GIÁC NGỘ là Cứu Cánh của Con Đường Giải Thoát
Trong bài giảng trước các bạn đã nghe về Thiền Minh Sát. Thiền sinh hành
Thiền Minh Sát thành công sẽ Giác Ngộ; bởi vậy đề tài giảng giải ngày hôm nay sẽ
nói đến Sự Giác Ngộ.
Ngày nay người ta thường nói đến Giác Ngộ. Giác Ngộ là một đề tài phổ
thông, nhưng chúng tôi không biết chắc những người thường nói đến Giác Ngộ có
hiểu những gì mà họ đang đề cập đến không. Sở dĩ chúng tôi nói điều đó vì Giác
Ngộ có rất nhiều nghĩa và tùy theo quan niệm của từng người, của từng tôn giáo.
Giác Ngộ của Thiên Chúa Giáo không cùng nghĩa với Giác Ngộ của Hindu Giáo, của
Hồi giáo, và của Phật Giáo. Chữ Giác Ngộ cũng được dùng với nghĩa chính trị. Bởi
thế trước khi nói về Giác Ngộ chúng ta nên hiểu chữ Giác Ngộ theo nghĩa Phật
Giáo Nguyên Thủy. Trước tiên chúng ta cần biết thế nào là Giác Ngộ. Theo Phật
Giáo, Giác Ngộ là thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế) và
loại trừ những phiền não trong tâm. Như vậy, ít nhất phải có hai yếu tố này
trong Giác Ngộ. Một người Giác Ngộ Đạo Quả thì sẽ thấy, hiểu hay xuyên thấu Bốn
Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế). Nghĩa là hiểu rõ Bốn Chân Lý Cao Thượng bằng
kinh nghiệm của chính mình đồng thời người này phải có đủ khả năng loại trừ phiền
não.
Trong lúc thiền sinh hành Thiền Minh Sát, tâm thiền sinh nằm trên đề mục
Vật Chất và Tâm, hay trên Ngũ Uẩn Thủ (Ngũ Uẩn khiến sinh ra chấp thủ hay làm đối
tượng cho sự chấp thủ). Đó là giây phút hành Thiền Minh Sát. Khi việc hành Thiền
Minh Sát thuần thục, chín muồi thiền sinh Giác Ngộ. Vào giây phút Giác Ngộ, tâm
thiền sinh phóng vào chỗ chấm dứt luồng Vật Chất và Tâm. Có nghĩa là vào thời
điểm đó, thời điểm Giác Ngộ,tâm thiền sinh lấy sự chấm dứt hay "sự dừng
nghĩ của luồng Vật Chất và Tâm " hay "sự dừng nghĩ của Vật Chất và
Tâm " hoặc nói cách khác lấy "Niết Bàn" làm đối tượng. Nghĩa là
tâm thiền sinh vào lúc bấy giờ trụ trên đối tượng đó. Đó là thời điểm Giác Ngộ.
Vào lúc Giác Ngộ "luồng Thiền Minh
Sát" dừng nghỉ. Tâm khởi sinh vào thời điểm Giác Ngộ này là Đạo Tâm. Vào
thời điểm có Đạo Tâm thì không có Tâm Minh Sát. Vì không có Tâm Minh Sát nên
không có đối tượng của Thiền Minh Sát cho thiền sinh này. Như vậy, đối với thiền
sinh vào lúc này thì cả Thiền Minh Sát lẫn đề mục Thiền Minh Sát cũng biến mất.
Thay vào đó là Đạo Tâm, và Đạo Tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng. Đây là một loại
tâm mới đối với thiền sinh, từ trước đến nay thiền sinh chưa bao giờ kinh nghiệm
qua. Tâm này lấy Niết Bàn làm đối tượng cùng
lúc loại trừ phiền não.
Như vậy khi thiền sinh thực hành Thiền Minh Sát đúng cách và nhờ có trí
tuệ thiền sinh đạt đến chỗ dừng nghỉ của Vật Chất và Tâm, trở thành người chứng
ngộ Niết Bàn. Ở đây chúng tôi nói đến thiền sinh thực hành đúng cách (các bạn
là những người thực hành đúng cách) Và nhờ thực hành đúng cách thiền sinh đạt đến
chỗ dừng nghỉ của Vật Chất và Tâm bằng trí tuệ của mình. Điều này không có
nghĩa là thiền sinh đạt đến chỗ dừng nghỉ của Vật Chất và Tâm qua vật lý mà qua
sự hiểu biết hay trong tâm thiền sinh. Thiền sinh đạt đến chỗ dừng nghỉ của Vật
Chất và Tâm hay thiền sinh chứng ngộ được sự dừng nghỉ của Vật Chất và Tâm hay
thiền sinh lấy “sự dừng nghỉ của Vật Chất và Tâm” làm đối tượng. Sư dừng nghỉ của
Vật Chất và Tâm là một tên khác của Niết Bàn.
Đạo tâm khởi sinh lấy Niết Bàn làm đối tượng, đạt được Giác Ngộ. Nghĩa
là vào lúc cuối của sự thực hành Thiền Minh Sát liên tục thì Đạo Tâm khởi sinh.
Đạo Tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng, tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng nên phiền
não không có cơ hội khởi sinh nữa. Những phiền não được loại trừ trong lúc Giác
Ngộ là được loại trừ vĩnh viễn, không có cơ hội khởi sinh nữa. Bắt đầu từ sát
na này, thiền sinh trở thành người Giác Ngộ.
Trong sách Milinda Vấn Đạo (Milinda Pañha: Những câu hỏi của vua
Milinda), Ngài Nāgasena giải thích vào “Sát Na Giác Ngộ” một cách rõ ràng như
sau: Thiền
sinh
từng bước một quán sát không dừng nghỉ Vật Chất và Tâm. Quán sát quá trình Vật
Chất và Tâm luôn luôn trôi chảy không dừng nghỉ. Tâm thiền sinh đang ở trong tiến
trình không dừng nghỉ của Vật Chất và Tâm nhảy vào sự dừng nghỉ của tiến trình
chuyển biến không dừng nghỉ này.
Ở đây,
thiền sinh từng bước một quán sát Vật Chất và Tâm, nghĩa là thiền sinh đang
hành Thiền Minh Sát. Khi hành Thiền Minh Sát, thiền sinh lấy Vật Chất và Tâm
làm đối tượng, và luôn luôn liên tục quán sát chúng. Có nghĩa là thiền sinh
quán sát Vật Chất và Tâm tại từng sát na hiện tại. Trong suốt thời gian hành
thiền hay trong suốt những Sát Na Thiền Minh Sát, tâm thiền sinh trú trên Vật
Chất và Tâm (Ngũ UẩnThủ hay các Pháp Hữu Vi).
Khi Thiền Minh Sát trở nên chín muồi, thiền
sinh Giác Ngộ. Lúc bấy giờ tâm thiền sinh nhảy vào trong sự chấm dứt của luồng
Vật Chất và Tâm đang không ngừng trôi chảy này. Tâm thiền sinh lấy sự chấm dứt,chỗ
dừng nghỉ, sự diệt của luồng Vật Chất và Tâm làm đối tượng,hay nói cách khác là
tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng. Như vậy lúc bấy giờ, tâm của thiền sinh nhảy
vào đối tượng ngay trong sát na đó. Sát na đó gọi là sát na Giác Ngộ.
Vào Sát Na Giác Ngộ, luồng hành Thiền Minh
Sát chấm dứt. Tâm khởi sinh vào lúc Giác Ngộ được gọi là Đạo Tâm. Vào Sát Na Đạo
Tâm không có Sát Na Minh Sát.
Vì không có tâm Thiền Minh Sát nên không có đối tượng của Thiền Minh
Sát. Như vậy, đối với thiền sinh lúc bấy giờ, cả Tâm Minh Sát và đối tượng của
Thiền Minh Sát biến mất, thay vào đó là Đạo Tâm và Đạo Tâm này lấy Niết Bàn làm
đối tượng.
Thế nên, khi một thiền sinh đã hành thiền đúng phương pháp và phát triển
trí tuệ thì sẽ đạt được chỗ chấm dứt của Vật Chất và Tâm. Người đó được gọi là
người Chứng Ngộ Niết Bàn. Khi nói rằng: một thiền sinh thực hành Thiền Minh Sát
đúng đắn nghĩa là thực hành đúng phương pháp. Nhờ thực hành đúng đắn, đúng
phương pháp bằng đường lối trí tuệ nên kết quả là tâm thiền sinh đạt đến chỗ thấy
rõ sự chấm dứt của Vật Chất và Tâm.
Điều này không có nghĩa là chính thiền sinh
đến chỗ chấm dứt Vật Chất và Tâm bằng thân Vật Chất mà qua sự hiểu biết, qua
trí tuệ của mình, tức là tâm thiền sinh đạt đến chỗ chấm dứt Vật Chất và Tâm.
Nói một cách dễ hiểu hơn, thiền sinh thấy biết rõ ràng sự chấm dứt của Vật Chất
và Tâm. Vào sát na đó, thiền sinh lấy sự chấm dứt của Vật Chất và Tâm làm đối
tượng. Sự dừng nghỉ, chấm dứt hay diệt của Vật Chất và Tâm là một tên
khác của Niết Bàn.
Sự Giác Ngộ phải đi theo sau Thiền Minh Sát. Như vậy
trước tiên phải hành Thiền Minh Sát. Kết quả của Thiền Minh Sát mới đưa đến sự
Giác Ngộ. Nhưng thật ra, không thể nói Giác Ngộ hay Đạo Tâm là quả của Thiền
Minh Sát mà phải dùng một chữ khác. Chú Giải không dùng cách nói “Giác Ngộ là
quả của Thiền Minh Sát” mà nói rằng: “Giác Ngộ là lợi ích của Thiền Minh Sát
hay Giác Ngộ là sự thành tựu của Thiền Minh Sát”. Thật ra theo nghĩa thông thường
thì nó là kết quả của Thiền Minh Sát. Như vậy, Giác Ngộ là thành quả của Thiền Minh Sát, nếu không
có Thiền Minh Sát thì sẽ không có Giác Ngộ.
Nếu bạn hiểu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thì bạn
sẽ hiểu rõ ràng rằng: sẽ không có Giác Ngộ, không có Đạo Tâm nếu không có Thiền
Minh Sát. Trong cuốn thứ bảy của Abhidamma nói rằng: Đạo Tâm khởi sinh ngay tức
khắc sau Tâm Chuyển Tánh. Tâm Chuyển Tánh khởi sinh tức khắc ba hay bốn sát na
của Tâm Minh Sát. Bởi vậy nếu không có Tâm Minh Sát, nếu không có chuỗi Thiền
Minh Sát thì sẽ không có Đạo Tâm, không có Giác Ngộ.
Khi đọc những bài giảng, những câu chuyện, đặc biệt là trong Chú Giải,
nhiều lần chúng ta nghe nói đến những người Giác Ngộ tức thì đang khi nghe thuyết
pháp hay vào lúc cuối bài thuyết pháp. Vào lúc cuối bài pháp đầu tiên này, Ngài
Koṇdañña trở thành Tu Đà Hoàn, có nghĩa là Ngài Koṇdañña đã Giác Ngộ. Nghe câu
chuyện này ta thấy dường như Ngài Koṇdañña chẳng hành thiền chút nào cả, Ngài
chỉ nghe bài pháp thứ nhất rồi Giác Ngộ.
Có rất nhiều bài
pháp, đặc biệt là trong kinh Pháp Cú đã nói đến những vị này,
những vị kia trở thành Tu Đà Hoàn, A La Hán… sau khi bài pháp chấm dứt.
Điều đó dường như có sự chứng ngộ tức khắc, và tôi cũng mong muốn điều này xảy
ra cho tôi. Đọc những câu chuyện như vậy, chúng ta thường nghĩ rằng: những người
Giác Ngộ trên chẳng hành Thiền Minh Sát chút nào cả. Nhưng điều đó không đúng
vì mọi sự Giác Ngộ phải khởi đầu bằng Thiền Minh Sát.
Những người đó đã đi qua những tầng mức của
Thiền Minh Sát, từng tầng một. Có thể họ xuyên qua các tầng mức minh sát từng
sát na một trong khi đang nghe pháp hay sau khi nghe pháp vài sát na. Họ xuyên
qua những tầng mức của Thiền Minh Sát cực nhanh đến nỗi bạn thấy dường như họ
Giác Ngộ tức khắc mà không cần hành Thiền Minh Sát, nhưng không có Thiền Minh
Sát thì không thể có Giác Ngộ. Những người trong kinh sách nói Giác Ngộ ngay
sau bài pháp là những người đã tích lũy Pāramī trong nhiều kiếp trước. Họ là những
người có Pāramī đã chín muồi, đầy đủ để Giác Ngộ. Họ chẳng khác nào những đóa
hoa sen đang đợi chờ ánh sáng mặt trời để nở rộn. Những người như vậy đã tích
lũy nhiều kinh nghiệm trong các kiếp sống trước đây nên có thể chứng ngộ, hầu
như ngay tức khắc.
Bắt đầu từ Sát Na Đạo Tâm trở về sau, người đó được gọi là thánh nhân,
hay tiếng Pāḷi gọi là Ariya. Vì vị này đã trở thành thánh nhân nên giới luật của
vị này rất trong sạch. Một người đã Giác Ngộ, giới luật của họ rất trong sạch
dù Giác Ngộ ở tầng mức thấp nhất. Trong kinh nói rằng: các bậc thánh nhân sẽ giữ
năm giới một cách trong sạch. Nghĩa là các vị này sẽ không phạm một trong năm
giới.
Chú Giải nói rằng:, ngay cả những kiếp sau,
một thánh đệ tử của Đức Phật cũng không bao giờ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói
dối, uống rượu. Giả sử có một người đã Giác Ngộ Đạo Quả rồi người đó chết đi, lại
tái sinh làm người trong một kiếp sống mới. Trong suốt kiếp sống đó, người này
không bao giờ phạm giới dù người này chẳng biết mình là một thánh nhân.
Chú Giải đưa ra một ví dụ, nếu một đứa bé đã đắc quả, khi đưa hai con
cá, một con sống và một con chết thì đứa trẻ đó cũng lấy con cá chết. Vị này đã
có sẵn tâm không giết hại hay tâm không phạm ngũ giới. Ngày nay nhiều người cho
rằng: mình đã Giác Ngộ. Có lần tôi thấy trên truyền hình một người cho rằng:
mình là một trong mười hai người Giác Ngộ trên thế giới.
Khi một người nào đó nói rằng: họ Giác Ngộ. Chúng ta chẳng biết họ có thật
sự Giác Ngộ hay không, nhưng chúng ta có thể đánh giá qua phẩm hạnh của họ. Nếu
người đó ít nhất giữ ngũ giới trong sạch, không giết hại chúng sinh v.v… thì phần
nào có thể nói họ Giác Ngộ, nhưng nếu người đó không giữ tròn giới luật thì
chúng ta có thể nói chắc rằng: người đó chưa Giác Ngộ. Đó là một cách để có thể
phán đoán xem một người tự xưng mình Giác Ngộ có thật sự Giác Ngộ không. Cũng
có những
người
nghĩ rằng: họ Giác Ngộ, những người này có thể hành thiền, có thể họ có những
kinh nghiệm mà trước đây họ chưa từng kinh nghiệm qua, do đó có thể họ sẽ chân
thật nghĩ rằng: họ đã Giác Ngộ. Những người này có thể tự mình hỏi mình: Ta có
phạm giới nào không, ta làm gì khi có các loại côn trùng, có chuột, gián trong
nhà ta? Giả sử bạn nghĩ rằng: mình là một người Giác Ngộ, nếu bạn vẫn còn giết
chúng sinh, giết kiến, côn trùng v.v… thì bạn không phải là kẻ Giác Ngộ. Một
người Giác Ngộ giữ
giới luật trong sạch, không bao giờ phạm một trong năm giới.
Phải chăng chỉ có những nhà Sư mới có thể Giác Ngộ?
Phải chăng Giác Ngộ chỉ dành riêng cho những nhà Sư? Tôi nghĩ đây là câu hỏi
ngây ngơ, khờ khạo. Đây là câu hỏi của những người chưa hiểu biết chút gì về Phật
Giáo. Câu trả lời là không. Vào thời kỳ Đức Phật, có rất nhiều cư sĩ đã Giác Ngộ
trở thành thánh nhân.
Một thanh niên trẻ tên là Yasa đến gặp Đức Phật, sau bài thuyết pháp của
Ngài, chàng thanh niên này Giác Ngộ. Cha của chàng thanh niên này cũng Giác Ngộ.
Ngay cả những bậc đế vương, như hoàng đế Bimbisāra cũng Giác Ngộ. Sau khi Giác
Ngộ, vua vẫn tiếp tục trị vì đất nước. Trưởng giả Anāthapiṇdika, người đã xây dựng
và cúng dường chùa Kỳ Viên đến chư Tăng cũng Giác Ngộ. Thiện nam Visākha, những
người cư sĩ như Citta Nakulapita, vua Mahānāma dòng Thích Ca, vị thầy thuốc nổi
tiếng Jivaka cũng Giác Ngộ Đạo Quả. Sau khi Giác Ngộ, họ tiếp tục đời sống cư
sĩ
và
họ chết với tư cách một cư sĩ. Giác Ngộ
không
chỉ dành riêng cho nhà Sư, mọi người đều có thể Giác Ngộ
nếu họ nỗ lực hành Thiền Minh Sát (vipassanā).
Một câu hỏi khác là phải chăng chỉ có đàn ông mới có thể Giác Ngộ? Đây
cũng là một câu hỏi ngu ngơ. Bạn đã từng nghe di mẫu Gotamī muốn trở thành Tỳ
Khưu Ni, nhưng Đức Phật không cho phép? Bà đã xin phép Đức Phật ba lần,nhưng
Ngài từ chối. Câu chuyện kể rằng: bà đã cùng năm trăm công nương dòng Sakya tự
đắp y, đi bộ từ xa đến xin phép Phật xuất gia, nhưng họ không dám đến gần Đức
Phật. Họ đứng ngoài tu viện, rất mệt mỏi sau một hành trình dài. Đại đức Ānanda
gặp các vị này bên ngoài tu viện, hỏi lý do của chuyến viếng thăm này. Khi bà
Gotamī thưa với Ānanda lý do, Đại Đức Ānanda bèn đến gặp Đức Phật, và thay mặt
họ, xin phép Đức Phật cho họ xuất gia. Ānanda nói: “Bạch Đức Thế Tôn, xin Đức
Thế Tôn cho họ trở thành Tỳ KhưuNi. Ānanda xin phép ba lần bèn nói: “Bạch Đức
Thế Tôn, sau khi xuất gia phụ nữ có thể Giác Ngộ không? Họ có thể tu tập đắc quả
Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán không?”. Đức Phật trả lời: “Sau khi
gia nhập thánh chúng, phụ nữ có thể Giác Ngộ Đạo Quả”. Câu trả lời của Đức Phật
cho thấy rằng: Giác Ngộ không chỉ dành riêng cho nam giới mà mọi người đều có
thể Giác Ngộ. Không phải chỉ có nam giới mới Giác Ngộ mà rất nhiều phụ nữ cũng
có khả năng Giác Ngộ.
Vào thời kỳ Đức Phật, có rất nhiều phụ nữ đã Giác Ngộ. Căn cứ theo câu trả lời
của Đức Phật cho Ngài Ānanda, chúng ta biết rằng: phụ nữ cũng có khả
năng Giác Ngộ như ngườinam. Như vậy, người phụ nữ không gặp điều chướng
ngại gì trong việc hành thiền Giác
Ngộ Đạo Quả.
Lúc Đức Phật còn tại tiền rất nhiều phụ nữ xuất chúng đạt đạo quả. Một số
phụ nữ vấn giữ đời sống cư sĩ sau khi Giác Ngộ. Rất nhiều phụ nữ đã gia nhập
Tăng đoàn, trở thành Tỳ Khưu Ni. Trong số những nữ cư sĩ đã Giác Ngộ người nổi
tiếng nhất là bà Visākhā. Bà đắc quả Tu Đà Hoàn lúc bảy tuổi và ở tầng thánh
này cho đến khi chết. Bà sống được một trăm hai mươi tuổi. Di mẫu Gotamī cũng
Giác Ngộ, Yasodhāra, vợ của Bồ Tát Sĩ Đạt Ta cũng Giác Ngộ. Công nương Nandā,
Uppalavaṇṇā, Khemā, Paṭacāra và nhiều người phụ nữ xuất chúng khác đã Giác Ngộ,
trở thành A La Hán.
Nếu bạn muốn biết thêm những câu chuyện, bạn
có thể xem ở Therigāthā Pāḷi (Trưởng Lão Ni Kệ). (Cuốn sách này đã được dịch ra
tiếng Anh. Theo tôi biết có ít nhất đã có hai bản dịch, tên lại “Thánh Ni Kệ”).
Những người đã Giác Ngộ
chính họ có biết là họ đã Giác Ngộ
không?
Giác Ngộ là một sự kinh nghiệm của bản thân. Cũng vậy, sát na ngay sau
khi Giác Ngộ là những tiến trình tâm khiến cho những người Giác Ngộ nhìn lại Đạo,
Quả, Niết Bàn và những phiền não đã được loại trừ, những phiền não chưa được loại
trừ. Những người đó ít nhất cũng đã nhìn lại ba điều: Đạo, Quả, Niết Bàn. Đối với
những phiền não đã được loại trừ và những phiền não chưa được loại trừ, thiền
sinh có thể nhìn lại. Như vậy, mỗi người Giác Ngộ ít nhất phải xem lại Đạo, Quả
và Niết Bàn. Như vậy một người đã Giác Ngộ Đạo Quả thật sự biết những gì họ đã
Giác Ngộ, nhưng nếu những người Giác Ngộ này không có những kiến thức về giáo
pháp thì người này sẽ không biết rằng: những gì mình đã đạt được có tên là Giác
Ngộ.
Một khi bạn đã đến được nơi này và chính bạn thấy biết được nơi này. Ví
dụ như bạn đã đến được chùa này, chính bạn đã thấy cảnh trong chùa, nhưng bạn
không biết tên của chùa này là Như Lai thiền viện. Như vậy một người đã Giác Ngộ
không biết rằng: trạng thái mình đã kinh nghiệm qua có tên là Giác Ngộ, nhưng
chính bản thân người này đã trải qua kinh nghiệm đó. Vì chính người này đã tự
mình kinh nghiệm nên họ biết rằng: mình đã đạt được cái gì đó, nhưng không biết
đó là cái gì.
Đức Phật là người đầu tiên Giác Ngộ. Sau khi Giác Ngộ Đức Phật dạy dỗ
cho chúng sinhcũng Giác Ngộ. Những người nương theo những lời dạy của Đức Phật
thực hành và Giác Ngộ được gọi là sāvaka (thánh đệ tử).
Một câu hỏi được nêu ra ở đây, sự Giác Ngộ của Đức Phật và sự Giác Ngộ của
những đệ tử của Ngài là giống hay khác nhau? Chúng ta phải nói rằng: khác nhau.
Sự Giác Ngộ của Đức Phật kèm theo một số các tuệ giác hay những đặc tính vượt bật
mà chỉ có chư Phật mới có. Ngay khi Đức Phật Giác Ngộ Ngài có ngay Chánh Biến
Tri, vào lúc Giác Ngộ Ngài cũng đạt được tâm Đại Bi. Ngoài ra còn có nhiều tuệ
giác hay trí tuệ Ngài đạt được ngay lúc Giác Ngộ. Những người đệ tử Giác Ngộ của
Đức Phật không có các đặc tính này.
Như vậy, về phương diện Giác Ngộ, có sự khác
biệt lớn lao giữa sự Giác Ngộ của Đức Phật với sự Giác Ngộ của đệ tử. Một người
đệ tử có thể Giác Ngộ, nhưng vào lúc Giác Ngộ người đệ tử đó không thể đạt những
trì tuệ siêu việt như của Đức Phật. Cũng vậy, đối với những phiền não đã loại
trừ cũng có một chút khác biệt. Đức Phật loại trừ tất cả mọi phiền não, không
còn chút vāsanā nào.
Chữ vāsanā là một chữ rất khó dịch. Vāsanā nghĩa là dấu vết, những gì
còn lưu lại. Tôi không biết là dịch như vậy có đúng không. Vāsanā được định
nghĩa là một lực, một sức mạnh tùy thuộc vào phiền não. Vāsanā không phải là
phiền não mà là cái gì đó như là vết tích còn lưu lại của phiền não, một dư lực
còn sót lại của phiền não. Do tàn tích, dư lực này nên một vị A La Hán đệ tử Phật
đã hoàn toàn diệt tận các phiền não có thể vẫn còn những hành vi cử chỉ giống
như những người chưa loại trừ được phiền não. Dư lực hay vết tích của phiền não
đó được gọi là vāsanā.
Vào lúc Giác Ngộ, Đức Phật loại trừ phiền não đồng thời loại trừ vāsanā,
nhưng một vị A La Hán loại trừ phiền não chứ không thể loại trừ vāsanā vào lúc
Giác Ngộ. Như vậy mặc dù những vị A La Hán đã loại trừ tất cả mọi phiền não,
nhưng vāsanā vẫn còn trong họ, chưa được loại trừ.
Tôi hy vọng các bạn đã nghe câu chuyện của đại đức Pinlinda Vacca. Ngài
là một vị A La Hán vào lúc Đức Phật còn tại tiền. Ngài xuất thân từ một gia
đình Bà la môn cao sang, bản chất rất cao ngạo. Trong thời đại bấy giờ, những
người thuộc giai cấp cao thường coi những người giai cấp thấp là những kẻ hèn
kém, ti tiện nên khi đối diện những người này, những người thuộc giai cấp cao
thường có thái độ cao ngạo. Khi nói chuyện với những người này, họ thường nói với
giọng điệu khinh miệt. Vị đại đức này đã quen với thái độ này nhiều kiếp sống
cho nên sau khi đắc quả A La Hán, Ngài vẫn còn dùng những từ ngữ xưng hô thô
tháo, không giống phẩm hạnh của những vị thánh đệ tử. Chẳng hạn gọi những người
khác là tên cà chớn, tên vô lại.
Có câu chuyện về một người đàn ông, có một
hôm người này đem một số rễ thuốc để lên xe chở đến chợ bán. Trên đường đi ông
này gặp đại đức Pinlinda
Vacca.
Vị này hỏi người đàn ông: “Này tên vô lại kia, mày chở cái gì đó”. Người đàn
ông rất giận dữ khi bị gọi như vậy nên đã trả lời Ngài: “Phân chuột”. Khi người
này đến thành phố, ông rất ngạc nhiên khi thấy tất cả rễ thuốc đã biến thành
phân chuột. Bạn bè của ông biết chuyện và hiểu rằng: vị Tỳ Khưu ông gặp trên đường
chính là đại đức Pinlinda Vacca và khuyên ông ta đến xin lỗi Ngài. Khi người
đàn ông đánh xe trở về gặp Ngài, Ngài cũng hỏi: “Này tên vô lại kia, mày chở
cái gì đó”. Người đàn ông nói thật với Ngài rằng: đây là thuốc, thế là xe phân
chuột trở thành xe rễ thuốc.
Mặc dù ngài Pinlinda Vacca đã là một vị A La Hán và đã loại trừ tất cả
phiền não, không còn sự sân hận, nhưng ngài không thể loại trừ những thói quen
cũ là gọi người khác với những tên gọi có vẻ khinh miệt như tên vô lại, tên cà
chớn v.v… Vāsanā rất khó diệt. Những vị A La Hán thì như thế. Trái lại, các vị
Phật loại trừ luôn tất cả vāsanā ngay vào lúc các Ngài Giác Ngộ. Đó là sự khác
biệt giữa Phật và A La Hán về việc loại trừ hoàn toàn các phiền não.
Một người không phải theo Phật Giáo có Giác Ngộ được không? Nghĩa là
ngoài Phật Tử ra thì người theo các tôn giáo khác có Giác Ngộ được không?
Lúc Đức Phật sắp Niết Bàn, và giờ trước khi
Ngài mất, có một đạo sĩ đến gặp Ngài hỏi: “Bạch Ngài, những vị thầy của các tôn
giáo khác nói rằng: họ đã Giác Ngộ, trở thành một người hiểu biết hoàn toàn.
Thưa Ngài, có thật sự những vị đó Giác Ngộ không?”. Đức Phật không trả lời thẳng
câu hỏi đó mà trả lời cách khác. Đức Phật nói:
“Trong bất kỳ giáo pháp hay trong bất kỳ học
thuyết nào mà không có Bát Chánh Đạo thì không thể tìm thấy các vị thánh bậc nhất,
bậc nhì, bậc ba, bậc tư. Trong tôn giáo nào, học thuyết nào có Bát Chánh Đạo
thì sẽ có các vị thánh bậc nhất, bậc nhì, bậc ba, bậc tư”. Có nghĩa là bất kỳ
tôn giáo nào có thực hành Bát Chánh Đạo, có thực hành Thiền Minh Sát thì sẽ có
những người Giác Ngộ trong tôn giáo đó, nhưng nếu không thực hành Bát Chánh Đạo
thì sẽ không thực hành Thiền Minh Sát thì sẽ không có người Giác Ngộ Đạo Quả.
Như chúng ta biết, Giác Ngộ là thành quả của hành Thiền Minh Sát. Khi
nói thực hành Thiền Minh Sát tức là thực hành Bát Chánh Đạo. Như vậy, chúng ta
không thể nói rằng: sẽ không có người Giác Ngộ Đạo Quả ngoài giáo pháp của Đức
Phật; nhưng thật ra, chỉ có trong Phật Giáo mới có Thiền Minh Sát, và chỉ có
người nào thực hành Thiền Minh Sát thì người đó mới Giác Ngộ được. Như vậy,
trong thực tế, ta có thể nói rằng: không thể có người Giác Ngộ Đạo Quả ngoài
Giáo Pháp Đức Phật.
Vào thời kỳ Đức Phật tôi nghĩ câu nói đó rất đúng
vì Đức Phật nói rằng: những giáo phái, những tôn giáo khác không có các Sa Môn
thật sự. Điều này có nghĩa là
trong các tôn giáo khác không có những ẩn sĩ, tu sĩ đã loại trừ được phiền
não. Bởi vậy, nếu nói theo cách khác thì tôn giáo nào có thực hành Thiền Minh
Sát hay Bát Chánh Đạo thì sẽ có các bậc thánh trong tôn giáo đó.
Giác Ngộ Tứ Diệu Đế và Giác Ngộ là một. Có bốn tầng
mức Giác Ngộ tùy theo những phiền não người Giác Ngộ đã loại trừ được. Tầng mức
thứ nhất gọi là Nhập Lưu. Nhập Lưu có nghĩa là đi vào dòng Thánh Đạo. Bất kỳ
cái gì trôi vào trong dòng nước thì chắc chắn sẽ theo dòng đó mà ra sông hay ra
biển. Cũng vậy, khi một người đã đi vào dòng Thánh Đạo thì chắc chắn sẽ đạt Niết
Bàn tối thượng. Tiếng Pāḷi gọi tầng thánh này là Sotāpati.
Người đạt quả Tu Đà Hoàn loại trừ được hai loại phiền não là Tà Kiến và
Hoài Nghi. Người đạt được tầng này gọi là Sotāpanna. Vị này không có tà kiến.
Tà kiến ở đây có nghĩa là có sự hiểu biết sai lầm về linh hồn, tự ngã; hiểu biết
sai lầm về luật Nghiệp Báo. Vị này cũng không còn nghi ngờ: nghi ngờ Phật, nghi
ngờ Pháp, nghi ngờ Tăng, nghi ngờ pháp hành, nghi ngờ lý thập nhị nhân duyên
v.v… Một khi hai loại phiền não làTà Kiến và Hoài Nghi của vị Tu Đà Hoàn đã loại
trừ rồi thì được loại trừ vĩnh viễn, nghĩa là không thể khởi sinh lại trong
tương lai.
Người đắc quả Tu Đà Hoàn sẽ còn tái sinh nhiều
nhất là bảy lần trong tương lai. Các bậc thánh Tu Đà Hoàn không tái sinh vào bốn
ác đạo, chỉ còn tái sinh làm trời hay làm người. Sau khi Giác Ngộ tầng thánh thứ
nhất. Vị này tiếp tục hành thiền và sẽ Giác Ngộ tầng thánh thứ hai gọi là Nhất
Lai (Sakkadāgāmi), có nghĩa là chỉ tái sinh làm người một lần nữa thôi.
Vị đắc tầng thánh thứ hai không loại trừ
thêm được phiền não nào nữa, nhưng làm cho các phiền não còn lại yếu đi so với
tầng mức đầu tiên và đương nhiên là vị này cũng sẽ không bao giờ tái sinh vào bốn
ác đạo. Người đắc quả thánh thứ hai chỉ còn tái sinh lại nhiều nhất là hai lần ở
cõi dục giới, tức là ở cõi người và cõi trời dục giới. Giả sử một người đắc quả
thánh thứ hai tại cõi người, và sau khi chết tái sinh vào cõi trời. Vị này chết
ở cõi trời và trở lại làm người. Đó là lý do gọi vị đắc quả thánh thứ hai được
gọi là Nhất Lai, vì vị này chỉ tái sinh làm người một lần nữa thôi.
Như vậy, vị đắc quả thánh thứ hai hay Nhất Lai (Sakkadāgāmi) sau khi chết
phải tái sinh vào cõi trời, sau khi chết ở cõi trời phải tái sinh hay trở lại
cõi người. Như vậy vị thánh Nhất Lai (Sakkadāgāmi) chỉ còn hai lần tái sinh vào
cõi Dục Giới.
Nếu vị thánh thứ hai tiếp tục hành thiền Minh Sát thì vị này có thể đạt
được bậc thánh thứ ba, Bất Lai (Anāgāmi). Vị thánh Bất Lai không còn trở lại Dục
Giới nữa. Có Nghĩa là không trở lại cõi Người hay cõi trời, ở tầm mức này vị
thánh thứ ba loại trừ thêm hai phiền não nữa. Đó là dục ái và sân hận. Như vậy,
một vị đã đạt quả thánh thứ ba (Bất Lai), không còn tham ái vào vật dục thế
gian nên không thể nào
khởi
tâm sân hận được nữa, bởi vì theo Abhidham-ma sự sợ hãi là một loại sân hận nên
vị này cũng không còn sợ hãi nữa. Vị thánh Bất Lai sau khi chết sinh lên cõi Tịnh
Cư Thiên. Có nghĩa là dù vị này không hành thiền nữa thì ỉ thì vị này cũng đắc
thiền trước khi chết nên sẽ tái sanh cõi Phạm Thiên cao nhất.
Những vị đã đắc tầng Thánh thứ ba sẽ không còn tham ái dính mắc vào đời
sống con người, không dính mắc vào người, những vật sở hữu. Bởi vậy bậc thánh
thứ ba hầu như là một vị A La Hán nhưng khác với vị A La Hán là vị thánh thứ ba
vẫn còn tham ái dính mắc vào cõi Phạm Thiên. Đó là lý do tại sao các Ngài còn
phải tái sinh vào Cõi Tịnh Cư Thiên.
Nếu vị thánh thứ ba tiếp tục thực hành, Ngài sẽ đạt được tầng thánh thứ
tư Arahantship. Arahants là một chữ rất khó dịch ra tiếng Việt. Đây là tầng mức
của một vị thánh hoàn toàn, người đã hoàn toàn loại trừ mọi phiền não trong
tâm. Bởi vậy, không nên dịch chữ Arahants ra một ngôn ngữ nào khác tốt hơn chỉ
gọi các Ngài là Arahants.
Tầng mức thứ tư là tầng mức cao nhất của sự giác ngộ; không còn tầng mức
nào cao hơn. Khi một người đã đạt được tầng mức này thì sẽ loại trừ tất cả mọi
phiền não còn lại. như vậy, vị A La Hán đã hoàn toàn loại trừ phiền não. Như vậy,
một vị đã trở thành A La Hán đạt được tâm hoàn toàn trong sạch, tâm Ngài không
chút phiền não nào nữa cả. Điều này có nghĩa là, Ngài không thể nào dính mắc
vào một thứ gì trên cõi Dục Giới cũng như Cõi Phạm Thiên. Ngài không thể nào nỗi
giận được, không thể nào sợ, không thể nào ganh tỵ v.v…Vì thế tâm của Ngài A La
Hán hoàn toàn thanh tịnh trong sạch.
Bởi vì Tâm của vị A La Hán hoàn toàn trong sạch nên Ngài không còn chút
phiền não nào nữa cả. Bởi vì các Ngài không còn chút phiền não nữa cho nên Ngài
không thể tái sanh. Một trong những phiền não là tham ái, đây là phiền não gây
ra sự tái sanh. Vị A La Hán đã loại trừ tất cả phiền não bao gồm luôn tham ái.
Không còn một tâm sở nào có thể có thể tạo ra được đời sống mới. Bởi vậy vị A
La Hán giống như một ngọn đèn không còn có dầu nữa. Bởi vì đèn không còn dầu
nên không thể tạo ra ánh sang. Bởi vì không còn tham ái, đặc biệt là tham ái sự
hiện hữu vào đời sống, cho nên không các Ngài không còn đời sống tương lai. Bởi
thế có thể gọi vị A La Hán là kẻ chỉ còn nắm giữ cơ thể cuối cùng này. Điều này
có nghĩa là kiếp sống này là kiếp sống mà Ngài đạt quả A La Hán, là đời sống cuối
cùng. Vị A La Hán không còn đời sống nào nữa, hay không còn tái sinh trong
tương lai.
Khi nói vị Tu Đà Hoàn sẽ còn tái sinh trong bảy kiếp nữa, có nghĩa là
cho đến kiếp sống thứ bảy vị này chưa đạt được tầng thánh nào cao hơn. Cuối
cùng, trong
page 79
kiếp
thứ bảy này, vị Tu Đà Hoàn sẽ đạt những quả thánh cao hơn cho đến khi đạt quả A
La Hán, rời khỏi vòng tái sinh. Khi nói vị Tu Đà Hoàn sẽ còn tái sinh trong bảy
kiếp nữa có nghĩa là trong vòng bảy kiếp vị Tu Đà Hoàn không đạt tầng mức nào
cao hơn. Nếu như vị Tu Đà Hoàn đạt được tầng mức cao hơn trong kiếp sống này
thì sẽ trở thành vị Tư Đà Hàm, hay A Na Hàm. Trong trường hợp này thì vị Tu Đà
Hoàn không còn phải tái sinh trong bảy kiếp sống nữa.
Chúng ta đã học thế nào giác ngộ theo Phật Giáo, và chúng ta cũng đã biết
về các tầng mức Giác Ngộ. Mục đích của chúng ta khi thực hành Thiền Minh Sát là
để đạt đến các tầng mứ giác ngộ này. Chúng ta chỉ có thể đạt được các mục tiêu
này khi chúng ta tinh tấn thực hành Thiền Minh Sát cho đến lúc chín muồi hay
cho đến lúc thành công hoàn toàn.
Theo lời khuyên của Đức Phật, sau khi đắc được
tầng thánh thứ nhất hành giả không nên hài lòng với tầng mức này mà tiếp tục nỗ
lực để đạt đến tầng thánh thứ hai. Sau khi đắc được tầng thánh thứ hai, cũng
không nên thỏa mãn dừng lại ở đó mà phải tiếp tục cố gắng không ngừng để đạt đến
tầng thánh thứ ba. Và sau khi đạt tầng thánh thứ ba, hành giả vẫn phải tiếp tục
nỗ lực để đạt đến tầng thánh thứ tư.
Như vậy, Đức Phật khuyên chúng ta không nên hài lòng thỏa mãn chỉ với sự
thực hành giới (sīla), sự thực hành định (samādhi); ngay cả khi đã đạt được tầng
mức Giác Ngộ thứ nhất, thứ hai, thứ ba, bạn vẫn phải tiếp tục nỗ lực không ngừng
cho đến khi đắc được tầng thánh cuối cùng là A La Hán.
Điều này có nghĩa là: mục tiêu của Đức Phật
là giúp chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi khổ đau. Bao lâu chúng ta còn ở trong
vòng luân hồi (saṁsāra) này, dù cho chúng ta có tái sinh lên cõi Phạm Thiên, tuổi
thọ rất lâu dài thì vẫn khổ (dukkha) như thường, vì cuộc sống của Phạm Thiên vẫn
bị Vô Thường chi phối, vẫn có khởi đầu và kết thúc.
Bởi vậy, muốn thoát khổ thì cũng phải thoát khỏi tất cả những thứ liên
quan đến khổ. Bất kỳ hình thức sống nào, bất kỳ kiếp sống nào cũng là khổ. Khi
chúng ta cố gắng thoát khổ thật ra là chúng ta cố gắng thoát khỏi vòng luân hồi
tái sinh (saṁsāra) này.
(Trích Phật Pháp Căn Bản, tác giả Sīlānanda, Khánh Hỷ dịch)
Xem thêm thứ tự:
1. Nền tảng Phật Pháp - hiểu Phật Pháp Tăng - TK Sīlānanda
2. Nền tảng Phật Pháp - Lịch sử Đức Phật Gotama (Thích Ca) - TK Sīlānanda
3. Nền tảng Phật Pháp - Tứ Diệu Đế - TK Sīlānanda
4. Nền tảng Phật Pháp - Bát Chánh Đạo - TK Sīlānanda
5. Nền tảng Phật Pháp - Nghiên cứu về Nghiệp - TK Sīlānanda
6. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Sinh = 12 Nhân Duyên - TK Sīlānanda
7. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Hệ = 24 Hệ Nhân Duyên - TK Sīlānanda
8. Nền tảng Phật Pháp - CÁC HẠNG CHÚNG SINH TRÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT -TK Sīlānanda
9. Nền tảng Phật pháp - Những giới luật quan trọng nhất - Tỳ kheo Silananda
10. Nền tảng Phật pháp - THIỀN ĐỊNH (SAMATHA) - Tỳ kheo Silananda
11. Nền tảng Phật pháp - THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ)) - Tỳ kheo Silananda
12. Nền tảng Phật pháp - Giải thích sự giác ngộ - Tỳ kheo Silananda
13. Nền tảng Phật pháp - Các kỳ kết tập Kinh điển lịch sử - Tỳ kheo Silananda
14. Nền tảng Phật pháp - Hiểu vê Vô Ngã - Tỳ kheo Silananda
Toàn là HỌC GIẢ lý luận xuông, dẫn chứng kinh sách mà thôi. Trong khi đó kinh sách lại là sản phẩm của truyền miệng từ thời chưa có chữ viết. Cái mà nhân loại cần là chia sẻ kinh nghiệm chân thật của bản thân mình từ những HÀNH GIẢ.
Trả lờiXóa