Thiền, có xuất xứ từ Ấn Độ cổ đại,
được xem là một phương pháp giáo dục con người một cách toàn diện, hướng
con người đến chân – thiện – mỹ, rèn luyện con người phát triển thể lực
và trí lực một cách hài hoà và tốt đẹp. Giá trị lý luận và thực tiễn
của nó càng được khẳng định khi hiện nay trên toàn thế giới, nhất là các
nước phương Tây đã và đang quan tâm, và hướng về nó một cách tích cực.
Khoa học ngày nay với những thí nghiệm
tiên tiến về hai khía cạnh tâm lý và sinh lý của con người càng thấy rõ
sự tương tác qua lại rất chặt chẽ giữa chúng với nhau: một nỗi buồn,
vui, giận hờn, thương yêu, lo lắng hay an nhiên tự tại … đều làm cơ thể
tiết ra những hóc môn tương ứng có thể dẫn đến những nguy cơ bịnh tật,
tử vong hoặc ngược lại có thể làm cho con người vượt qua những khổ đau
của tâm sinh lý, của bịnh tật.
Nhật Bản, một nước châu Á nhưng là một
cường quốc kinh tế thứ nhì hay thứ ba của thế giới hiện nay, đã từ lâu
biết ứng dụng thiền vào mọi hoạt động của con người và ta được biết như
là: trà đạo, kiếm đạo, nhu đạo, cung đạo, hoa đạo…Đạo ở đây có nghĩa là
thiền và cũng có nghĩa là nghệ thuật. Vào buổi chiều, sau khi tan việc
trên đường về nhà, vị thương gia ghé vào một phòng trà đạo, và chỉ sau
khoảng nửa giờ với những nghi thức dùng trà là vị ấy hầu như hồi phục
lại toàn bộ sinh lực đã mất trong ngày. Cũng vì “tự mặc cảm” thấy mình
không xinh đẹp như một nữ diễn viên Mỹ mà hơn 80% số nữ sinh học lớp Tám
ở Anh Quốc mắc bịnh trầm cảm. Tâm trí quả thật đóng một vai trò sinh tử
đối với sức khoẻ của con người.
Tiến sĩ Girish D. Patel là bác sĩ tâm
lý học tại Mumbai (Ấn Độ), đã có trên 5.000 buổi thuyết trình ở 40 nước
với những bài nói thu hút về “Sức khỏe trong tầm tay bạn” - những kỹ
năng quản lý cuộc sống cho những cá nhân.
Thông qua Trung tâm Các giá trị sống
(TP.HCM), ông đã có những buổi nói chuyện ở Việt Nam. Ông trao đổi về
phép luyện tâm hồn như sau:
Một câu chuyện như thế này: Có một cô
bé 12 tuổi bị tai nạn và mất. Người cha khóc nhiều tháng trời vẫn chưa
nguôi nỗi đau. Một đêm, ông ta khóc rồi chìm vào giấc ngủ, mơ thấy rất
nhiều thiên thần. Người cha mừng rỡ và vui mừng vì thấy con gái mình
cũng trở thành một trong những thiên thần đó. Song niềm vui vụt tắt khi
ông nhìn thấy tất cả ngọn nến trên tay các thiên thần đều sáng, chỉ
riêng ngọn nến trên tay con gái ông là tắt. Ông tiếp tục buồn rầu và
khóc.
Ông hỏi cô con gái: “Tại sao ngọn nến
của con không sáng?”. Người con trả lời: “Cha yêu quý, những người bạn
thiên thần của con rất tốt bụng, họ cứ thắp mãi cho ngọn nến của con
cùng cháy. Nhưng hễ nến vừa sáng lên thì giọt nước mắt của cha nhỏ xuống
lại làm nó tắt đi, không sáng được”. Người cha từ đó không khóc nữa và
sống hạnh phúc.
Câu chuyện cho thấy trái tim hiểu ngôn
ngữ của cảm xúc và thường bị vùi dập bởi những cảm xúc đau buồn. Còn
những xung đột thường nảy ra từ cái đầu: suy đoán, tổn thương… Chỉ có
tìm ra logic hợp lý mới chữa trị được cái đầu của mình. Nhưng phải biết
kết hợp giữa cái đầu và trái tim để kiểm soát tâm trí. Muốn vậy phải có
phương pháp luyện tâm hồn. Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu cho thấy
70% bệnh của con người là từ tâm bệnh mà ra, 30% còn lại mới do di
truyền, thể xác, môi trường…
Cơ sở lý luận của thiền là: Sự tập
trung tư tưởng. Khi bộ óc được tập trung vào một đối tượng thì tạo ra
một sức mạnh nội tâm như một ngọn đèn pha chiếu sáng, khiến thấy rõ mọi
sự vật; trong khi đó nó làm ức chế và khiến những phần còn lại của vỏ
não được nghỉ ngơi, thanh thản. Tâm trí người thường tán loạn, vọng
tưởng, chạy theo những tham muốn bất thiện gây ra những hậu quả đáng
tiếc về mặt đạo đức, luật pháp… Phương pháp thực hành Thiền có nhiều
cách, nhưng có một cách đơn giản mà hiệu nghiệm, đó là: Quán tưởng hơi
thở . Vị ấy ngồi yên lặng, lưng thẳng, mắt khép lại và để ý hơi thở vô,
ra. Hơi thở này đang đi vào, vị ấy rõ biết như vậy; hơi thở này đang đi
ra, vị ấy rõ biết như vậy. Trong khi đang theo dõi hơi thở như vậy, nếu
có những hình ảnh, kỷ niệm, suy nghĩ, cảm xúc dù chúng có đẹp hay xấu,
vui hay buồn thì vị ấy đừng để ý hay bận tâm, phê phán. Sau một thời
gian lâu hay mau, tuỳ theo sự nỗ lực của từng người mà sẽ có hiệu quả
sớm hay muộn.
Thước đo kết quả của sự luyện tâm là
vị ấy cảm thấy sức khoẻ thân tâm của mình ngày càng được tốt hơn: ngủ
ngon giấc không chiêm bao mộng mị, bớt lo lắng phiền não, vui vẻ, tập
trung vào công việc đang làm một cách tự nhiên. Một sự luyện tâm như vậy
sẽ dần tạo ra một phản xạ có điều kiện mới thay thế cho những thói quen
xấu cũ.
Đức Phật dạy, cảm xúc là một phần hoạt
động của quá trình duyên sinh của tâm. Do sáu căn tiếp xúc với sáu
trần mà có sáu thức, sáu thức duyên sinh sáu xúc, xúc duyên sinh thọ ,
thọ duyên sinh tưởng, tưởng duyên sinh hý luận và vọng tưởng. Cảm xúc
hay cảm thọ do các yếu tố cấu thành nên nên chúng không có tính bền vững
và chỉ hiện hữu tạm thời.
Thiền có hai phần: Chỉ và Quán. Ta có
thể áp dụng xen kẻ Chỉ và Quán trong khi ngồi thiền. Nếu chỉ áp dụng Chỉ
thôi thì tâm dễ bị hôn trầm và nếu chỉ áp dụng Quán thôi thì tâm dễ bị
tán loạn. Đức Phật dạy, một người nội trợ khéo tay thì khi xào nấu một
món ăn người này thường dùng thìa trở qua trở lại món ăn nếu không thì
món ăn sẽ bị cháy khét.
- Chỉ là an trú hay cột tâm hay tâm rõ
biết hơi thở này vô, hơi thở này ra. Có hai cách an trú tâm vào hơi
thở: a) Tâm rõ biết hơi thở trên một đường thẳng từ mũi đến bụng dưới ,
hoặc b) Tâm rõ biết một điểm ở giữa hai ống mũi mà hơi thở đi qua. Thời
gian đầu, người ta thường đếm hơi thở từ 01 đến 10 rồi tiếp tục đếm lại
từ 01 đến 10. Việc đếm hơi thở này giúp hành giả dễ tập trung tư tưởng
và tránh được hai chướng ngại là hôn trầm và tán loạn .Trong khi an trú
tâm như vậy, nếu có bất kỳ hiện tượng nào như hình bóng, cảm xúc, kỷ
niệm, lo âu… hiện ra trong đầu thì cứ để chúng xuất hiện tự nhiên, không
đè nén chúng, không có khen, chê hay phê phán chúng và hãy quay về an
trú và đếm hơi thở. Sự huấn luyện tâm hay thiền chỉ này sẽ đưa đến định
lực hay tâm giải thoát.
- Quán là phân tích, xem xét và thâm
nhập vào hay sống với ý nghĩa của 16 đề tài thiền quán, 4 đề tài liên hệ
đến thân , 4 đề tài liên hệ đến cảm thọ , 4 đề tài liên hệ đến tâm và 4
đề tài liên hệ đến pháp . Phép thiền quán như vậy sẽ giúp hành giả thấy
được bản chất vô thường, sinh diệt, mỏng manh của mọi thứ như trong tay
cầm một cục nước đá đang tan chảy. Do vậy tâm trí rời bỏ, không tham
đắm hay bám víu và thành tựu tuệ giải thoát.
Thật sự, Chỉ và Quán luôn được sử dụng
chung trong khi hành thiền và đưa hành giả chứng đạt đích cuối cùng là
giác ngộ và giải thoát khỏi mọi phiền não, khổ đau.
Thiền là một pháp môn đặc biệt mà đức
Phật gọi là “Eko maggo” (độc lộ dẫn đến giải thoát) và Pháp của ngài
giảng có tính thiết thực hiện tại, đến để thấy và chứng nghiệm “Ehi
passiko”, không phải đến để tin một cách mù quáng như đoàn người mù dắt
nhau đi, người đầu tiên không thấy và người đi cuối cùng cũng chẳng
thấy! Thiền hẳn sẽ mang lại niềm hạnh phúc vô biên ngay hiện tại cho tất
cả mọi người.
Theo Người Đưa Tin
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét