy khoái sướng và tin
ngay lời khen đó, và đó là vọng tưởng. Tương tự, nếu có ai chê trách mình, hãy
nhìn lại và xem xét mình: ''Không, điều họ nói là không đúng. Họ quy kết mình
như vậy, nhưng mình không phải vậy. Lời họ nói
là
không đúng''. Nếu đã biết nhìn lại mình và hiểu được như vậy, sao còn phải đi bực
tức giận hờn với họ làm chi nữa? Lời họ nói là không đúng, ta biết rõ còn chấp
làm chi nữa. Nhưng nếu ta còn nhiều sai lỗi thiếu sót đúng như lời họ nói, thì
họ đã đúng. Trong trường hợp đó họ đã đúng, ta cũng đâu có lý gì phải đi bực tức
giận hờn với họ? Nếu các thầy biết nghĩ theo hai chiều tích cực như vậy, cuộc sống
sẽ thực sự dễ dàng và không còn phiền não gì nữa. Chẳng điều gì xảy ra là sai cả.
Mọi thứ đều là Giáo Pháp. Đó là cách tôi đã tu tập mình.
Bước
Theo Con Đường Trung Đạo
Đó
là con đường ngắn nhất và trực chỉ nhất. Các thầy cứ đến và tranh luận đủ thứ với
tôi về Giáo Pháp, nhưng tôi sẽ không tham gia. Thay vì tranh luận qua lại, tôi
chỉ đưa ra một số điều suy xét để các thầy tự đi quán chiếu về chúng. Mong các
thầy hãy ghi nhớ rằng, Phật đã dạy: hãy buông bỏ tất cả. Buông bỏ tất cả với sự-biết
và sự tỉnh-giác. Nếu không có sự biết và sự tỉnh giác thì sự buông bỏ đó cũng
chẳng khác sự bỏ ngơ của con trâu con bò. (Sự buông bỏ bằng sự thấy biết và tỉnh
giác là sự buông bỏ của người tỉnh thức. Đó là sự buông bỏ nhờ hiểu biết và trí
tuệ). Nếu không đưa hết tâm và trái tim vào sự buông bỏ, thì sự buông bổ đó là
chưa phải. Ta buông bỏ bởi ta hiểu biết rõ sự thật do quy ước. Sự buông bỏ này
là sự không-còn-dính-chấp, sự không còn ràng buộc. Phật đã nói trước rằng, lúc
mới tu tập, chúng ta tu học rất siêng năng, phát triển nhiều điều thiện lành,
và rồi chúng ta bị dính chấp ràng buộc với nhiều thứ. Chúng ta dính chấp vào Phật
(tôn thờ, dựa hết vào Phật). Dính chấp vào Giáo Pháp (bám theo kinh điển, dựa
vào sự hiểu biết, lý luận từ kinh điển).
Dính
chấp vào Tăng đoàn (dựa vào các sư thầy, tôn sùng các sư thầy, bắt chước làm
theo cách đi cách đứng cách nói của sư thầy). Đó là những dính chấp và ràng buộc
quá chắc chắn và sâu nặng. Đó là điều Phật đã biết và nói trước cho chúng ta.
Dính chấp với tất cả lòng thành và sự kiên định, và dính chặt đến mức như vậy
là khó khăn cho việc tự thân tu tập.
(Có
người trong thời gian tu học và ngưỡng mộ vị sư thầy nào đó, khi vị sư thầy đó
làm gì sai hay nói gì sai, người đó cũng thấy đúng. Ngày đêm người đó cứ nói,
làm, đi, đứng... sao cho giống hệt thầy. Ai nói về sư thầy khác thì người đó liền
bỏ đi, giống như chỉ có vị thầy của mình là số một, là như người được Phật bổ xứ
vậy. Và còn rất rất nhiều sự dính chặt như vậy. Họ dính chặt vào thầy, vào
chùa, vào Phật đến nỗi họ quên mất mình. Họ quên luôn cả lời Phật dạy rằng tu
là tu sửa chính mình, tu là tự tu tập cái tâm của mình đâu phải tu như vị sư thầy,
tu vì cái chùa, hay tu cho Phật).
Trong
phần suy tìm của tôi, tôi đã cố thực tập gần như hết mọi cách quán xét. Tôi hy
sinh đời mình cho Giáo Pháp, bởi tôi có lòng tin chắc về hiện thực kết quả giác
ngộ và có lòng tin vào con đường Đạo dẫn đến đó, dù lâu hay mau, tôi vẫn tin tiến
trình ‘có tu tập thì có kết quả’. Những điều đó là có thực, có sự giác ngộ và
có con đường dẫn đến đó theo lý nhân quả, như Đức Phật đã nói. Nhưng để đi đến
giác ngộ chúng ta cần phải tu tập, cần phải tu tập đúng đắn. Phải thúc đẩy bản
thân mình tu hết sức mình, tu hết giới hạn khả năng của mình. Phải cần có sự
can đảm để tu tập, để suy xét, và để thay đổi một cách căn bản thiết thực. Phải
có lòng cản đảm để thực sự thực hiện những
việc
tu tập cần chí can đảm. Và làm theo cách nào? Đó là huấn luyện cái tâm này. Những
ý nghĩ trong cái đầu phàm trần của chúng ta cứ xúi chúng ta đi theo một hướng,
nhưng Phật thì chỉ chúng ta đi về hướng khác. Tại sao cần phải tu luyện? Bởi
cái tâm đang bị đóng bọc bởi một lớp ô nhiễm dày đặc. Đó là tình trạng của một
cái tâm chưa được tu sửa huấn luyện để thay đổi và chuyển hóa. Cái tâm phàm trần
lúc đó là không đáng tin cậy, do vậy đừng tin gì vào nó. Làm sao ta có thể tin
vào một cái tâm thiếu sự trong sạch và rõ sáng như vậy? Làm sao ta có thể tin
vào cái màn đêm tâm tối khi ta đâu thấy gì phía sau nó. Do vậy nên Phật đã dạy
đừng tin vào cái tâm còn ô nhiễm. Ban đầu tâm chỉ là tay sai của những thói ô
nhiễm, nhưng nó đi chung với đám ô nhiễm đó lâu ngày tâm cũng trở thành chính sự
ô nhiễm. Do đó Phật đã dạy chúng ta đừng tin vào tâm mình.
Nếu
chúng ta nhìn kỹ vào những thanh quy về tu tập trong chùa này, chúng ta sẽ thấy
toàn bộ những quy tắc đó đều vì mục đích tu tập cái tâm. Và mỗi khi chúng ta tu
tập cái tâm, chúng ta cảm thấy bực bội và khó chịu, thấy bị chúng quản chế. Ngay
khi cảm thấy bực bội và khó chịu, chúng ta bắt đầu than vãn: ''Người ơi, tu kiểu
này thực sự khó quá! Không thể nào làm được''. Nhưng Phật không nghĩ như vậy.
Phật coi mỗi lần tu tập tạo ra sự nóng bức bực bội và cọ sát khó chịu như vậy
là chúng ta đang tu đúng đường. (Vì chuyện tu tập là đi ngược lại với thói tâm,
đi ngược lại với ý muốn trước giờ của mình, cho nên nó gây ra khó chịu và bực bội).
Nhưng chúng ta lại không nghĩ vậy như Phật. Chúng ta lại nghĩ rằng chắc tu vậy
là sai rồi, bởi vậy mới làm ta khó chịu và bực tâm. Đây là sự
hiểu lầm,
và sự hiểu lầm này làm cho việc tu trở thành thứ gì đó rất gian truân, đầy ải.
Vào lúc mới tu, chúng ta thấy khó chịu, bực tâm, bực mình nên chúng ta nghĩ
mình tu sai chỗ, sai cách. Mọi người đều muốn cảm thấy tốt, nhưng ít ai quan tâm
đến việc điều đó là đúng hay sai. Khi chúng ta đi ngược lại với những thói tâm
ô nhiễm và thách đấu với dục vọng thường ngày của chúng ta, thì dĩ nhiên chúng
ta cảm thấy khó chịu và khổ mình rồi. Chúng ta thấy bực bội, thấy khó chịu và bị
bó buộc, nên chúng ta bỏ cuộc. Chúng ta nghĩ mình đang tu sai chỗ, sai cách,
sai đường. (Ta nghĩ tu là nhàn sướng chứ sao tu mà khổ như vầy). Phật thì nói vậy
mới là tu, tu như vậy là đang đi đúng đường. Chúng ta đang đối mặt với những
thói tâm ô nhiễm, và chính chúng nó là thứ đang nổi bực, nổi nóng và khó chịu.
Nhưng chúng ta cứ nghĩ lầm chính chúng ta nổi bực và khó chịu. Phật đã chỉ ra
chính những thói tâm ô nhiễm đó bị ‘làm ngược’ nên chúng bực bội, khó chịu. Ai
mà chẳng bị như vậy, khi những thói tâm của chúng ta bị ‘làm ngược’, chúng sẽ bực
mình và nổi sùng lên. (Ví dụ, thói tâm thích nhàn hạ hưởng thụ nay bị những
thanh quy tu tập trong nhà chùa bắt làm ngược lại, bắt phải chịu khó thức khuya
dạy sớm, bắt ăn uống chừng mực, mỗi ngày một bữa... thì sao nó không bực mình
và thấy khó chịu cho được). Ai cũng phản ứng vậy thôi, đó là chuyện bình thường,
nhưng chúng ta đang đi đúng con đường, đó là đi ngược lại những thói tâm cố hữu
từ hồi nào giờ của chúng ta.
Do
vậy, việc tu tập theo Giáo Pháp rất đòi hỏi sự chịu khó. Người ta thường không
biết suy xét rõ ràng. Thường thì họ lạc đường vì thích nhàn hạ sung sướng hoặc
vì thích
hành
xác khổ hạnh. Họ bị dính kẹt trong hai cực đoan đó. Một mặt họ muốn chìu lòng
cái tâm chạy theo khoái lạc trần đời. Khi thấy thích làm gì họ làm đó. Họ thích
hưởng thụ, thích ngồi chỗ mát mẻ, êm ái. Họ thích nằm dài thỏa thích. Bất cứ điều
gì họ làm họ cũng tìm cách làm dễ dàng, nhẹ nhàng và thoải mái nhất. Đó là sự
chạy theo khoái lạc: chạy theo những cảm giác tốt sướng. Nếu cứ thích sướng khoái
như vậy, tu biết chừng nào mới tiến?
Khi
chúng ta không có được tiện nghi, khoái lạc và cảm giác tốt, thì ta cảm thấy
khó chịu. Chúng ta bực bội, bực mình, bực tức và thấy khổ vì điều đó. Nhiều người
chọn cách này để chịu khổ để diệt bỏ con đường khoái lạc. Đây cũng là sự sai lầm.
Đây cũng là sự đi lệch lạc khỏi con đường Đạo, lệch theo hướng hành xác khổ hạnh.
Đây không phải là con đường bình an của bậc tu hành đi tìm sự bình an, không phải
cách của người tĩnh lặng. Phật đã khuyên dạy đừng đi lệch theo cực đoan chạy
theo khoái lạc và cũng đừng đi theo cực đoan hành xác khổ hạnh. Khi nào có sướng,
chỉ cần biết nó là vậy, biết với một sự tỉnh giác. Khi nào có khổ, chỉ cần tỉnh
giác biết đó là khổ. Khi trải nghiệm sự sân giận, ác cảm, khó chịu, chúng ta biết
nó là vậy, và biết rõ nếu chúng ta chạy theo những cảm giác đó là không theo
đúng theo bước chân của Phật. Đó không phải là con đường của những người đi tìm
sự bình an, đó chỉ là con đường của những người phàm phu trong làng, trong chợ.
Người tu hành bình an thì không bước đi theo những con đường phàm trần đó. Người
tu hành bình an đi thẳng xuống con đường trung đạo, không bước trái chạy theo
khoái lạc giác quan, cũng bước phải dấn thân vào
vũng lầy
hành xác khổ hạnh. Đó mới là con đường tu đúng đắn.
Nếu
các thầy chọn con đường tu tập theo tăng đoàn, các thầy phải giữ chắc đi theo
con đường Trung Đạo. Nói vậy là lý thuyết, chứ thực hành thì mỗi giây phút phải
tự mình giữ mình không chạy theo khoái lạc giác quan cũng không theo sự hành
xác để duy tâm. Không chạy theo sướng hay khổ. Nhưng, sướng khổ cứ bu quanh ta
và đá ta qua lại như một trái banh. Chúng ta cứ như cái con lắc trong chuông, bị
chuông đánh qua đánh lại liên tục. Con đường Trung Đạo có nghĩa thực dụng là
buông bỏ sướng và khổ, không dính chấp theo bên nào, cứ nhắm giữ mà đi một cách
tự tại, đó cách thực hành đúng đắn.
Đừng
chạy theo dục vọng, khi dục vọng được sướng khởi lên và ta không thỏa mãn nó,
ta cảm thấy khổ đau ngay thôi.
Đi
theo con đường Trung Đạo của Phật là khó và gian nan. Chỉ có hai cực đoan là sướng
và khổ, tốt và xấu. Nếu chúng ta cứ tin theo chúng, ta làm theo lời chúng. Nếu
chúng ta thấy bực tức với ai, ta cứ muốn kiếm cây kiếm gậy đánh cho được kẻ đó.
Ta không biết lẽ phải và không có sự nhẫn nhục chịu đựng. Khi ta yêu thương ai,
ta muốn chạm người đó từ đầu đến chân. Khi ghét là ghét đến cùng, khi thương là
thương đến cùng. Đúng không?. Đó là hai phía lạc khỏi lằn giữa của trung đạo.
Đó không phải đường Phật đã chỉ. Giáo lý của Phật là tu tập dần dần buông bỏ tất
cả những cực đoan quá thích và quá ghét đó. Sự tu tập của Phật là để thoát ra
khỏi những thói tâm đối đãi của thế gian, thoát ra khỏi sự hiện hữu thế tục,
thoát ra khỏi tái sinh, khỏi sinh tử-- đó là một con đường thoát
khỏi mọi
sự trở thành, nghiệp hữu, sự sinh thành, sướng, khổ, tốt, xấu, thiện và ác.
Những
người có dục vọng tham muốn được sống thì không nhìn thấy cái hay của lằn tim
đường trung đạo. Họ cứ đi lệch khỏi Con Đường, họ lạng qua bờ phải của sướng, rồi
lạng ngang qua tim đường qua bờ trái của khổ, bất toại nguyện và khó chịu. Họ cứ
lắc lư qua lại như con lắc, họ cứ chạy theo hình chữ chi, băng qua băng lại, nhưng
chẳng bao giờ giữ theo hướng tim đường ở giữa. Tim đường ở giữa là hướng đi an
toàn, nhưng họ không nhìn thấy, họ cứ lạng trái, lạng phải. Khi khổ chạy qua sướng,
hết sướng chạy qua khổ. Hết sinh đến tử, hết tử đến sinh. Họ không thích đi
theo hướng tim đường là cái hướng không sinh không tử. Họ không thích trung đạo,
không thích đi thẳng tim đường. Họ cứ muốn bỏ nhà chạy xuống đồi cho chó cắn,
hoặc chạy lên đồi cho rắn cắn. Đó chính là sự hiện hữu, là sự sống thế tục.
Nhân
loại không nhìn thấy chỗ giải thoát khỏi sinh tử khổ đau: chỗ không sinh không
tử. Tâm con người còn ngu mờ nên không nhìn thấy cái lằn giữa của trung đạo,
nên họ cứ lạng qua và lạng lại mà không bao giờ ở lại giữa tâm đường. Con đường
Trung Đạo do Phật đã bước đi, đó là con đường tu tập đúng đắn, vượt ra khỏi
sinh và tử. Tâm không còn đối đãi tốt xấu, thiện ác; và tâm như vậy là được giải
thoát. Đây là con đường của các bậc sa-môn bình an. Nếu chúng ta không bước
theo con đường đó, chúng ta đâu bao giờ trở thành một sa-môn bình an. Ta không
bước theo họ, sự bình an sẽ chẳng có cơ hội đơm hoa kết quả. Bởi vì còn sinh và
còn tử. Con đường của Phật là không còn sinh tử. Không còn cao thấp. Không còn
sướng khổ.
Không
còn tốt xấu. Không còn thiện ác. Không còn đối đãi. Đây là con đường chánh đạo.
Đây là con đường để đi đến sự bình an và tĩnh tại. Nó bình an, không còn dấu vết
của sướng khổ, vui buồn. Đó là cách-đi và mục-tiêu của việc tu hành. Khi trải
nghiệm được sự không còn đối đãi, tâm có thể dừng lại. Nó có thể dừng nghĩ suy
nghi vấn. Không còn nhu cầu gì để đi tìm câu trả lời. Ngay đó! Đó là tại sao Phật
đã nói rằng Giáo Pháp là để cho người có trí tự mình thấy biết. Không còn phải
thắc mắc hay hỏi ai nữa. Lúc đó chúng ta sẽ tự mình hiểu biết một cách rõ ràng
mà không còn một dấu vết nghi ngờ, mọi sự thực đúng là như vậy, đúng như cách
Phật đã nói chúng là như vậy.
Tu
Tập Hết Mình
Vậy
đó, tôi kể vài chuyện ngắn gọn về cách tôi đã tu. Tôi không có nhiều trí thức.
Ngày xưa tôi cũng không được học hành gì nhiều. Giờ cái tôi học là trái tim này
và tâm này của tôi, và tôi học theo một cách tự nhiên thông qua thực nghiệm,
thông qua rút kinh nghiệm từ những chỗ tu đúng, tu sai. Khi tôi thấy thích điều
gì, tôi xem xét coi điều gì đang xảy ra và nó sẽ dẫn đến đâu. Rõ ràng tôi thấy
nó lôi tôi đi xa đến chỗ khổ đau. Việc tu của tôi là quan sát chính bản thân
mình. Khi sự hiểu biết và sự nhìn thấy rõ ràng (minh sát) càng được sâu sắc
hơn, tôi càng đi đến biết rõ về chính mình hơn.
Tu
với một sự tận tâm bất thối chuyển! Nếu muốn tu tập Giáo Pháp, thì các thầy phải
bỏ bớt nghĩ suy. Nếu khi thiền tập các thầy thấy mình đang cố tu để đắc đạt kết
quả gì gì đó, thì tốt hơn nên dừng lại. Mỗi khi nào tâm được tĩnh lặng và bình
an, ta liền độc thoại: ''Nó đó! Phải đó là vậy không? Ta đạt đến tầng thiền rồi
phải không?'', nếu
nghĩ vậy
thì dừng ngay. (Bạn đang tu với vọng tưởng và tham dục). Quơ hết mọi ý nghĩ
phân tích và suy lý đó, gói nó lại và nhét xuống ngực. Đừng bao giờ lôi nó ra để
lý sự, suy lý gì gì nữa. Đó không phải là loại hiểu biết dùng để thâm nhập vào
trong tâm. Đó là những loại hiểu biết khác, đó là những hiểu biết trí thức, suy
lý, bề ngoài.
Khi
hiện thực của điều gì được nhìn thấy, nó không phải giống như đã được mô tả
trong kinh sách. Ví dụ, khi ta viết về ''tham'',
tham dục, nhục dục, dục vọng khoái lạc giác quan, thì những chữ viết đó không
thể nào chuyển tải hết ý nghĩa của thực tại của tính tham đó trong tâm. Chữ ''sân'' cũng vậy, đó chỉ là danh từ chung
ta viết để cố miêu tả những thói tâm ô nhiễm nặng đô thứ hai bên trong tâm
thôi. Chữ sân ta viết trên bảng đen, nhưng thực sự chúng ta trải nghiệm sân ra
sao thì không thể giống y như nhau. Chúng ta thậm chí không kịp đọc những chữ
viết đó khi tâm đang sân giận, điên tiếc.
Chỗ
này là chỗ cực kỳ quan trọng. Những giáo lý là đúng, nhưng điều cốt lõi là phải
biết đưa giáo lý đó vào trong tim mình. Nó phải được nội tâm hóa. Nếu Giáo Pháp
không được đưa vào trái tim thì nó sẽ không được biết một cách thực thụ. Nó sẽ
không được thấy một cách thực thụ. Tôi cũng vậy. Tôi không học rộng về kinh điển,
nhưng tôi chỉ học đủ căn bản để thi qua kỳ thi sát hạch giáo lý Phật giáo. Một
ngày kia tôi có duyên được nghe bài giảng pháp từ một thiền sư. Khi tôi nghe, một
vài ý nghĩ thiếu tôn trọng đã khởi lên. Lúc đó tôi chưa biết cách lắng nghe
Giáo Pháp. Tôi chẳng hiểu vị thiền sư lang thang đó đang nói gì. Ông ta đang
nói như thể giáo lý đó có từ kinh
nghiệm
trực tiếp của ông ta vậy, cứ như ông ta là đại diện cho sự thật vậy. Bởi vậy
nên tôi không hoàn toàn tin.
Thời
gian trôi qua, tôi đạt được ít nhiều trải nghiệm ban đầu, tôi đã tự mình nhìn
thấy sự thật cho chính mình, đó là những sự thật mà vị thiền sư kia đã nói trước
đó. Tôi hiểu được cách hiểu biết. Sau hiểu biết thì trí tuệ theo sau ngay tại
đó. Giáo Pháp đã bén rễ từ trong tâm và trái tim của tôi. Thật lâu, rất lâu sau
đó tôi mới nhận thấy được những điều vị thiền sư đó đã nói là nói từ sự tự thân
thấy biết của mình. Giáo Pháp vị ấy đã giảng là đúng trực tiếp từ sự trải nghiệm
của chính vị ấy, không phải từ kinh sách. Vị ấy nói theo sự hiểu biết và trí tuệ
nhìn thấy của chính mình. Khi tôi tự mình bước đi trên con đường Đạo, tôi đã gặp
lại mọi điều mà vị thiền sư đó đã mô tả trước đó, và tôi phải thừa nhận rằng vị
ấy đã nói đúng. Vậy đó, tôi tiếp tục tu và khám phá như vậy.
Hãy
cố gắng tranh thủ mọi cơ hội để đưa nỗ lực vào sự tu tập. Dù tu có được bình an hay không, đừng nghĩ gì lúc này. Ưu tiên hàng đầu là phải nỗ lực tu
hành, phải chuyển động bánh xe tu tập và tạo ra những nhân cho kết quả giải
thoát sau này. Nếu bạn làm đúng
việc tu tập, bạn không cần phải lo lắng
về kết quả. Đừng lo lắng tại sao ta vẫn chưa chứng đắc kết quả này nọ. Lo lắng
là bất an, là không bình an. Thử nghĩ, nếu bạn không lo tu tập đúng đắn thì lấy
gì mà trông đợi kết quả? Chỉ có người biết tu biết khám phá thì mới có thể tìm
thấy kết quả. Chỉ có người tự ăn mới tự mình biết no. Mọi thứ xung quanh đều
đánh lừa chúng ta. Đúng không, nhận biết lẽ thật này cho đến mười lần cũng
không thừa. Mọi thứ xung quanh đều đánh lừa chúng ta. Cũng một ‘sư cụ’ đó cứ
đánh lừa và giả dối với ta hoài
hoài.
Nếu chúng ta biết ổng đang nói dối, điều đó không tệ, nhưng cũng có thể phải rất
lâu sau đó ta mới nhận ra ổng nói dối. Cũng một ông bạn cũ cứ đánh lừa ta hoài
từ trước đến giờ. Mọi thứ xung quanh ta nhìn thấy hàng ngày cứ luôn đánh lừa
ta.
Tu
tập theo Giáo Pháp có nghĩa là củng cố đức hạnh (giới), phát triển định lực (định)
và tu dưỡng trí tuệ (tuệ) trong tâm ta. Tưởng niệm và quán chiếu về Tam Bảo: Phật,
Pháp, Tăng. Buông bỏ tất cả mọi thứ, không ngoại lệ thứ gì. Những hành động của
chúng ta là nguyên nhân và điều kiện [nhân và duyên] sẽ kết thành trái quả ngay
trong kiếp sống này. Do vậy, hãy nỗ lực tu với sự thành tâm.
Ngay
cả khi ngồi trên ghế chúng ta vẫn có thể tập trung sự chú tâm. Ngay lúc mới tu,
chúng ta không cần phải chú tâm đến nhiều thứ-- chỉ cần chú tâm vào hơi thở. Nếu
chúng ta thích, chúng ta có thể niệm chữ ''Buddha''
[Đức Phật], hay ''Dhamma'' [Giáo Pháp], hay ''Sangha''
[Tăng đoàn] theo nhịp hơi thở theo ý chúng ta. Khi tập trung chú tâm, nhất quyết đừng kiểm soát hơi thở. Cứ để hởi thở tự nó thở tự nhiên. Nếu hơi
thở có vẻ chậm mệt hay khó chịu thì đó là do ta đang tiếp cận nó không đúng
cách. Khi nào chúng ta còn chưa thấy thoải mái dễ chịu với hơi thở, nó cứ luôn
lúc quá ngắn, lúc quá dài, hoặc lúc sâu lúc cạn, lúc nhẹ lúc nặng. Tuy nhiên,
khi ta chúng ta thư giãn với hơi thở, chúng ta sẽ thấy dễ chịu và thoải mái, dễ
ý thức rõ từng hơi thở vào và hơi thở ra, thì lúc đó chúng ta đã theo được hơi
thở. Nếu chúng ta không làm đúng, chúng ta sẽ lạc mất hơi thở. Nếu điều đó xảy
ra, tốt hơn nên ngừng lại chốc lát, và tập trung sự chú tâm trở lại.
Nếu
trong khi thiền các thầy tự nhiên trải nghiệm những hiện tượng thần thông siêu
thường, hoặc thấy tâm bừng sáng và phát sáng, hoặc thấy hình ảnh nơi thiên cung
cõi trời, vân vân, lúc đó không cần phải sửng sốt hay sợ hãi gì hết. Cứ đơn thuần
tỉnh giác biết những gì mình đang trải nghiệm, và cứ tiếp tục thiền. Nhiều lúc,
hơi thở có thể như chậm lại hoặc như ngừng thở luôn. Có cảm nhận rằng hơi thở
dường như biến mất và người tu có thể sửng sờ hay sợ hãi về điều đó. Các thầy
có thể chỉ nghĩ rằng hơi thở đã ngừng thở. Thực ra hơi thở vẫn còn đó, nhưng nó
hoạt động ở một mức độ vi tế nhẹ tênh hơn lúc bình thường. Cứ từ từ rồi hơi thở
sẽ tự nó trở lại như bình thường.
Ngay
từ đầu, chỉ cần tập trung vào việc làm cho tâm được tĩnh lặng và bình an. Dù
đang ngồi trên ghế, đang lái xe, đang ngồi trên thuyền, hoặc đang làm gì đó,
lúc nào rảnh tay ngồi yên thì các thầy nên biết cách thiền ngay. Khi bước lên
tàu lửa vừa ngồi xuống, hãy tranh thủ đưa tâm vào trạng thái bình lặng. Dù đang
ở đâu, các thầy vẫn có thể tranh thủ ngồi thiền. Khi đã đạt đến thói quen và mức
độ thiền tập như vậy, thì coi như các thầy đã quen thuộc với con đường Đạo.
Rồi
sau đó bắt đầu tập điều tra, suy xét. Vận dụng năng lực của cái tâm đang được
bình an đó để điều tra tìm hiểu cái mình đang trải nghiệm. Có lúc, đó là cái bạn
nhìn thấy; có lúc đó là cái bạn nghe thấy, hoặc ngửi thấy, hoặc nếm thấy, hoặc
cảm thấy bằng thân (chạm thấy), hoặc nghĩ hay cảm thấy trong tâm. Bất cứ trải
nghiệm giác quan nào có mặt—dù ta thích hay không thích—cứ lấy nó để quán xét.
Cứ đơn thuần tìm hiểu và biết cái mình đang trải
nghiệm.
Đừng phóng tác ý nghĩa hay chủ quan diễn dịch về những đối tượng giác quan đó—những
đối tượng giác quan đó là để chúng ta quán xét và biết về nó, chứ không phải để
chúng ta suy diễn hay phản ứng này nọ theo nó. Nếu cái đó tốt, chỉ cần biết nó
tốt. Nếu cái đó là xấu, chỉ cần biết là nó xấu. Đó chỉ là thực tại quy ước, thực
tại của sự sống thế gian. Dù tốt hay xấu, tất cả chỉ là vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã. Tất cả đều tùy thuộc phát sinh và giả tạm, duyên sinh và có rồi
mất. Chẳng có thứ gì trong đó đáng để ta nắm giữ hay dính theo nó. Nếu các thầy
duy trì cách tu tập với sự bình an và quán xét như vậy, trí tuệ hiểu biết sẽ tự
động khởi sinh lên thôi. Tất cả mọi thứ được cảm nhận và trải nghiệm qua các
giác quan đều rớt vào ba cái lổ sâu là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Tất
cả không ngoài ba dặc tính bao trùm đó của mọi sự sống. Ngay chỗ này chính là
thiền minh sát (vipassanā). Tâm đã được
bình an, và hễ khi có trạng thái ô nhiễm nào nổi lên trong tâm, thì ta giục nó
vào ba cái lổ rác đó, (giống như người ở trên nhà cao tầng quăng bịch rác vào ống
đỏ rác để nó rớt xuống thùng rác dưới đất để người ta chở đi bỏ vĩnh viễn). Khi
có trải nghiệm nào hay nhận thức (niệm, vọng tưởng) nào khởi lên, dẹp bỏ nó
ngay, bởi nó chắc chắn là vô thường, khổ, và chẳng là gì cả. Đây là chỗ cốt lõi
của thiền minh sát (vipassanā): giục
bỏ, dẹp bỏ tất cả mọi thứ vào ba lổ rác “vô thường, bất toại nguyện (khổ), và vô
ngã”. Tốt, sướng, xấu, kinh khủng, ghê tởm, hay bất cứ là gì, giục bỏ hết xuống
hố rác. Không bao lâu sau đó, sự hiểu biết và trí tuệ minh sát sẽ nổi lên ngay
chính giữa đồng rác bao trùm của của ba đặc tính đó—đó là trí tuệ mới hé lên,
như ánh sáng hừng đông mới hé sáng mờ mờ ở nơi chân trời xa. Ở giai đoạn ban đầu
này,
trí tuệ vẫn còn yếu và mới hé, nhưng chính lúc này các thầy phải duy trì sự tu
tập một cách đều đặn, kiên định. Chỗ này thực tế, nhưng khó diễn đạt bằng lời;
nhưng ví dụ thì rất dễ: cũng giống như có người muốn biết nhiều về tôi, thì người
đó đến đây ở đều đặn và thường xuyên, rồi dần dần sẽ biết rõ về tôi. Cứ tu và
duy trì trạng thái hé mở trí tuệ đó, dần dần trí tuệ siêu việt hơn sẽ tự khởi
sinh và sáng bừng hơn trong tâm bạn. Lý tu chỗ này là vậy. Sự đều đặn và kiên định.
Tôn
Trọng Truyền Thống, Truyền Thừa
Thời chúng ta bắt đầu thiền tập là
thời cao đẹp nhất của đời người. Thiền để hiểu biết, thiền để buông bỏ, thiền để
từ bỏ, và để được bình an.
Tôi
đã từng là một tu sĩ lang thang. Tôi đi bộ trên chân trần đến gặp các sư thầy
và tìm nơi ẩn dật để tu. Lúc đó tôi chẳng bao giờ đi dạo quanh làng xóm hay phố
thị để giảng pháp giảng đạo gì cả. Tôi chỉ lo đi tìm nơi để lắng nghe giáo pháp
do những vị thiền sư bậc chân tu lúc đó giảng dạy. Tôi không đi đến đâu để dạy
ai cả. Tôi lắng nghe tất cả mọi lời khuyên dạy họ nói cho ra. Ngay cả những điều
những tu sĩ trẻ măng hoặc các chú tiểu cố nói với tôi về Giáo Pháp, tôi cũng lắng
nghe một cách kiên nhẫn. Tuy nhiên, ít khi nào tôi nhảy vào lý luận hay phân giải
với nhau về Giáo Pháp. Tôi chẳng thấy có ích gì nếu cứ nhào vô bàn thảo lý sự về
giáo lý cho hết giờ hết ngày. Có giáo lý nào tôi đã chấp nhận thì tôi đi thẳng
vào đó, đi thẳng vào ngay chỗ chúng chỉ ra sự từ bỏ và sự buông bỏ. Bất cứ điều
gì tôi làm, tôi làm vì sự từ bỏ và sự buông bỏ. Tôi tu tập mọi thứ vì mục đích
hướng đến sự từ bỏ và sự buông bỏ. Chúng ta không cần phải trở thành chuyên gia
về
kinh điển. Chúng ta đang già đi sau mỗi ngày trôi qua, và mỗi ngày chúng ta cứ
chụp lấy vọng tưởng, bỏ quên mất sự thực. Tu tập theo Giáo Pháp là điều khác hẳn
với việc học Giáo Pháp. Học giáo lý là một chuyện, thực hành nó là chuyện khác.
Tôi
không chê bất kỳ dạng nào trong đa dạng những kiểu cách và kỹ thuật thiền tập
đang có khắp nơi. Chừng nào chúng ta hiểu đúng mục đích và ý nghĩ thực thụ của
các pháp môn đó, thì chúng cũng không sai. Tuy nhiên, nếu chúng ta tự nhận mình
là một thiền nhân Phật giáo mà chúng ta không tuân thủ nghiêm túc theo tinh thần
của giới luật tăng đoàn (Vinaya) thì,
theo tôi, sẽ không thành công gì đâu. Tại sao? Bởi làm vậy chúng ta đã cố bỏ
qua phần sống động nhất của con đường Đạo. Bỏ qua phần nào trong Giới, Định, Tuệ
thì cũng không đi đến đâu. Một số người khuyên các thầy đừng dính vào sự tĩnh lặng
có được từ thiền định (samatha): ''Đừng
đụng đến thiền định; cứ tiến thẳng đến tiền minh sát (vipassanā), cứ tiến thẳng đến trí tuệ và minh sát tuệ''. Tôi không
nghĩ vậy, có lẽ không có con đường đó, bởi nếu chúng ta cố đi tắt để tu thẳng
thiền minh sát, chúng ta sẽ thấy không thể nào đi đến đích một cách thành công.
Đừng
bỏ cách tu và những kỹ thuật thiền mà những vị thiền sư lỗi lạc của phái Thiền
Trong Rừng ở xứ này đã truyền dạy, đó là những vị thầy như sư Ajahn Sao, Ajahn Mun,
Ajahn Taungrut, và Ajahn Upali. Họ đã tự mình dày công tu tập và chỉ lại cho
chúng ta; con đường tu của họ rõ ràng là đáng tin cậy và đúng thực— nếu chúng
ta biết tu và chịu tu đúng theo cách họ đã tu và chỉ lại. Nếu chúng ta bước
theo những bước nhân của họ, chúng ta sẽ đạt đến trí
tuệ
minh sát đích thực để soi chiếu vào bên trong chúng ta. Ajahn Sao luôn hoàn thiện
tuyệt vời về mặt đức hạnh. Thầy ấy chủ trương chúng ta không được lơ là chút
nào về phần giới hạnh. Nếu những sư thầy kiệt xuất của phái Thiền Trong Rừng
khuyên dạy chúng ta tu thiền và tuân giữ giới luật tăng đoàn theo hướng nào đó,
thì chúng ta nên kính trọng và tu đúng theo lời họ khuyên dạy. Điều gì họ dạy
chúng ta nên làm, chúng ta nên làm theo. Nếu điều gì họ dạy chúng ta phải bỏ bởi
nó sai lạc, thì chúng ta nên bỏ. Chúng ta tu theo họ với một lòng tin vào họ.
Chúng ta tu theo họ với hết mực sự thành tâm và kiên định. Chúng ta tu cho đến
khi tự mình nhìn thấy Giáo Pháp trong tâm chúng ta, cho đến khi chúng ta là một với Giáo Pháp. Đó là điều các Thiền
Sư của nhánh Thiền Trong Rừng đã dạy. Những đệ tử bao đời đã tỏ lòng kính trọng
và mến phục sâu sắc đối với họ, bởi vì sao, bởi vì những vị đệ tử đã tu theo lời
họ và đã nhìn thấy những vị thầy đã nhìn thấy.
Hãy thử tu. Hãy thử tu theo lời tôi mới nói. Nếu các thầy
thực sự tu theo đường này, các thầy sẽ nhìn thấy Giáo Pháp, trở thành là Giáo
Pháp. Nếu các thầy thực sự tiến hành việc tìm kiếm, đâu có gì cản trở các thầy
đâu? Những
ô nhiễm trong tâm sẽ bị đánh bại nếu các thầy biết tiếp cận
chúng với một chiến lược đúng đắn: hãy làm người biết từ bỏ, hãy làm người biết
tiết kiệm lời nói, làm người biết hài lòng với sự thiếu ít tiện nghi (tri túc),
và hãy làm người dẹp bỏ tất cả mọi quan điểm và ý kiến (tà kiến, ý kiến, thành
kiến, tư kiến...) xuất phát từ tính tự ta và tự đại của mình. Làm vậy,
rồi các thầy sẽ trở thành người có khả
năng kiên nhẫn lắng nghe lời của người khác nói, ngay cả khi điều họ đang nói
là sai. Các thầy cũng có khả năng kiên nhẫn lắng nghe người khác
nói
khi họ đang nói đúng. Hãy xem xét chính bản thân mình theo cách như vậy. Tôi bảo
đảm với các thầy, cách này là có thể làm được, có thể thành công, nếu các thầy
chịu khó thực tập. Tuy nhiên, những học giả thường ít khi đi đến áp dụng giáo
lý vào thực hành; họ học kinh điển chứ ít chịu tu. Cũng có một số chịu tu thiệt,
nhưng rất hiếm. Thiệt là uổng và đáng buồn. Sự thật các thầy đã cất công đi xa
đến đây để thăm chùa là rất đáng khen ngợi. Điều đó cho thấy nội lực bên trong
của các thầy. Một số chùa chiền chỉ dạy khuyến dạy về giáo lý. Các tu sĩ cứ học
và học suốt ngày đêm, không bao giờ ngừng, chẳng bao giờ dừng lại chỗ cần phải
dừng. Họ cứ lu bu học chữ ''bình an''. Nhưng nếu biết ngừng lại và tĩnh tại thì
ta mới có thể khám phá điều chân thực giá trị. Đó là cách các thầy nên tìm kiếm.
Sự tìm kiếm đó mới thực sự có giá trị và hoàn toàn tĩnh tại, bất động. Cách đó
mới đi thẳng vào những điều mình đang đọc từ sách. Nếu các học giả không chịu
thiền tập thì sự hiểu biết thực sự của họ là rất ít ỏi. Một khi họ đã đưa các
giáo lý vào thực hành, thì những điều họ đã học sẽ trở thành sống động và rõ
sáng.
Do
vậy hãy bắt đầu thực tập! Hãy phát triển loại hiểu biết có được từ thực hành.
Hãy thử vào tu trong rừng và hãy đến ở trong những túp lều nhỏ bé ở đây để tu tập.
Thử thực tập một thời gian và tự mình thử nghiệm coi nó có thực sự có giá trị
nhiều hơn bao nhiêu lần so với việc đọc sách suông. Rồi lúc đó các thầy có thể
tự mình luận giải với chính mình. Khi ta đang quán sát cái tâm, nó giống như
đang buông bỏ và an nghỉ trong một trạng thái tự nhiên vậy. Khi những thứ lăng
xăng và động vọng dưới dạng những ý nghĩ và khái niệm khởi lên từ trạng thái
tĩnh
tại tự
nhiên của tâm, thì tiến trình điều kiện (tác động, duyên tác) của hành tạo tác
(sankhāra) đang được vận động. Hãy cẩn
thận và để mắt đến tiến trình điều kiện (duyên tác) này. Khi tâm chuyển động và
nó bị thúc đẩy ra khỏi trạng thái tĩnh tại tự nhiên của nó, thì việc tu tập không
còn đi đúng đường. Tâm đã ra khỏi trạng thái tĩnh tạo tự nhiên và chạy theo
khoái sướng hoặc dấn thân vào hành khổ. Ngay chỗ đó. Ngay chỗ đó làm sinh ra một
mê trận chằng chịt vô số những sự tạo tác của tâm. Nếu trạng thái tâm đang tốt,
nó tạo ra những điều kiện duyên tác tốt, tích cực. Nếu tâm đang trong trạng
thái xấu, sự tạo tác của nó là xấu, tiêu cực. Những điều xấu tốt này đều xuất
phát từ cái tâm của chúng ta.
Tôi
muốn nói với các thầy rằng, quán sát sâu sát về cái tâm của mình là một điều rất
hay, rất thú vị. Tôi có thể nói về một đề tài duy nhất này suốt ngày mà không
thấy chán. Khi ta có thể hiểu biết được những cách hành xử của tâm, ta sẽ thấy
được cách tiến trình này vận hành và cách nó liên tục đi qua trong tiến trình bị
‘tẩy não’ bởi những thứ ô nhiễm của tâm. (Cứ giống như từng sợi vải của muôn
vàn sợi vải lần lượt bị thắm nhuộm khi miếng vải đi qua chỗ thuốc màu vậy). Tôi
nhìn thấy tâm hình như chỉ như là một điểm duy nhất. Những trạng thái tâm lý
(tâm sở) là những khách khứa đến thăm cái điểm duy nhất này. Có lúc người này đến
gọi, có lúc người khác đến thăm. Giống như tất cả họ cứ đến một điểm trung tâm
của lữ khách. Các thầy hãy huấn luyện cái tâm quan sát và biết tất cả những
khách khứa (tâm sở) đó bằng đôi mắt của sự tỉnh giác tỉnh thức. (Quan sát liên
tục và khách quan như cách người gác gian ngồi quan sát chỗ ra vào, hoặc quan
sát
màn hình máy quay hình vậy). Đây là chính là cách chúng ta chăm nom và coi sóc
trái tim và cái tâm của mình. Khi có một khách đến gần, chúng ta vẫy tay kêu họ
biến đi chỗ khác. Nếu chúng ta thường trực quan sát và không cho ai bước vào,
thì làm sao họ vào ngồi bên trong nhà được? Cứ dành hết thời gian ngồi quan sát
ngay một điểm này. (Đó là quan sát trực tiếp ngay cái tâm mình. Khi có hiện tượng
tâm (tâm sở) xảy đến, đánh đuổi chúng đi; khi có nhận thức này nọ (niệm, vọng
tưởng) khởi lên, dẹp bỏ nó ngay).
Đây
chính là loại tỉnh giác vững chắc và bất lay chuyển của Đức Phật; loại tỉnh
giác dùng để quán sát và phòng hộ cái tâm. Các thầy đang ngồi ở đây. Từ lúc
chui ra khỏi bào thai, từng mọi khách khứa đều đến gọi thăm ngay tại chỗ này.
Dù đến ít hay đến nhiều, tất cả họ đều đến ngay tại điểm này. Đức Phật biết tất
cả họ, sự tỉnh giác của Phật ngồi ngay đó một mình, vững chắc và bất lay động.
Khách khứa khắp nơi (ô nhiễm) cứ tìm đến gây tác động, tạo tác, điều kiện và
làm lay động chao đảo cái tâm bằng nhiều nhiều cách khác nhau. Khi chúng có thể
làm cho tâm dính vào những mớ lăng xăng đủ các loại của chúng, lúc đó những trạng
thái tâm lý (tâm sở) khởi sinh lên. Dù những mớ lăng xang đó là gì, dù vấn đề
tác động của chúng là gì, hễ khi nào những thứ khách khứa đó có vẻ đang dẫn dắt
tâm này nọ, ta cứ quên mặc nó ngay – chẳng hại gì hết. Ngay khi có khách đến
thăm, cứ đơn giản biết khách đó. Biết xong quên mặc họ đi. Một khi họ bước vào,
họ nhìn thấy chỉ có một chỗ ngồi duy nhất, và khi nào ta còn đang ngồi ghế đó,
thì họ chẳng bao giờ có chỗ nào để ngồi trong đó. (Không để tâm đến khách,
không nể mặc
vị khách
nào hết, không nhường chỗ cho ai hết; không để cho bất cứ thứ gì có thể ở lại
hay trụ lại bên trong cái tâm). Mấy loại khách khứa đó nghĩ họ đi đến đây để
nhiều chuyện, tán gẫu, chọc ghẹo, nhưng lần này họ thấy chẳng có chỗ nào để họ
ngồi lê đôi mách. Họ sẽ bỏ đi, vì bị bỏ mặc, vì bị đuổi khéo. Lần sau họ lại
kéo đến cũng thấy không có cái ghế nào trong nhà để ngồi. Đám nhiều chuyện đó cứ
muốn kéo đến bao nhiêu lần kệ mặc họ, hễ khi nào họ kéo đến họ lại thấy chỉ có
duy nhất một chỗ ngồi và duy nhất một tay gác gian đang ngồi như trời trồng
ngay tại chỗ ngồi duy nhất đó và quan sát họ. Ta không hề nhúc nhích chút nào,
ta ngồi yên trên chiếc ghế duy nhất đó. Các bạn nghĩ những khách đó sẽ tiếp tục
tới lui trong bao lâu nữa? Còn bao nhiêu khách khứa đó sẽ đến nữa và ta còn phải
liên tục ngồi một mình quan sát ngay tại chỗ duy nhất đó? Mọi người và mọi thứ
và mọi sự mà bạn đã từng biết kể từ sau ra đời trải nghiệm thế giới này, tất cả
họ đều sẽ đến thăm. Ta cứ đơn thuần ngồi quan sát và tỉnh giác ngay tại chỗ đó
là đủ, chỉ cần làm như vậy là đủ để nhìn thấy Giáo Pháp một cách toàn diện. Ta
cứ luận lẽ, quan sát và quán xét với chính mình.
Đây
cũng là cách chúng ta đang nói bàn về Giáo Pháp. Tôi không biết cách nói sao
cho khác, không biết nói gì khác. Tôi có thể tiếp tục nói giảng theo kiểu này,
có thể nói thêm nhiều hơn nữa cho các thầy, nhưng rốt cuộc đây cũng chỉ là việc
nói và nghe. Tôi muốn khuyên các thầy hãy thực sự đi thực hành, thực sự đi thiền
tập thì mới thấy biết thực thụ.
Nắm
Vững Về Thiền Tập
Nếu
tự mình nhìn, mình sẽ tự mình gặp một số trải nghiệm. Có một con đường Đạo hướng
dẫn và chỉ hướng cho ta đi. Khi các thầy bước đi, nhiều tình huống đổi thay thì
các thầy phải biết cách tiếp cận để xử lý những vấn đề khó khổ khởi sinh. Có thể
phải mất rất lâu trước khi các thầy có thể nhìn thấy rõ ràng một cái cột biển
báo chỉ đường. Nếu các thầy bước đi theo con đường Đạo mà tôi đã đi, chuyến đi
của các thầy sẽ diễn ra bên trong tâm của các thầy. Nếu không phải vậy, các thầy
sẽ gặp rất nhiều chướng ngại khó khăn.
Cũng
giống như việc nghe một âm thanh. Sự nghe là một chuyện, âm thanh là một chuyện,
và chúng ta tỉnh giác ý thức rõ hai thứ nhưng không ghép hai sự kiện đó như một.
Chúng ta dựa vào tự nhiên cung cấp những nguyên liệu để chúng ta điều tra tìm
thấy Sự Thật. Cuối cùng tâm tự nó phân tách và phân loại những hiện tượng. Nói
đơn giản và thực tế hơn, tâm không tham gia hay dính vào những thứ đó. Khi tâm
nhận lấy âm thanh, ta nên quán sát điều gì xảy ra trong trái tim và tâm của
chúng ta. Liệu trái tim và tâm của ta có bị tác động, có bị cuốn hút, hay bị
dính theo âm thanh đó hay không? Tâm và trái tim có bị kích thích khi nghe âm
thanh đó không. Ít nhất ta cũng biết được điều đó. Đến khi một âm thanh đến tai
ta, nó không quấy nhiễu cái tâm. Ngay tại đây, chúng ta ghi nhận những thứ đó
ngay đây chứ không phải từ xa. Ngay cả khi chúng ta muốn chạy trốn khỏi âm
thanh đó, chúng ta cũng không trốn được. Cách trốn thoát có thể làm được là
thông qua việc tu tập cái tâm để cho nó không động vọng khi đối diện với âm
thanh đó. Cứ mặc kệ âm thanh đó. Những âm thanh chúng ta buông bỏ, chúng ta vẫn
còn
nghe
chúng. Chúng ta nghe nhưng chúng ta đã buông bỏ nó, bởi chúng ta đã mặc kệ nó rồi.
Không phải rằng chúng ta phải cố sức phân tách sự nghe và âm thanh ra khỏi nhau.
Nó tự tách ra một cách tự động nhờ sự dẹp bỏ và buông bỏ. Ngay cả khi lúc đó
chúng ta muốn dính theo âm thanh đó, tâm cũng không hề dính theo. Bởi tâm đã
buông bỏ và dẹp bỏ, nên tự động nó không còn dính theo âm thanh đó nữa. Bởi khi
chúng ta đã hiểu biết bản chất đích thực của những hình sắc, âm thanh, mùi
hương, mùi vị, và tất cả những thứ khác, và tâm nhìn thấy trí tuệ minh sát rõ
sáng, thì tất cả mọi thứ được cảm nhận sẽ tự động rớt ngay xuống cái hố mênh
mông của ba đặc tính bao trùm vũ trụ [vô thường, khổ, vô ngã], không loại trừ
thứ gì.
Mỗi
khi ta nghe một âm thanh, âm thanh đó sẽ được hiểu biết theo phạm quy của những
đặc tính bao trùm thế gian đó. Khi có sự tiếp xúc cảm nhận ở tai thì ta nghe âm
thanh, nhưng như là ta không nghe. (Nghe mà không chấp gì nó, nghe mà không
dính gì theo nó, nghe với sự buông bỏ). Không phải nghe như không nghe thấy gì
có nghĩa là tâm không còn hoạt động. Sự chú tâm chánh niệm và cái tâm đan quyện
và hợp nhất với nhau để quán sát lẫn nhau liên tục xuyên suốt không một chút
sai sót. Khi tâm đã được tu tập đến trình độ này thì dù con đường hay cách tu
nào chúng ta chọn để đi, chúng ta cũng sẽ tu theo kiểu điều tra quán sát để tìm
hiểu và tìm thấy sự thật. Chúng ta sẽ luôn tu dưỡng việc điều tra phân tích các
hiện tượng— đây là một trong những yếu tố (giúp) giác ngộ, và sự điều tra phân
tích đó (trạch pháp) sẽ tiếp tục tiến triển theo cái đà của chính nó.
Thảo luận Giáo Pháp với chính mình. Tháo gỡ và bung thả mọi
cảm giác, trí nhớ, nhận thức, suy nghĩ, ý hành, và tâm thức. Không có gì có thể
đụng đến chúng khi chúng tiếp tục tự vận hành theo đường lối riêng của chúng. Đối
với những người đã biết nắm vững cái tâm, tiến trình quán xét và điều tra này tự
trôi chảy một cách tự động. Lúc này không còn cần thiết phải điều khiển nó theo
ý mình.
Dù tâm có thiên (ngã, hướng) về mảng (vấn đề, phạm vi) nào đi nữa, sự quán xét
sẽ lập tức có mặt theo sát một cách nhạy bén.
Khi người tu đã tu tập được đến trình độ này, nhiều lợi
ích phụ cũng tự nhiên có được. Ví dụ như khi ngủ, người ấy không còn những tật
ngủ ngáy, không còn lăn lộn trở mình như trước đó. Ngay cả khi người ấy ngủ say
sưa, khi thức dậy không bị ngái ngủ hay nhừ nhừ. Tu được đến lúc đó, chúng ta
luôn tỉnh thức, cứ như ta luôn luôn thức chứ không ngủ vậy. Tôi từng bị tật ngủ
ngáy, nhưng khi tâm luôn duy trì tỉnh thức thì tật ngáy đó không còn. Làm sao
chúng ta có thể ngáy trong khi tâm mình luôn tỉnh thức? Lúc đó ta ngủ chỉ là
thân ngừng lại và nghỉ ngủ; chứ tâm thì vẫn tỉnh thức. Tâm tỉnh thức cả ngày và
đêm, suốt hai mươi bốn giờ. Đây chính là loại tỉnh giác tinh khiết và cao sâu của
Đức Phật: là cái Người Biết, Người Tỉnh Giác, Người Hạnh Phúc, Người Tỏa Sáng.
Sự tỉnh giác sáng rõ này không bao giờ ngủ. Năng lượng của nó tự duy trì, và nó
chẳng bao giờ mờ tối hay ngái ngủ. Đến giai đoạn này, người tu có thể đi liên tục
hai, ba ngày mà không cần ngừng nghỉ. Lúc này, khi nào thân bắt đầu có dấu hiệu
kiệt sức, chúng ta ngồi xuống thiền và chỉ cần sau năm hay mười phút ta sẽ đạt
định thâm sâu. Khi
chúng
ta thoát ra khỏi trạng thái định sâu đó, chúng ta cảm thấy tươi mới, khỏe khoắn
và đầy năng lượng tái tạo, giống như chúng ta mới ngủ sâu nguyên một đêm vậy. Nếu
chúng ta vượt qua (không còn) nhiều sự quan tâm lo lắng đối với thân, thì việc
ngủ nghỉ không còn nhiều quan trọng nữa. Lúc này, chúng ta vẫn còn chăm sóc
thân bằng những cách đúng đắn (như ăn uống, tắm rửa, thuốc thang...), nhưng
chúng ta không còn lo âu khổ đau về tình trạng thể chất của thân nữa. Chúng ta
chấp nhận nhìn nó đi theo những quy luật tự nhiên của nó. Chúng ta không còn
khiến hay chỉ bảo thân thể phải như này như nọ. Nó tự chỉ bảo nó. Dường như có
ai đó đang thúc giục chúng ta, thúc bách chúng ta phải nỗ lực tinh tấn hơn nữa.
Ngay cả khi ta thấy lười biếng, dường như luôn có giọng nói nào đó bên trong
thúc đẩy chúng ta siêng năng tinh tấn. Sự đình trệ lúc này khó có thể xảy ra, bởi
sự nỗ lực và tinh tấn đã hợp thành một cái đà mạnh mẽ khó dừng lại được. Giống
như những nguồn nước chảy nhanh đang hợp lại thành dòng chảy mạnh thì khó mà dừng
lại hay chảy ì ạch. Các thầy hãy tu và tự mình kiểm nghiệm thấy chỗ này. Các thầy
đã học và nghiên cứu kinh sách từ lâu rồi. Giờ là đến lúc các thầy hãy học và
nghiên cứu chính bản thân mình.
Vào
lúc bắt đầu bước vào tu tập, sự tách ly hay ẩn dật là cần thiết quan trọng. Khi
các thầy sống một mình ở nơi ẩn lánh các thầy sẽ tưởng nhớ đến lời của ngài Xá-Lợi-Phất:
''Sự sống tách ly về thân là nhân duyên làm khởi sinh sự tách ly về tâm, đó là
những trạng thái định sâu (samādhi)
thoát khỏi tiếp xúc giác quan với cảnh trần bên ngoài. Đến lượt nó, sự tách ly
của tâm là một nhân duyên
dẫn đến
sự tách ly khỏi những ô nhiễm của tâm, dẫn đến giác ngộ''. Và, như vậy đó nhưng
vẫn có nhiều người cho rằng sự tách ly ẩn dật là không cần thiết quan trọng. Họ
lý sự như vầy: ''Nếu tâm của bạn bình an, thì nó không quan trọng bạn đang ở
đâu''. Điều đó là đúng, không sai; nhưng nó đúng chỗ khác, nó đúng đối với người
đã thực sự bình an. Còn trong những giai đoạn mới tu tập, khi người tu còn chưa
được chút bình an nào, thì sự tách ly về thân ở một môi trường ẩn dật hay tĩnh
mịch là điều cần có trước tiên. Ngay từ hôm nay, hoặc ít lâu sau, hãy tìm một
nơi như nghĩa trang vắng vẻ gần khu rừng núi, cách xa làng mạc phố xá. Thử nghiệm
sự sống một mình coi thử. Hoặc có thể tìm một đỉnh núi cao vót hoang vu và đáng
sợ. Lên đó sống một mình, được không? Các thầy sẽ có nhiều điều thú vị trong suốt
đêm dài ở đó. Chỉ có như vậy, chỉ có trải nghiệm sống một mình như vậy, các thầy
mới tự mình biết. Thậm chí bản thân tôi trước đây cũng từng cho rằng việc sống
tách ly ẩn dật là không cần thiết. Đó là tôi nghĩ vậy, nhưng sau đó tôi đã thực
sự đến sống tu ở nơi hẻo lánh tách ly một mình, tôi mới suy xét quán chiếu lại những
lời Phật đã dạy. Đức Thế Tôn đã khích lệ các đệ tử đến sống tu ở những nơi hẻo
lánh, tách ly khỏi đời sống xã hội. Ngay từ đầu, việc sống tách ly về thân sẽ tạo
nên nền tảng giúp tạo ra sự tách ly về tâm; và sự tách ly về tâm này sẽ giúp tạo
ra sự tách ly khỏi những ô nhiễm. (Thân lánh trần sẽ giúp tâm cũng lánh trần;
tâm lánh trần giúp nó lánh xa trần cảnh và nhiều ô nhiễm).
Ví
dụ, nếu bạn là Phật tử tại gia sống với gia đình và nhà cửa. Làm sao bạn có sự
tách ly ẩn dật nào? Khi vừa quay về nhà, vừa bước vào bạn đã gặp phải đủ chuyện
sinh sống,
phức tạp. Điều này là không có được sự tách ly thân. Do vậy, nếu bạn bỏ trốn đi
tham dự một khóa tu ở một nơi xa lánh, môi trường ở đó khác hẳn, như vậy mới có
thể bắt đầu tu được. Cần phải hiểu rõ tầm quan trọng cửa việc sống tách ly thân
và sống một mình ở một nơi nào đó trong giai đoạn đầu tu tập. Làm như vậy trước,
rồi sau đó mới đi tìm thiền sư hướng dẫn thiền tập cho mình. Vị thầy sẽ hướng dẫn,
khuyên dạy, và chỉ ra những chỗ các thầy còn hiểu sai, bởi vì rõ ràng thường những
chỗ chúng ta sai là những chỗ ta nghĩ mình nghĩ đúng. Vị thầy bậc chân tu sẽ chỉ
ra đúng những chỗ ta hiểu sai, chỗ sai là chỗ ta thường cho là đúng chắc. Sau
khi vị thầy giảng giải, ta sẽ hiểu được chỗ sai; ngay đó chúng ta mới có thể
nhìn ra chỗ chúng ta sai mà chúng ta cứ nghĩ là mình đúng.
Từ
chỗ tôi nghe được, có một số học giả Phật giáo luôn nghiên cúu và tìm tòi trong
kinh điển. Chẳng có lý do gì chúng ta không nghiên cứu, suy nghiệm. Lúc khi cần
học hỏi kinh sách, chúng ta mở kinh sách học theo kiểu đó. Nhưng đã đến lúc
chúng ta phải thực hành, đã đến lúc phải cầm võ khí và xông vào chiến trận, thì
lúc đó chúng ta phải xông vào chiến đấu, phải làm thiệt chứ không phải theo
cách của sách vở, lý thuyết. Khi đã lao vào trận chiến thì phải chiến đấu thiệt
với trận chiến của mình, không phải chiến đấu theo những gì đọc được từ sách vở.
Nếu chiến đấu bằng những lý thuyết sách vở thì ta sẽ thua các đối thủ. Đã là
chiến sĩ thì chiến đấu bằng sự nhiệt huyết và thành tâm, là chiến đấu thiệt
theo kiểu thiệt, vượt khỏi lý thuyết sách vở. Đó là cách chúng ta bước vào tu,
tu thiệt. Những lời kinh Phật trong kinh điển chỉ là những hướng dẫn lý thuyết
và những tấm gương để chúng ta noi
theo.
Việc học kinh học sách đối khi dẫn đến sự ỷ y, bất cẩn, coi thường thực tế. Thực
tế mới là điều cần phải tu.
Con
đường tu của các Thiền Sư nhánh Thiền Trong Rừng này là con đường từ bỏ. Trên
con đường Đạo này chỉ có sự từ bỏ. Chúng ta nhổ sạch tận gốc những quan điểm xuất
phát từ ‘cái ta’, từ sự tự ta tự đại. Chúng ta nhổ tận gốc cái cốt lõi của cái
quan niệm và cảm nhận về một ‘cái ta’, nhổ sạch ngã chấp. Tôi bảo đảm rằng,
cách tu này sẽ thách thức các thầy đến tận xương tủy; nhưng dù có khó khăn, dù
có tu nổi hay không, các thầy đừng vứt bỏ những vị Thiền Sư Trong Rừng và những
giáo lý của những vị ấy. Nếu không có sự hướng dẫn đúng đắn, cái tâm và sự định
tâm (samādhi) sẽ rất dễ lẫn lộn, mù mờ,
lầm lẫn. Những thứ không nên xảy ra sẽ bắt đầu xảy ra. Tôi đã luôn luôn tiếp cận
những hiện tượng đó với một sự cẩn thận và kỹ càng. Thời còn là tu sĩ trẻ, khi
mới bắt đầu tu tập được vài năm, tôi không thể nào tin tưởng cái tâm mình. Tuy
nhiên sau này, khi tôi đã đạt được nhiều kinh nghiệm và có thể toàn tin tưởng sự
hoạt động của cái tâm thì lúc đó không còn nhiều khó khăn. Thậm chí ngay khi có
những hiện tượng lạ thường hiển hiện lên, tôi cứ để mặc nó ở đó. Nếu chúng ta
biết ‘tẩy’ cách mọi sự khởi sinh, thì tự chúng sẽ tự động biến mất. Tất cả
chúng lúc đó chỉ là nhiên liệu để nấu thành trí tuệ. Rồi cứ tu như vậy, thời
gian trôi qua, chúng ta nhận thấy bản thân mình hoàn toàn thư thái, bình an.
Trong
thiền, những điều thường là không sai có thể đều là sai. Những điều ta thường
được cho là đúng có thể là sai, chỉ do ta ngộ nhận mà thôi. Ví dụ, khi ta ngồi
xuống tréo chân với quyết tâm và thệ nguyện: ''Được rồi! Không nhúc nhích cục cựa
đâu hết. Ta sẽ tập trung tâm. Hãy xem
ta sẽ
làm được''. Cái kiểu bắt tay vào việc như vậy là không ăn! Mỗi lần tôi thử làm
quyết tâm như vậy thì sự thiền của tôi chẳng ra sao. Thói thường chúng ta thích
làm ra vẻ cản đảm, kiên quyết. Nhưng mấy cái trò kiên quyết kiên tâm kiểu đó
không giúp gì được đâu. Từ sự quan sát để ý của tôi, tôi thấy sự thiền sẽ tự nó
tiến triển theo tốc độ nhanh chậm của nó. Rất nhiều buổi tối tôi ngồi xuống thiền
và tự thệ nguyện rằng: ''Được rồi tối nay ta ngồi thiền! Tối nay ta sẽ không rời
khỏi chỗ ngồi trước 1:00 giờ sáng''. Ngay cả với cái ý nghĩ thệ nguyện này, tôi
đã đang tạo nghiệp xấu cho mình, bởi vì tôi đâu ngồi được lâu như đã thệ nguyện
đâu, khi chân bắt đầu đau nhức mọi phía, tôi cảm thấy đau như sắp chết và lẽ
nhiên là bỏ cuộc liền. Tuy nhiên, sau này khi đã thiền tập suông sẻ trơn tru,
tôi có thể ngồi thiền rất lâu. Tôi không cần phải đặt ra mục tiêu là 7:00 giờ,
8:00 giờ, 9:00 giờ hay 1:00 giờ gì gì nữa, thay vì vậy tôi chỉ đơn thuần ngồi
thiền, cứ duy trì sự ngồi thiền, buông bỏ mọi ý nghĩ với một sự buông xả. Đừng
thúc ép sự thiền. Đừng cố gắng phỏng đoán hay diễn dịch điều gì sẽ xảy ra trong
khi thiền tập. Đừng ép uổng cái tâm mình bằng những yêu cầu không thực tế, ví dụ
như bắt tâm phải đạt định sâu, phải nhập định mức này mức nọ - nếu làm vậy bạn
sẽ thấy tâm sẽ khó chịu, động vọng và khó lường khó đoán hơn bình thường. Cứ để
cho trái tim và cái tâm thư giãn, thoải mái và thư thái.
Cứ
để cho hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng dễ dàng theo nhịp của nó, dù ngắn hay dài. Đừng
cố làm điều gì đặc biệt. Đừng xía vô hơi thở. Để cho thân thư giãn, thoải mái
và yên ả. Rồi tiếp tục tu tập như vậy. Tiếp tục tu như vậy, nhưng rồi tâm ta lại
lăng xăng hỏi: ''Tối nay mình ngồi
thiền
đến bao lâu? Khi nào ta sẽ nghỉ?''. Nó cứ lăng xăng nằn nặc hỏi, do vậy ta phải
kiên quyết quở nó ngay: ''Nghe này anh bạn, cứ để tôi yên, đừng có hỏi han gì nữa''.
Kẻ nhiều chuyện lăng xăng đó cần phải bị ‘dằn mặt’ liên tục như vậy, bởi vì đó
chẳng qua chỉ là sự ô nhiễm đang đến quấy nhiễu cái tâm ta, cho nên cần phải
liên tục khống chế nó ngay. Đừng thèm để ý đến nó, đừng nhượng bộ nó. Phải mạnh
tay với nó. ''Ta thiền ít thiền nhiều trong bao lâu là chuyện của ta, đó không
phải việc của ngươi! Nếu ta muốn ngồi thiền suốt đêm thì cũng đâu phải việc của
ai, tại sao cứ xỉa mũi vào việc thiền tập của ta?''. Các thầy phải cắt bỏ ngay ‘tay
bạn’ nhiều chuyện này. Ta cứ thiền tập bao lâu tùy theo ý ta, bao lâu tùy ta cảm
thấy đúng đắn và làm được.
Khi
ta để cho tâm được thư giãn và thư thái, thì nó được bình an. Kinh nghiệm điều
này, các thầy sẽ nhận ra và không đánh giá thấp sức mạnh của sự dính chấp. Khi
các thầy có thể ngồi thiền liên tục, rất lâu, qua giữa đêm vẫn thấy thoải mái
và thư thái, thì lúc đo các thầy biết được mình đã nắm vững được việc thiền.
Các thầy sẽ biết rõ cách những dính chấp và ràng buộc làm ô nhiễm cái tâm mạnh
như thế nào.
Có
nhiều người ngồi xuống thiền, họ thắp cây nhang trước mặt và khấn nguyện rằng: ''Tôi
sẽ không đứng dậy cho tới khi nhang tàn'', rồi họ ngồi thiền. Sau một lúc họ
nghĩ chắc đã hơn cả tiếng đồng hồ, họ hé mắt nhìn cây nhang và nhận ra chỉ mới
đâu năm phút trôi qua. Họ nhìn nhang và thất vọng, nghĩ rằng sao nhang này cháy
lâu dữ vậy. Họ nhắm mắt lại và tiếp tục ngồi. Chẳng mấy chốc họ lại mở mắt ra
nhìn cây nhang coi nó cháy đến đâu. Thiền
theo
kiểu canh giờ như mấy người đó thì chẳng đi đến đâu. Đừng bắt chước họ làm vậy!
Thiền gì mà cứ ngồi và nghĩ tưởng đến cây nhang: ''Hỏng biết giờ nhang cháy hết
chưa?'', thiền kiểu đó thì chẳng được gì. Đừng quan trọng những nghi thức khấn
nguyện cam kết như vậy. Tâm đâu cần những thủ tục đặc biệt kiểu đó thì nó mới
thiền được.
Nếu
các thầy nhận lấy sự nghiệp phát triển tâm bằng con đường tu thiền, đừng để cho chướng ngại tham dục
biết tới những nguyên lý căn bản hay
mục tiêu của việc tu. Đừng để thói tâm tham dục cứ lăng xăng hỏi: ''Thiền
cách nào vậy Ngài'', ''Anh sẽ thiền bao nhiêu? Định ngồi thiền đến bao lâu?''.
Dục vọng trong tâm cứ hỏi này hỏi nọ cho đến khi ta đầu hàng nó, thỏa thuận với
nó. Hãy coi, ngay khi chúng ta thỏa hiệp sẽ ngồi thiền đến giữa khuya, nó sẽ bắt
đầu chọc phá dày vò chúng ta. Mới chưa được mấy chốc là ta đã cảm thấy bất an,
thấy chộn rộn và mất kiên nhẫn, và không thể ngồi thiền tiếp. Khi những chướng
ngại càng tấn công, ta càng trách móc bản thân mình: ''Đồ vô vọng! Sao tệ vậy,
bộ ngồi thiền tiếp sẽ chết hay sao? Ngươi đã hứa sẽ ngồi thiền để làm cho tâm đạt
định sâu samādhi, nhưng sao tâm cứ
lăng xăng và chạy nhảy khắp nơi như vậy. Ngươi thệ nguyện rồi không làm được''.
Những ý nghĩ chê bai và chán nản về bản thân mình lại tấn công dồn dập tâm của
chúng ta, và chúng ta chìm vào ác cảm với chính mình. Chẳng có ai để ta đỗ thừa,
ta chỉ còn biết trách chính mình, và điều đó càng làm cho việc thiền càng tệ
hơn. Một khi đã thệ nguyện quyết tâm, chúng ta phải làm cho được. Chúng ta đã
thệ thì dù chết cũng phải làm được. Nếu chúng ta đã thệ nguyện sẽ ngồi thiền trong
bao lâu thì phải cố ngồi được chứ không bỏ ngang hay bỏ cuộc
giữa
đường. Nhưng đâu cần thiết phải thệ nguyện cam kết cứng ngắt như vậy. Trong lúc
này, thực ra các thầy chỉ cần tu tập từ từ và phát triển dần dần. Không cần thiết
phải thệ nguyện khấn nguyện như vậy. Hãy cố gắng tu tập cái tâm một cách đều đặn
và kiên nhẫn. Đến lúc nào đó việc thiền sẽ được bình an, và lúc đó tất cả mọi sự
đau nhức và khó chịu trong thân thể sẽ biến mất. Đến lúc đó, sự đau nhức ở ống
chân và đầu gối cũng sẽ tự biến mất.
Khi
chúng ta cố gắng thiền tập, nếu có những hình ảnh lạ, những viễn cảnh lạ, hoặc
những nhận thức giác quan lạ bắt đầu xuất hiện, điều đầu tiên cần làm là kiểm
tra trạng thái tâm của chúng ta lúc đó. Đừng quên nguyên tắc căn bản này. Để những
hình ảnh đó có thể khởi lên trong tâm, tâm phải được tương đối bình an. Đừng
mong muốn chúng xuất hiện; và cũng đừng mong muốn chúng không xuất hiện. Nếu
chúng xuất hiện, xem xét chúng, nhưng đừng để chúng đánh lừa mình. Hãy nhớ rằng
chúng không phải là cái gì của ta cả. Chúng chỉ là thứ vô thường, bất toại nguyện
và vô ngã như mọi thứ khác. Ngay cả chúng là thực, đừng an trú vào chúng hay để
tâm nhiều đến chúng. Nếu chúng cứng đầu không chịu phai biến, thì hãy tập trung
chú tâm lại hơi thở một cách mạnh mẽ hơn. Hãy hít vào ba hơi thở thật sâu và
dài, sau đó thở từ từ ra cho đến khi sạch khí. Điều này có thể giúp. Cứ duy trì
tập trung sự chú tâm trở lại.
Đừng
cố nắm giữ những hiện tượng như vậy. Chúng chẳng là gì cả, chỉ là những hiện tượng
như chúng là, và chúng là luôn luôn dẫn lừa chúng ta. Dù chúng ta thích chúng
hay mê đắm chúng, tâm sẽ bị nhiễm độc bởi chúng. Chúng là những hiện tượng
không đáng tin cậy: chúng có
thể là
không thực hoặc chúng chỉ có vẻ thực chứ chẳng phải thực. Nếu các thầy trải
nghiệm chúng trong khi thiền, các thầy đừng cố diễn dịch ý nghĩa của chúng hoặc
đừng cho chúng là này là nọ gì cả. Hãy nhớ rõ chúng không phải là gì của ta cả,
do vậy đừng chạy theo những hình ảnh, những viễn cảnh, và những cảm nhận đó. Thay vì vậy, hãy lập tức quay lại và kiểm tra trạng thái hiện tại của cái tâm. Đây là
nguyên tắc số một của chúng ta. Nếu
chúng ta bỏ quên nguyên tắc căn bản
này và bị dính theo những gì chúng ta đang nhìn và chúng ta đang tin, thì chúng
ta sẽ đánh mất chính mình và bắt đầu lảm nhảm hoặc bị mất trí luôn. Chúng ta có
thể mất trí đến mức độ thậm chí chúng ta không còn liên hệ với mọi người một
cách bình thường. Phải biết đặt niềm tin vào cái tâm của mình. Bất cứ điều gì xảy
đến, cứ đơn giản quan sát cái tâm và trái tim của mình, cứ duy trì như vậy. Những
trải nghiệm lạ thường trong khi thiền tập có thể rất có ích cho những người có
trí tuệ, nhưng có hại đối với những người không trí tuệ. Bất cứ điiều gì xảy
ra, đừng quá phấn khích hoặc quá lo sợ. Nếu những trải nghiệm xảy đến, cứ mặc
chúng xảy đến.
Một
cách khác để tu tập là quán xét và xem xét tất cả mọi thứ mình thấy, mình làm,
và mình trải nghiệm. Đừng bao giờ quên thiền tập. Khi người ta xong giờ ngồi
thiền hay giờ đi thiền, họ cho rằng đã đến lúc nghỉ thiền và nghỉ ngơi. Họ
không còn tập trung tâm vào đối tượng thiền hay đề mục thiền quán nữa. Họ dẹp hết
hoàn toàn. Các thầy đừng có tu kiểu vậy. Ngoài giờ thiền chính thức, khi nhìn
thấy bất cứ gì, cứ điều tra suy xét nó thực sự là gì. Quán xét những người tốt
trên thế gian. Quán xét cả những người xấu. Quán xét nhìn rõ người giàu và người
quyền
thế;
quán xét nhìn rõ cả hạ tiện và nghèo hèn. Khi nhìn thấy một đứa trẻ, một người
già, một thanh niên, hay một thiếu nữ, hãy quán xét về ý nghĩa của tuổi tác và
tuổi già. Mọi thứ đều là nhiên liệu để cho ta điều tra quán xét. Đây chính là
cách ta tu tập tu dưỡng cái tâm. Đó là thiền quán.
Quán
xét [thiền quán] dẫn đến nhìn thấy Giáo Pháp là quán xét về tính điều kiện, tức
tính hữu vi, tức tiến trình nhân quả, bên trong tất cả mọi cách thể-hiện khác
nhau trên thế gian: cả lớn và nhỏ, chính và phụ, đen và trắng, tốt và xấu. Nói
tóm lại, tất cả mọi thứ. Khi ta nghĩ, hãy nhận biết đó chỉ đơn thuần là một ý
nghĩ, không là gì khác hết. Tất cả, tất cả mọi thứ đó đều rớt vào cái nghĩa địa
của ba đặc tính “vô thường, khổ, và vô ngã” mà thôi, do vậy đừng nắm giữ, đừng
dính theo bất cứ thứ gì. Nghĩa địa “vô thường, khổ, và vô ngã’ chính là nơi ‘thiêu
xác’ của tất cả mọi hiện tượng. (Mọi thứ trên thế gian rồi cũng rớt vào ba đặc
tính đó). Hãy chôn và thiêu đốt tất cả chúng, để chúng ta nhìn thấy Sự Thật.
Có
trí tuệ nhìn thấu lẽ vô thường có nghĩa là để cho chúng ta khỏi bị khổ; khi ta
hiểu thấu [giác ngộ] lẽ vô thường hoại diệt thì ta biết chấp nhận, không còn thấy
khổ. Đây là nhờ sự điều tra suy xét bằng trí tuệ. Lấy ví dụ, chúng ta có được
thứ gì chúng ta cho là tốt hay sướng, và do vậy ta thấy hạnh phúc. Hãy nhìn kỹ
và nhìn liên tục vào cái sự tốt và sự sướng đó. Nhiều lúc, khi đã có nhiều thứ
đó quá, chúng ta thấy chán ngán với nó. Chúng ta muốn cho nó đi hoặc bán nó đi
cho rồi. Nếu không có ai thích mua nó, chúng ta cũng muốn giục bỏ nó đi cho rồi.
Tại sao? Lý do gì tạo ra động cơ chán bỏ đó? Đó là cái lẽ thật trên đời: mọi thứ
đều là vô thường, biến đổi, không
thường
hằng, đó là lý do tại sao. (Ngay cả cái sự thích sự sướng của chúng ta cũng
thay đổi liên tục, hết sướng lại chán, hết chán rồi chê. Ăn ngon rồi cũng ngán,
ngán rồi thấy ớn. Thích rồi hết thích, hết thích thì chê bỏ). Đến lúc đó nếu
cho đi không được, bán đi không được, bỏ đi không được, ta bắt đầu thấy khổ. Mọi
sự trên đời cứ lần quần lẩn quẩn như vậy. Nếu chúng ta hiểu thấu cái lẽ vô thường
và bất toại nguyện như vậy, chúng ta sẽ hiểu được tất cả chỉ là như vậy, cho dù
có bất cứ thứ gì và điều gì và sự gì xảy đến với chúng ta. Đơn giản đó là cách
của mọi sự trên thế gian. Như một câu nói đáng ghi nhớ: ''Nếu bạn đã từng nhìn
thấy một, bạn sẽ nhìn thấy tất cả''.
(Ví
dụ, bạn hiểu thấu [giác ngộ] lẽ thường của một sự thích sướng là đi đến bất toại
nguyện, bạn sẽ thấy rõ bản chất của tất cả mọi sự thích sướng khác. Tất cả đều
thay đổi, vô thường. Nếu bạn nhìn thấy rõ sự sinh, già, bệnh, chết ở trong thân
một người, bạn có thể suy ra để nhìn thấy lẽ thực đó trong tất cả mọi người. Tất
cả đều vô thường và hoại diệt.)
Nhiều
lúc chúng ta nhìn thấy những thứ chúng ta không thích. Ngay lúc bạn nghe thấy
những tiếng ồn hay những âm thanh khó nghe, bạn sẽ bực mình ngay. Hãy xem xét
điều này và nhớ lấy. Bởi vì hỏng chừng sau này khi nghe những âm thanh tiếng ồn
đó bạn lại thấy thích đó. Chúng ta có thể sau này rất thích thứ mà chúng ta đã
từng rất ghét trước đó. Điều đó hoàn toàn có thể. (Có người mình rất ghét,
nhưng sau này mình rất thích và kính trọng. Có người rất ghét nghe tiếng nhạc ồn
đó, những sau này rất thích bài nhạc đó, càng mở to thì càng thích...). Tất cả
mọi sự đó xảy ra với chúng ta, và khi chúng ta nhìn
thấy
rõ ràng và bằng trí tuệ minh sát, chúng ta có thể giác ngộ ra rằng: ''A ha! Tất
cả mọi thứ đều là không thường hằng, không thể thỏa mãn hoàn toàn, và không có
chủ thể nào cả''. Nói cách khác, tất cả mọi thứ trên đời đều là “vô thường, bất
toại nguyện, và vô ngã”. Hãy quăng tất cả chúng vào nghĩa địa của ba đặc tính
bao trùm đó. Tất cả mọi sự dính chấp vào những thứ chúng ta có, chúng ta được,
chúng ta thích, chúng ta sướng, chúng ta là... đều chấm dứt. Ta không còn dính
chấp vào bất cứ thứ nào nữa, một khi ta đã “thấu hiểu” cái bản chất của tất cả
chúng. Chúng ta đi đến nhìn thấy tất cả mọi thứ về bản chất đều giống nhau. Tất
cả mọi thứ chúng ta nhìn thấy như vậy sẽ làm khởi sinh ra trí tuệ minh sát nhìn
thấy Giáo Pháp, nhìn thấy Chân Pháp.
Tất
cả những gì tôi nói hôm nay chỉ là để cho các thầy lắng nghe và suy nghĩ về
chúng. Tất cả cũng chỉ là lời nói, chỉ có vậy. Khi người ta đến thăm tôi, tôi
nói. Những loại đề tài tôi thường nói cũng không phải gì lạ, cũng không phải là
những thứ chúng ta cứ ngồi cả ngày để nói và nghe. Hãy thực hành chúng! Hãy bước vào và tu. Cũng giống như khi chúng
ta rủ một người bạn đi đâu đó. Chúng ta mời họ đi. Chúng ta nhận câu trả lời. Vậy
là chúng ta đi, không cần phải rủ tới rủ lui, thúc qua thúc lại cho ồn ào náo
nhiệt nữa. Họ có đi hay không thì họ sẽ đi. Tôi có thể nói với các thầy lần một
lần hai về tu thiền, bởi tôi đã làm công việc thiền tập đó. Nhưng các thầy biết
đó, có thể tôi sai. Công việc của các thầy là phải tự mình điều tra suy xét và
tự mình tìm thấy những điều tôi nói là đúng thực hay không.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét