Thực tập Thiền
Minh Sát là nỗ lực của thiền sinh để hiểu được đúng đắn bản chất các
hiện tuợng tâm-vật-lý đang xảy ra
chính trong thân
tâm của mình. Thân thể
mà thiền sinh nhận biết rõ ràng là một nhóm tính
chất vật chất gọi là Sắc Uẩn (Rupa). Các hiện tượng
tinh thần hay tâm lý là những hoạt
động của tâm
được gọi là Danh Uẩn (Nama). Các hiện tượng
thuộc thân tâm (danh sắc) đang xảy ra nên được thiền
sinh nhận biết rõ ràng mỗi khi thấy,
nghe, ngửi, nếm,
đụng, hay suy nghĩ. Phải chú tâm theo dõi và
ghi nhận như ‘thấy, thấy’, ‘nghe, nghe’, ‘ngửi, ngửi’,
‘nếm, nếm’, ‘đụng, đụng’, ‘nghĩ, nghĩ’.
Tuy nhiên,
vào lúc mới thực tập, thiền sinh không thể nào ghi
nhận hết từng đối tượng đang xảy ra như vậy. Do đó,
thiền nên bắt đầu ghi nhận những gì nổi bật và dễ nhận
biết nhất.

Chúng
ta quen gọi là Bát Chánh Đạo, nhưng thật ra, cụm từ Pāḷi nghĩa là Bát
Đạo (Aṭṭhaṅgikamagga) hay Bát Thánh Đạo (Ariyaṭṭhaṅgikamagga); tất cả
chúng đều chỉ Sự Thật Về Con Đường Đi Đến Nơi Diệt Khổ (Dukkha
Nirodhamaggasacca), tức là Đạo Đế. Nó có 8 chi phần: Chánh Kiến
(sammādiṭṭhi), Chánh Tư Duy (sammāsankappa), Chánh Ngữ (sammāvāca),
Chánh Nghiệp (sammākammanta), Chánh mạng (sammā-ājīva), Chánh tinh tấn
(sammāvāyāma), Chánh Niệm (sammāsati), Chánh định (sammāsamādhi).
Đức Phật dạy: “Nầy,
các thầy tỳ-khưu! Đây là con đường độc nhất để thanh lọc tâm (an tịnh,
thanh tịnh) cho chúng sanh, vượt thoát sầu bi (sầu buồn, bi ai), diệt
trừ ưu não (ưu tư, phiền não), thành tựu chánh trí và chứng ngộ
Niết-bàn. Đó là Tứ niệm xứ.”
Duyên
khởi là giáo pháp tinh yếu, cốt tủy của đạo Phật. Đức Phật sau khi
thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài đã để dành bảy ngày đầu tiên để chứng
nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trong đêm cuối cùng của bảy ngày ấy, Ngài
quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, như sau:
Trong bài này Đaị sư Ajahn Chah, một
vị sư Thái lan có lối giảng dậy thật giản dị, chân thực
đã thu hút được nhiều đệ tử tây phương, nói chuyện với một nữ đệ tử già yếu
đang sắp chết. Bằng một giọng trầm tĩnh sâu xa, đại sư nhắc lại cho bà nghe về
lý vô thường, và dạy những
phương tiện để đối phó với những đau khổ
-- trước tiên là niệm chú, rồi tập trung tư
tưởng vào hơi thở. Niệm chú ở đây không có ý nghĩa thần bí gì, mà chỉ là dùng
những câu nói có năng lực tốt lành diệu dụng để bảo vệ tâm trí khỏi những khởi
niệm về trạng thái đau khổ của một người
đang nằm trên giường bệnh. Khi tâm dần
dần lìa khỏi những khởi niệm tự phát nơi thân và bắt đầu cảm
nhận được
những năng lực tốt lành, sự lo sợ sẽ tan đi và thay vào đó là một trạng thái an tĩnh đủ để cho tâm tập trung
được vào nhịp lên xuống của hơi thở.
(Dưới
đây là thời Pháp do Ngài AJAHN CHAH thuyết giảng tại chùa Bovornives,
Bangkok, vào năm 1977, trước một cử tọa gồm chư Tăng Thái và một nhóm tỳ
khưu người Tây Phương.)

Bốn pháp tế độ phát xuất từ cụm từ saṅgāha vattha nghĩa là sự thu phục, nhiếp hóa, cảm hóa, tế độ.
Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây,
lâu đài, phố thị, làng mạc... đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu
tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật... cũng do 10 nghiệp lành mà có
sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng... Tất cả phải nương
tựa nơi 10 nghiệp lành vậy.
Chính
nghiệp, bắt nguồn từ vô minh và khát vọng tạo điều kiện cho tái sinh.
Nghiệp quá khứ, tạo điều kiện cho kiếp sống hiện tại và nghiệp hiện tại
kết hợp với nghiệp quá khứ làm duyên cho đời sống tương lai. Hiện tại
chỉ là con đẻ của quá khứ, và đến lượt nó - lại là cha mẹ của vị lai.
Jack Kornfield là một người Mỹ sinh
năm 1945, đỗ tiến sĩ tâm lý học trị liệu năm 1967, ngay sau đó đã gia nhập tổ chức
thiện nguyện Peace Corps và đã được gửi đi Thái Lan trong một chương trình giúp
đỡ những người nghèo khó sinh sống dọc bờ sông Mê Kông. Trong dịp này ông đã
gặp Ajahn Chah và trở thành đệ tử của nhà sư này. Ông được thụ phong tỳ kheo và
tu tập ở Thái Lan trong nhiều năm, sau đó ông sang Miến Đìện để tu học thêm với
nhà sư Mahasi Sayadaw và cũng đã đến Ấn Độ để tìm hiểu thêm về Phật Giáo. Trở
về Mỹ năm 1972, ông thành lập trung tâm Insight Meditation Society ở tiểu bang Massachusetts. Năm 1981 ông thành lập
trung tâm Spirit Rock Center dạy thiền Vipassana tại tiểu bang California. Ông thuyết
giảng khắp nơi trên thế giới. Các sách của ông đã được dịch ra 20 thứ tiếng và
bán được hàng triệu quyển.


Đôi
nét về tác giả
: Tỷ Kheo Thanissaro ( Geoffrey
Degraff, 1949 - ) là một nhà sư Phật
giáo người Mỹ, theo truyền thống khổ hạnh Sơn Lâm của Thái Lan ( Thai Forest
Tradition). Sau khi tốt nghiệp Đại học Oberlin College năm 1971 về ngành Lịch Sử
Tri Thức Âu châu, sư du hành đến Thái Lan và học Thiền dưới sự hướng dẫn của Ajahn
Fuang Jotiko, Sư Jotiko là đệ tử của ngài Ajahn Lee. Sư Thanissaro xuất gia năm
1976 và tu học tại chùa Wat Dammasathit, và vẫn ở lại chùa này sau khi sư phụ viên tịch vào năm 1986.
Vào năm 1991, sư du hành đến các vùng đồi núi của San Diego County ( Hoa Kỳ),
và giúp Ajahn Suwat Suwaco thành lập Chùa Wat Mettavanaram ( Metta Forest
Monastery). Sư được chọn làm trụ trì của
chùa này vào năm 1993. Sư Thanissaro đã xuất bản nhiều tác phẩm và dịch phẩm, gồm
có các cuốn cẩm nang tu thiền của Ajahn Lee dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh :
Handful of Leaves ( Một Nắm Lá , là một hợp tuyển kinh tạng Pali gồm 4 tập
); ( The Buddhist Monastic Code (Luật Lệ Tu Viện Phật Giáo, là cẩm nang tham khảo của tăng sĩ , gồm hai tập); Wings to Awakening ( Cánh Cửa
Giải Thoát, là một hợp tuyển kinh tạng Pali); đồng tác giả của bộ sách giáo khoa trình độ đại
học là Buddhist Religions: A Historical Introduction (Lịch Sử Phật Giáo
Nhập Môn ); The Mind Like Fire Unbound ( Tâm Như Lửa Cháy Bùng ); The Paradox of Becoming (
Sự Mâu Thuẫn của Hữu); The Shape of Suffering (Sự Hình Thành của Khổ ); Dhammapada
: A Translation ( Bản Dịch Kinh Pháp Cú ); Skill in Questions ( Kỹ
Năng Đặt Câu Hỏi)… và Collections of Essays on Buddhist Practice (Tuyển Tập các Bài Luận về Tu Tập Phật Giáo)
cũng như hằng trăm bài pháp thoại đã được phiên tả và xuất bản…Hiện nay Tỷ Kheo
Thanissaro vẫn là Trụ trì Tu viện Metta Forest Monastery ( San Diego, Hoa Kỳ).