Chân
lý mà chúng ta phải thực chứng là chân lý có liên quan đến Tứ Diệu Đế,
Bốn Sự Thật Cao Diệu. Đó là: (1) Sự Thật về Khổ (Khổ đế), (2) Sự Thật về
Nguồn Gốc của Khổ (Tập đế), (3) Sự Thật về sự Diệt Khổ (Diệt đế), và
(4) Sự Thật về Con Đường đưa đến Diệt Khổ (Đạo đế).
Sự thật về Khổ có liên quan đến bản chất của năm uẩn (sắc, thọ,
tưởng, hành, thức). Theo Kinh Chuyển Pháp Luân, chúng ta phải thấu triệt
sự khổ nầy để thông hiểu một cách đúng đắn.
Cần phải ghi nhận sự thấy,
nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và suy nghĩ ngay lúc chúng hiện khởi để hiểu
biết chính xác về chúng. Nếu không ghi nhận ngay tại thời điểm đó, ta sẽ
không thông hiểu tường tận bản chất sinh-diệt của chúng, và từ đó, lòng
tham đắm vào các hiện tượng tâm-vật-lý hư ảo nầy sẽ sinh ra, và đó là
Nguồn gốc của Khổ. Bởi vì có tham đắm, sự chấp thủ vào các hiện tượng đó
sẽ xảy ra, và tạo ra các nghiệp hành. Chính các nghiệp hành nầy sẽ tạo
ra sự tái sinh, và từ đó tiếp tục vòng luân hồi khổ não của già lão,
bệnh hoạn, tử diệt, v.v...
Nếu chúng ta liên tục ghi nhận các hành động của thấy, nghe, ngửi,
v.v..., những hiện tượng tâm-vật-lý nầy sẽ được thông hiểu đúng đắn, và
từ đó sẽ giảm thiểu lòng tham ái trong một cấp độ nào đó. Đây chính là
công phu để Diệt trừ Nguồn gốc của Khổ. Khi chúng ta hoàn toàn ghi nhận
kịp thời mỗi một tác động của sự thấy, nghe, ngửi, v.v... khi chúng vừa
khởi hiện, lúc đó có thể xem như ta đã hoàn tất công tác diệt trừ cội
nguồn của Khổ, theo như tinh thần của các lời dạy trong bài Kinh Chuyển
Pháp Luân.
Mỗi một động tác ghi nhận như thế sẽ giúp giảm thiểu phiền não, có
nghĩa là làm giảm bớt các điều kiện để tạo tái sinh. Như thế, qua phương
pháp ghi nhận, hoạn khổ được diệt trừ từng chập, và pháp hành nầy là
Con Đường Tại Thế để phát triển tuệ minh. Đây là pháp hành trì theo đúng
lời dạy trong kinh là sự Diệt Khổ cần phải được thực chứng, và Con
Đường Diệt Khổ cần phải được triển khai. Sư sẽ giảng thêm về Con Đường
Diệt Khổ Siêu Thế -- để thực chứng Niết-bàn -- và Bát Chánh Đạo. Tuy
nhiên, trước hết, sư sẽ giải thích về việc thực chứng Niết-bàn qua con
đường tại thế như Đức Phật đã giảng cho thầy tỳ-kheo Malukyaputta (Kinh
Malukyaputta, Tương Ưng, iv-72) như sau:
Niết-bàn ở xa khi không có Chánh Niệm
"Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến sắc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ sắc sinh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi: xa Niết-bàn"
(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt)
Có nghĩa là: ngay khi mắt nhìn thấy một hình sắc, nếu ta quên quán
niệm về sự thấy, và nếu đó là một vật đẹp đẽ, ta sẽ vui thích với nó và
tham luyến sinh ra, nhất là đối với một đối tượng mà ta hằng ưa thích.
Một khi có sự tham luyến, các cảm thọ về đối tượng liền nẩy sinh. Nếu
đó là một đối tượng ưa thích, ta sẽ có thọ lạc, rồi sinh ra tham luyến.
Nếu đó là một đối tượng xấu xa, cảm thọ khổ sinh ra, rồi tiếp theo là
lòng sân hận, oán ghét. Chính sự tham luyến hay oán ghét nầy làm cho tâm
trở nên chao động, mất chánh niệm. Từ đó sẽ đưa đến sự khổ não, tạo ra
nghiệp hành, đưa đến tái sinh trong vòng luân hồi ưu phiền. Như thế,
càng lúc ta càng rời xa Niết-bàn.
Niết-bàn ở gần khi có Chánh Niệm
"Vị ấy không tham sắc,
Thấy sắc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến sắc an trú.
Theo sắc, vị ấy thấy,
Tùy sắc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Được gọi: gần Niết-bàn."
(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt)
Bây giờ, nếu chúng ta có chánh niệm trong lúc nhìn, Đức Phật gọi là
lúc đó, ta ở gần Niết-bàn. Ngay chính lúc ta nhìn, nếu ta quán niệm vào
sự nhìn, lòng luyến ái vào đối tượng sẽ không khởi sinh. Đúng như thế.
Mỗi khi có sự nhìn, nếu ta ghi nhận "thấy, thấy, thấy" một cách liên
tục, tham đắm vào đối tượng nhìn sẽ không sinh khởi và cũng sẽ không có
suy tưởng về lòng tham đắm đó. Khi ta thấu triệt được bản chất sinh-diệt
của sự nhìn và đối tượng nhìn, ta sẽ không có lòng ưa thích hay oán
ghét kèm theo. Vì thế, khi ta có chánh niệm tỉnh giác, tâm ta sẽ không
bị vướng mắc vào lòng tham thủ và sân hận. Lúc đó ta chỉ có một cảm giác
thụ động, có nghĩa là chỉ thuần một cảm giác mà không có một phản ứng
hay một cảm tính nào đi kèm theo đó. Hình dạng của đối tượng chỉ được
nhận thấy mà không trở thành một đối tượng cho lòng tham thủ.
Nhờ có chánh niệm, ta chỉ ghi nhận mọi hiện tượng một cách đơn thuần
với một cảm giác thụ động, và do đó, phiền não không có cơ hội để sinh
khởi và sẽ bị trừ diệt. Điều này có nghĩa là nếu không có chánh niệm
ngay khi nhìn, tham thủ vào đối tượng nhìn sẽ sinh ra và chắc chắn phiền
não sẽ tiếp tục tái diễn vô tận. Ngược lại, nếu ta có chánh niệm, phiền
não sẽ bị trừ diệt vì nó không có điều kiện để sinh khởi. Cho nên, nếu
người nào muốn thoát khỏi hoạn khổ và thực chứng hạnh phúc thì nguời ấy
phải luôn luôn chánh niệm khi có tác động nhìn xảy ra. Công phu phát
triển tuệ tri nầy qua pháp hành thiền gọi là Sơ Đạo, con đường sơ khởi
(pubba bhaga magganga). Qua con đường sơ khởi nầy, hành giả tiến đến mục
đích thực chứng Niết-bàn, dập tắt mọi phiền não, qua sự chứng đắc Con
Đường Siêu Thế.
Trong kinh Malukyaputta, Đức Phật dạy rằng để thoát khỏi hoạn khổ,
thầy tỳ-kheo phải hành thiền quán như trên, và khi biết được bản chất
thật sự của mọi hiện tượng tâm-vật-lý trên đời thì vị ấy được xem như là
đã đến gần Niết-bàn. Tại sao như thế? Nếu chúng ta thực hành thiền
quán, tuệ minh sát sẽ ngày càng phát triển, và một ngày nào đó, ta sẽ có
đủ duyên lành để thực chứng được Niết-bàn qua Đạo Tuệ và Quả Tuệ (Magga
nyana và Phala nyana). Nếu một vị hành giả thấu đạt Đạo Tuệ và Quả Tuệ
lần đầu tiên, vị ấy trở thành bậc Dự Lưu hay Tu-đà-hườn (Sotapanna) và
sẽ không bao giờ tái sinh vào bốn cảnh khổ: A-tu-la, Ngạ quỷ, Cầm thú,
và Địa ngục. Vị ấy chỉ tái sinh tối đa là bảy lần, trong nhàn cảnh của
cõi Người hay cõi Trời, và tối hậu sẽ đắc đạo quả A-la-hán, hoàn toàn
giải thoát khỏi cõi Ta-bà phiền não luân hồi của sinh, lão, bệnh, tử.
Trên đạo quả Dự Lưu là đạo quả Nhất Lai (Tư-đà-hàm, Sakadagami). Gọi
là Nhất Lai vì vị ấy chỉ phải trải qua hai đời sống nữa -- đời nầy và
đời sau -- là có thể chứng đạt đạo quả A-la-hán giải thoát tối hậu.
Trên đạo quả Nhất Lai là đạo quả Bất Lai (A-ha-hàm, Anagami). Bậc Bất
Lai sẽ không tái sinh vào cõi người hoặc cõi trời dục giới, mà sẽ tái
sinh vào các cõi trời của Phạm thiên. Ở đó, vị ấy sẽ thành đạt đạo quả
A-la-hán.
Như đã vừa trình bày, khi quí vị hành trì thiền quán để ghi nhận mọi
hiện tượng khi chúng vừa sinh khởi, và với tiến trình phát triển tuệ
minh, khi phước duyên chín muồi, quí vị sẽ trở thành một bậc A-la-hán.
Khi nghiệp lực đã hết, vị ấy sẽ đắc Bát Niết-bàn (Niết-bàn vô dư y), và
lúc đó là một sự dập tắt hoàn toàn mọi hoạn khổ.
Vì thế, để dập tắt mọi phiền não khổ đau khi đời sống nầy chấm dứt,
quí vị cần phải tận lực thực hành pháp thiền quán để ghi nhận thẩm thấu
mọi hiện tượng khi chúng sanh khởi. Ít ra, xin quí vị hãy nỗ lực để
thành đạt cho được đạo quả Dự Lưu để không còn phải tái sinh vào các
cảnh khổ.
Những gì sư đã trình bày có liên quan về sự nhìn thấy cũng áp dụng
cho pháp hành thiền quán về sự nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, và suy nghĩ.
Nếu không có chánh niệm thì ta còn ở xa Niết-bàn. Nếu có chánh niệm là
ta ở gần Niết-bàn. Như thế, ta cần phải áp dụng pháp thiền quán vào từng
động tác trong đời sống của chúng ta.
Tóm lược pháp hành thiền quán niệm
"... Nầy thầy tỳ-kheo Malukyaputta, đối với các pháp được thấy, được
nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được ý thức, thầy chỉ nên thấy
với những vật thấy được, chỉ nghe với những vật nghe được, chỉ ngửi với
những vật ngửi được, chỉ nếm với những vật nếm được, chỉ ý thức với
những vật ý thức được. Do đó, thầy không có luyến ái khởi sinh. Do không
có luyến ái nên không còn có đời nầy, đời sau, và giữa hai đời ấy. Đây
là sự chấm dứt khổ đau."
Đó là lời dạy vắn tắt của Đức Phật cho thầy tỳ-kheo Malukyaputta. Sau
khi nghe lời giảng của Đức Phật, thầy tỳ-kheo Malukyaputta bạch với
Ngài rằng thầy đã hiểu được là nếu người nào không có chánh niệm ngay
lúc nhìn, nghe, ngửi, nếm, chạm, nghĩ, thì người ấy sẽ chịu hoạn khổ và ở
xa Niết-bàn. Trái lại, nếu người ấy có chánh niệm thì người ấy sẽ giải
thoát khỏi hoạn khổ và ở gần Niết-bàn. Đức Phật xác nhận điều đó bằng
các kệ ngôn nêu ra ở trên. Tiếp theo, thầy tỳ-kheo Malukyaputta đi sống
biệt cư, nỗ lực tinh tấn hành thiền quán niệm về sự thấy, nghe, ngửi,
v.v... ngay khi chúng vừa sinh khởi, và chẳng bao lâu thầy đắc đạo quả
A-la-hán.
Cho nên, nếu quí vị muốn đắc các đạo quả Dự Lưu, Nhất Lai, v.v...,
xin quí vị hãy hành thiền quán liên tục vào sự thấy, nghe, ngửi, nếm,
chạm xúc, suy nghĩ ngay khi chúng vừa sinh khởi. Nếu quí vị hành trì như
thế và khi định lực đủ mạnh, quí vị sẽ phát triển tuệ tri để trực nhận
được sự khác biệt của danh và sắc, nhân và quả, đặc tính vô thường, bất
toại nguyện, và vô ngã. Đó là phương pháp hành trì đúng với câu
"Samadhito yathabhutam pajanati", nghĩa là "Chánh Định đưa đến Chánh
Kiến".
Chánh kiến trong Thiền quán
Khi định lực đủ mạnh, trong mỗi động tác ghi nhận về sự nhìn thấy,
quí vị sẽ phân biệt được đối tượng nhìn, mắt, và sự nhìn. Đối tượng nhìn
và cặp mắt là Vật chất hay Sắc, không có thức. Nhãn thức và sự ghi nhận
là thuộc về Tâm hay Danh, có thức. Như thế, trong mỗi động tác ghi nhận
sự nhìn, quí vị sẽ nhận thức được rằng đây chỉ là Thân và Tâm, hay Danh
và Sắc, mà không có một cái Ngã hay một Linh hồn nào cả. Đây là Tuệ
Phân Biệt Danh Sắc (nama rupa pariccheda nyana). Cũng vậy, khi quí vị
quán niệm về nghe, quí vị sẽ biết đuợc rằng tai và âm thanh là vật chất,
và nhĩ thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc.
Khi quí vị quán niệm về ngửi, quí vị sẽ biết đuợc rằng mũi và mùi
hương là vật chất, và tỉ thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ
có Danh và Sắc.
Khi quí vị quán niệm về nếm, quí vị sẽ biết đuợc rằng lưỡi và vị nếm
là vật chất, và thiệt thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có
Danh và Sắc.
Khi quí vị ghi nhận "đi, đứng, ngồi, nằm, đụng, lên, xuống, v.v...",
quí vị sẽ biết đuợc rằng thân thể và vật chạm xúc là vật chất, và thân
thức cùng với sự ghi nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc.
Khi quí vị ghi nhận về sự suy tư, suy nghĩ, v.v..., quí vị sẽ biết
được rằng ý và đối tượng của ý là vật chất, và ý thức cùng với sự ghi
nhận là tâm. Như thế, chỉ có Danh và Sắc. Trong trường hợp nầy, đối
tượng của ý có thể là sự suy tưởng, ý nghĩ, quan niệm, phân tích, v.v...
có thể đánh giá, liệt kê được, nên được gọi là vật chất (sắc, rupa)
trong ý nghĩa tương đối.
Thông thường, Tuệ Phân Biệt Danh Sắc xảy ra nhiều hơn đối với một
hành giả thông minh. Tuy nhiên, dù có kém thông minh, một hành giả vẫn
có thể phát triển được một vài cấp độ của tuệ nầy.
Sau khi phát được tuệ nầy, hành giả tiếp tục hành thiền quán và với
sự phát triển của định lực, hành giả có thể đạt được Tuệ Phân Biện Nhân
Quả qua phương cách sau đây:
Trong lúc ghi nhân sự đi, hành giả biết được rằng mỗi khi có tác ý để
đi thì sẽ có tác động đi. Khi đứng hay ngồi cũng thế, vì có ý định ngồi
nên mới có tác động ngồi, vì có ý định đứng nên mới có tác động đứng
lại. Khi ghi nhận phồng và xẹp, hành giả nhận thức được rằng vì có hơi
thở vào ra nên m§i có phồng xẹp. Khi ghi nhận sự nhìn, hành giả biết
được vì có cảnh nhìn nên mới có sự nhìn, vì có mắt nên mới có nhìn. Khi
nghe, ngửi, nếm, v.v... cũng tương tự như thế. Dần dần, khi ghi nhận và
thông hiểu như thế, hành giả sẽ nhận thức được rằng các động tác nầy
không phải do chủ động của một cái Ngã, cái Tôi nào cả, mà chỉ là kết
quả của các tương quan của nhân và quả như vừa trình bày. Đây là Tuệ
Phân Biện Nhân Quả.
Kế đến, khi ghi nhận "đi, đứng, ngồi, nằm, phồng, xẹp, thấy, nghe,
ngửi, nếm, cứng, tê, đau, buồn, vui, v.v..." trong từng hành động, hành
giả sẽ thấy được cả đối tượng được ghi nhận và sự ghi nhận sinh khởi mới
mẻ rồi tàn lụn. Ban đầu, hành giả chỉ ghi nhận được chặng đầu và chặng
cuối của từng giai đoạn, chẳng hạn như lúc phồng của bụng. Dần dần, với
sự gia tăng của định lực và tuệ tri, hành giả sẽ ghi nhận được từng đoạn
nhỏ hơn. Qua tri kiến trực tiếp, hành giả thông hiểu rằng "Mọi sự kiện
nầy không thường hằng mà cũng không lạc thú, chỉ là phiền não thôi! Đời
sống chỉ là một chuỗi các hiện tượng, mà không có một cái Ngã hay một
Linh hồn nào cả!" Đây là sự trưởng thành của Tuệ Minh Sát thật thụ, gọi
là Tuệ Minh Sát về Vô Thường (Aniccanupassana Nyana), Tuệ Minh Sát về
Khổ (Dukkhanupassana Nyana), và Tuệ Minh Sát về Vô Ngã (Anattanupassana
Nyana).
Với sự chín muồi của các Tuệ Minh, Niết-bàn được thực chứng qua Thánh
Đạo Tuệ (Ariya Magga Nyana) và Thánh Quả Tuệ (Ariya Phala Nyana). Lúc
đó, hành giả trở thành bậc Dự Lưu và không còn tái sinh vào bốn cảnh
khổ. Vị ấy sẽ tái sinh trong những điều kiện tốt lành ở cõi Người hay
cõi Trời, và trong bảy kiếp sẽ thực chứng Niết-bàn tối hậu qua Đạo Quả
A-la-hán. Vì vậy, điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải nỗ lực hành
thiền để tối thiểu phải đạt được quả đầu tiên là quả Dự Lưu.
Tới đây, sư sẽ hướng dẫn quí vị thực hành thiền quán trong một thời gian ngắn.
Xin quí vị ngồi vững vàng, trong một tư thế thích hợp và thoải mái.
Hãy nhắm mắt lại... Hãy chú tâm vào bụng, và ghi nhận động tác phồng và
xẹp của bụng...Nếu quí vị không nhận thấy rõ, thì có thể đặt tay lên
bụng để dễ theo dõi...
Hãy ghi nhận chuyển động phồng, từ lúc bắt đầu cho đến lúc cuối, một
cách chăm chỉ... Hãy theo dõi chuyển động xẹp một cách tương tự như
thế... Chỉ ghi nhận thầm trong tâm mà thôi...
Trong khi ghi nhận như thế, nếu có phóng tâm, thì ghi nhận "phóng
tâm", rồi đem tâm trở về nơi sự phồng xẹp của bụng... Nếu tai nghe tiếng
động, ghi nhận "nghe, nghe, nghe" hai hay ba lần, rồi quay về chú tâm
nơi chuyển động của bụng... Nếu có đau nhức, ghi nhận "đau, đau, đau"
hai hay ba lần, rồi quay về chú tâm nơi chuyển động của bụng... Xin hãy
tiếp tục ghi nhận như thế trong năm phút...
Kết luận
Bây giờ, chúng ta đã tập hành thiền được năm phút. Trong mỗi phút,
chúng ta làm được 50 đến 60 hành động thiện lành qua sự ghi nhận. Trong 5
phút, ta thực hiện được tối thiểu là 250 hành động như thế. Trong mỗi
sự ghi nhận, nỗ lực chú tâm là Chánh Tinh Tấn. Nhận thức rõ ràng khi ghi
nhận là Chánh Niệm. Liên tục chú tâm vào đối tượng thiền quán là Chánh
Định. Ba chi nầy tạo thành phần "Định" (Samadhi). Với nỗ lực thiền quán
như thế, định lực gia tăng, và ta sẽ có Chánh Kiến trong mỗi động tác
ghi nhận. Chủ ý để đưa tâm vào đối tượng thiền quán là Chánh Tư Duy. Hai
chi nầy tạo nên phần "Tuệ" (Panna). Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng được phát triển trong lúc hành thiền, hợp thành phần "Giới"
(Sila). Đó là Tam Học Giới-Định-Tuệ.
Mỗi khi ta hành trì pháp Thiền Quán theo dõi và ghi nhận sự phồng xẹp
nơi bụng là ta thực hành Bát Chánh Đạo. Đây là Trung Đạo do Ngài Bồ-tát
Sĩ-đạt-ta khám phá để Thành Đạo. Trung Đạo nầy giúp phát triển các Tuệ
Minh và đưa đến Đạo Tuệ và Quả Tuệ. Vì thế, sư thành thật khuyên quí vị
cố gắngtận lực hành thiền ngay cả khi trở về nhà và sống với gia đình.
Sư cầu mong quí vị qua pháp hành nầy sẽ có nhiều tiến bộ phát triển
định lực, và trong một tương lai gần sẽ được thực chứng Niết-bàn qua Đạo
Tuệ và Quả Tuệ.
Nguồn: buddhanet.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét