Bài này sẽ giải thích về các loại, hình thức qui y, cũng như giải thích sự thăng tiến giới luật từ 5 giới, 8 giới, 10 giới.
Khi đề cập đến con đường tiến bộ tâm linh,
chúng ta đã nói đến những hạng người đã đi trên con đường tiến bộ tâm linh, bây
giờ chúng ta nói thẳng vào sự tiến bộ tâm linh hay tìm hiểu thế nào là con đường
tiến bộ đó. Con đường tiến bộ tâm linh thật sự có nghĩa là sự thực hành để tiến
bộ tâm linh.
Chúng ta tự nhận mình là người con Phật, vậy thì chúng ta phải làm gì để
đúng nghĩa với danh từ này. Chúng ta rất may mắn là học trò của Đức Phật, và đã
được Đức Phật chỉ cho con đường tâm linh. Để trở thành người học trò của Đức Phật,
điều trước tiên chúng ta phải làm là nương tựa vào Đức Phật hay còn gọi là Quy
Y. Bây giờ chúng ta hãy bắt đầu con đường tiến bộ tâm linh bằng sự Quy Y hay
tìm nơi nương tựa, nơi trú ẩn an toàn.
QUY Y
Khi còn bé, những lúc sợ hãi chúng ta thường
chạy đến cha mẹ để tìm sự che chở. Một khi đã ở trong vòng tay của cha mẹ thì sự
sợ hãi chấm dứt. Những khi chúng ta gặp điều nguy hiểm, chúng ta thường cố gắng
chạy đến một nơi nào đó để tránh nguy hiểm. Khi khí hậu bên ngoài quá nóng,
chúng ta chạy vào nhà để tìm sự mát mẻ. Ngôi nhà trở thành chỗ trú ẩn của chúng
ta để tránh cái nóng bên ngoài. Cũng vậy khi trời lạnh lẽo chúng ta cũng phải
vào nhà để tránh cái lạnh giá bên ngoài. Nhà cửa là nơi trú ẩn để chúng ta
tránh nóng, lạnh, thú dữ và những hiểm nguy của thời tiết như: mưa, gió, bão
bùng.
Trên hành trình dài đăng đẵng của vòng luân
hồi, đôi lúc chúng ta cảm thấy sợ hãi, đôi lúc chúng ta cảm thấy nguy hiểm. Khi
gặp cảnh sợ hãi hay nguy hiểm, chúng ta cần một nơi nào đó để trú ẩn. Chúng ta
cần có một người nào hay một cái gì giúp chúng ta thoát khỏi sự sợ hãi hay hiểm
nguy. Qui Y cũng có ý nghĩa tương tự.
Thế nào là trú ẩn, Nương Tựa hay Qui Y? Theo Chú Giải xưa, chữ Qui Y hay
Nương Tựa có nghĩa là dựa vào người hay
cái gì đó để làm tan biến tình trạng sợ
hãi, kinh khiếp, đau khổ, những nghịch cảnh, những sự bất an, nhất là những đau
khổ trong vòng luân hồi sinh tử. Trong ý nghĩa này thì Phật, Pháp, Tăng hay Tam Bảo được gọi là nơi trú ẩn, nương tựa hay Quy Y.
Đức Phật được
gọi là Nơi Nương Tựa hay Qui Y; bởi vì Ngài xoa dịu nỗi sợ hãi của chúng ta, của chúng sinh. Điều này
có nghĩa là Đức Phật giúp chúng ta tránh được nỗi hiểm nguy, bằng cách đưa
chúng ta đến chỗ an toàn, lợi ích, tốt đẹp. Đức Phật chẳng khác nào một vị thầy
tài ba, giỏi giang. Đức Phật luôn luôn dạy chúng ta: “Hãy làm điều tốt, tránh
xa điều xấu”. Khi Đức Phật nói hãy làm điều tốt nghĩa là
page 27
Đức Phật cam kết nếu chúng ta làm điều thiện, điều tốt thì chúng ta sẽ đạt
được nhiều lợi ích. Khi Đức Phật dạy đừng làm những hành vi bất thiện, xấu xa
có nghĩa là Đức Phật đưa chúng ta ra khỏi nơi nguy hiểm, không tốt đẹp.
Pháp
cũng là nơi nương tựa. Khi một người thấu hiểu Giáp
Pháp thì họ sẽ Giác Ngộ. Khi đã Giác
Ngộ thì người này có đủ khả năng để vượt qua biển khổ sinh tử luân hồi, đến bờ
bên kia một cách an toàn. Dù chỉ đạt được những tầng mức Giác Ngộ thấp hơn thì
người thấu hiểu Giáp Pháp, ít nhất, cũng đã bước một chân ra khỏi vòng luân hồi.
Trong ý nghĩa này Pháp Bảo được gọi là Nơi Nương Tựa, Pháp Bảo cũng làm dịu đi
nỗi sợ hãi hay hiểm nguy cho chúng sinh.
Tăng bảo cũng
được gọi là Nơi Nương Tựa vì Tăng là những bậc đã hoàn toàn loại trừ hay loại trừ một phần nào phiền não, là gương lành trong
sạch, là mẫu mực để chúng ta nương theo. Các bậc Thánh tăng đã đi theo con đường
của Đức Phật, đã giải thoát Giác Ngộ, tạo niềm tin cho chúng ta, khiến chúng ta
sẵn sàng đi trên con đường Đức Phật đã chỉ dẫn. Bởi vậy, mỗi khi dâng cúng cho
chư Tăng, chúng ta gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp từ sự cúng dường này. Khi
chúng ta tỏ lòng tôn kính hay đảnh lễ Chư Tăng, chúng ta cũng gặt hái được nhiều
kết quả tốt đẹp do sự tôn kính đảnh lễ đó. Mặc khác, nếu chúng ta cúng dường
cho những vị không xứng đáng nhận lãnh vật cúng dường thì chúng ta không gặt
hái được kết quả tốt đẹp bằng cúng dường đến Chư Tăng.
Chư tăng được gọi là Nơi Nương Nhờ bởi vì chư Tăng đã làm cho của cúng
dường của chúng ta, làm cho hành vi tỏ lòng kính trọng của chúng ta, đem lại kết
quả tốt đẹp. Nương nhờ Tăng, Quy Y Tăng ở đây, có nghĩa là nương nhờ gương lành
trong sạch của các Ngài, lấy các Ngài làm chỗ dựa trên con đường tiến đến Giác
Ngộ như các Ngài. Là một người Phật Tử, thì Phật, Pháp và Tăng là Nơi Nương Nhờ
của chúng ta. Để xác quyết rằng: Chúng
ta là những người con Phật nương nhờ vào
Tam Bảo nên chúng ta Quy Y.
Chắc các bạn đều biết thế nào là Quy Y! Làm thế nào để Quy Y? Theo Vi Diệu
Pháp thì vào lúc Quy Y một thiện tâm khởi sinh trong ta. Thiện tâm này (kusala)
là tâm thanh tịnh, không có phiền não. Thiện tâm này là trí tuệ hiểu rõ Tam Bảo,
đặt lòng tin vào Tam Bảo. Khi thiện tâm này phát sinh, lấy Tam Bảo làm đối tượng
ta đặt lòng tin vào Tam Bảo. Như vậy, Quy Y Tam Bảo thật sự có nghĩa là sự sinh
khởi của loại thiện tâm lấy Tam Bảo làm đối tượng.
Khi chúng ta nói “Con xin Quy Y Phật, Quy Y
Pháp, Quy Y Tăng” nghĩa là chúng ta xem Phật, Pháp, Tăng là nơi nương tựa tối
thượng của mình. Ta chọn Phật, Pháp, Tăng là nơi trú ẩn Nơi Nương Tựa cao thượng
nhất. Quy Y hay nương nhờ có nghĩa
là sự khởi sinh trong tâm loại tâm này. Khi chúng ta nói “Con xin Quy Y
Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng” thì tâm này khởi sinh trong tâm ta, không bị ô
nhiễm bởi phiền não. Loại tâm này có đặc tính là tôn kính Tam Bảo. Đồng thời
tâm này chỉ lấy Tam Bảo làm nơi nương tựa chứ không nương tựa vào nơi nào khác.
Trong Chú Giải, giải thích ai là người Quy Y? Điều này có nghĩa là hạng
người nào Quy Y. Câu trả lời là người có loại tâm này hay là người có tâm này
là kẻ đang Quy Y. Muốn Quy Y chúng ta chỉ đơn giản xem Phật, Pháp, Tăng là vị
thầy, là người hướng dẫn của chúng ta. Quy Quy Y không có nghĩa là chỉ có đức
tin vào Phật mà chẳng làm gì cả, chỉ nghĩ rằng: chỉ cần dựa vào Phật là đạt được
kết quả tốt. Quy Y có nghĩa là nhận Đức Phật làm người hướng dẫn tin thần cho
mình.
HAI LOẠI QUY Y
Có hai loại Quy Y,
Quy Y Siêu Thế và Quy Y Thế Tục.
1. Quy Y Siêu Thế:
Quy Y Siêu Thế xảy ra vào lúc Giác Ngộ hay
vào lúc Đạo Tâm khởi sinh. Khi Đạo Tâm khởi sinh, thiền sinh Giác Ngộ Tứ Diệu Đế,
lấy Niết Bàn làm đối tượng ngay vào lúc đó. Ngay vào lúc Đạo Tâm phát khởi là
lúc Quy Y thành tựu. Và lúc đó sự Quy Y được thiết lập một cách vững chắc đối với
người này. Đó là Quy Y Siêu Thế.
2. Qui Y Thế Tục:
Quy Y Thế Tục là Quy Y dành cho người thế tục (puthujjana). Người thế tục
này đè nén phiền não chướng ngại trong khi Quy Y. Những chướng ngại trong khi
Quy Y có nghĩa là: không tin tưởng, không hiểu biết gì về Tam Bảo v.v…
Khi Quy Y hiểu rõ ràng về Tam Bảo, họ có đức
tin hay có sự tín nhiệm vào Tam Bảo, đồng thời khi Quy Y, họ lấy những đặc tính
tuyệt diệu của Tam Bảo làm đối tượng. Điều này có nghĩa là khi Quy Y, người Quy
Y nghĩ đến những đức tính tốt đẹp của Phật, của Pháp, của Tăng. Phật Pháp Tăng,
đối với người Phật Tử, là những đối tượng của đức tin và sự tín nhiệm của họ.
Khi chúng ta đạt được đức tin vào Phật Pháp Tăng là chúng ta Quy Y.
Đức tin giúp chúng ta có Chánh Kiến; bởi vì nhờ có đức tin nên chúng ta
mới học hỏi những lời dạy của Đức Phật. Nhờ học hỏi những lời dạy của Đức Phật
nên chúng ta có sự hiểu biết đúng đắn hay có Chánh Kiến. Vào lúc Quy Y thì Đức
Tin và Chánh Kiến khởi sinh trong tâm chúng ta. Có mười Thiện Nghiệp mà Thiện
Nghiệp cuối cùng là có Chánh Kiến. Chánh Kiến là gốc rễ của Đức Tin hay lòng
tin tưởng nhiệt thành và Tam Bảo.
page 29
Bốn Loại Quy Y Thế Tục
Thứ nhất là cúi mình
tuân phục Phật, Pháp, Tăng. Thay vì nói con Quy
Y Phật, Pháp, Tăng thì nói con cúi đầu tuân phục Phật, Pháp, Tăng.
Khi cúi mình tuân phục thì chúng ta nói “bắt
đầu từ ngày hôm nay, con tuân phục Phật Pháp Tăng”. Câu “bắt đầu từ ngày hôm nay” là câu tôi dịch sát nghĩa
đúng theo văn Pāḷi. Câu này có nghĩa
là bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi, con hạ mình tuân phục theo Phật, Pháp, Tăng.
Thứ hai là nhận Phật,
Pháp, Tăng là Nơi Nương Tựa Tối Thượng của mình. Câu
này có nghĩa là lấy Phật, Pháp, Tăng làm Nơi Trú Ẩn, Nơi Nương Tựa tuyệt hảo nhất. Khi chúng ta dùng
nghĩa thứ hai này để Quy Y thì lúc Quy Y ta nói “bắt đầu từ ngày hôm nay con nhận
Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng làm Nơi Nương Tựa Tối Thượng của con” hoặc “bắt đầu
từ ngày hôm nay con có Nơi Nương Tựa Tối Thượng là Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng”.
Thứ ba là chấp nhận
mình là học trò của Phật, Pháp, Tăng. Đôi lúc bạn không nói “con cúi đầu tuân phục Phật,
Pháp, Tăng” hay “bắt đầu từ ngày hôm nay con nhận Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng
làm Nơi Nương Tựa Tối Thượng của con” mà nói “con là học trò của Phật, học trò
của Pháp, học trò của Tăng”. Khi nói như vậy thì chúng ta đã Quy Y Phật, Pháp,
Tăng. Như vậy, cách thứ ba là nhận mình là học trò, là đệ tử của Phật, Pháp,
Tăng.
Thứ
tư là thành kính đảnh lễ Đức Phật, Pháp, Tăng qua sự tôn kính đảnh lễ. Theo
cách này thì khi chúng ta đang ngồi mà thấy Phật hoặc một vị Sư đi ngang qua chúng ta đứng dậy tỏ lòng
tôn kính. Đó cũng là hình thức Qui Y Thế Tục. Trong thực tế, người Phật Tử biểu
lộ sự Quy Y này bằng cách lễ lạy hoặc chấp tay biểu lộ sự cung kính. Tất cả những
hành vi biểu hiện sự tôn kính trên đều chứng tỏ chúng ta Quy Y Phật, Pháp,
Tăng. Mặc dù không nói bằng lời, nhưng khi chúng ta cúi xuống lễ lạy Phật,
Pháp, Tăng là chúng ta đã Quy Y.
Thông thường khi Quy
Y chúng ta đọc những câu theo khuôn mẫu:
“Buddaṁ saraṇaṁ gacchāmi, Dhammaṁ saraṇaṁ gacchāmi, Saṇghaṁ saraṇaṁ
gacchāmi”
(Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật.
Con đem hết lòng thành kính xin qui y Pháp. Con đem hết lòng thành kính xin qui
y Tăng)
Nói những câu như thế là chúng ta đã Quy Y Tam Bảo theo cách thứ hai.
Câu “bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi con Quy Y Phật, Pháp, Tăng”. Câu này chỉ
dùng khi chúng ta Quy Y lần đầu. Bây giờ, hằng ngày chúng ta đều đọc Quy Y. Thật
ra, ngay
từ
thuở nhỏ chúng ta đã Quy Y và hằng ngày ta đều Quy Y. Như vậy chúng ta không cần
nói câu “bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi”. Nếu chúng ta nói câu “bắt đầu từ ngày
hôm nay trở đi con Quy Y Phật, Pháp, Tăng” thì có nghĩa là hôm qua chúng ta
chưa Quy Y. Do đó câu này chỉ áp dụng cho người mới Quy Y lần đầu. Còn đối với
Phật Tử chúng ta đã Quy Y rồi và hằng ngày đều đọc tam quy và ngũ giới thì khỏi
cần đọc câu “bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi”.
Về vấn đề khi tôn kính một người nào đó nên chúng ta lễ lạy, tỏ vẻ kính
trọng hoặc khi sợ hãi chúng ta cũng lễ lạy hoặc khi lễ lạy những người bà con
trưởng thượng hơn mình thì đó không có nghĩa là chúng ta Quy Y họ.
Khi Đức Phật về kinh thành, các thân quyến
thuộc dòng Thích Ca (dòng Koliya) đảnh lễ Đức Phật với tư cách là một người bà
con, một người thân quyến đáng kính của mình. Dù đó là đảnh lễ Đức Phật đi nữa,
nhưng cũng không phải là Quy Y. Nếu bạn đảnh lễ Đức Phật bởi vì Đức Phật là bà
con của bạn thì đó cũng không phải là Quy Y. Khi bạn lễ lạy, tỏ lòng tôn kính
vì sợ hãi thì đó cũng không phải là Quy Y. Chú Giải có giải thích điều này: Nếu
một người đảnh lễ Đức Phật với tâm lo sợ, nghĩ rằng: ẩn sĩ Gotama được nhà vua
tôn kính và ẩn sĩ có những năng lực vĩ đại nếu ta không tôn kính đảnh lễ thì
Ngài sẽ hại ta, hoặc nhà vua hay người khác sẽ hại ta thì đó không phải là Quy
Y. Nếu đảnh lễ Đức Phật vì lo sợ, vì bắt buộc phải làm hay vì một lý do nào
khác mà không phải là biểu hiện lòng tôn kính tin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng
như vậy thì không phải là Quy Y. Quy Y thật sự khi bạn đảnh lễ tỏ lòng tôn kính
người đó. Sự tôn kính đó đặt căn bản trên giá trị tinh thần tốt đẹp của người
đó. Có nghĩa là khi tôn kính lễ bái Đức Phật vì chúng ta tin hay hiểu biết rằng:
Đức Phật là người có phẩm chất cao thượng nhất, xứng đáng được chúng ta tôn
kính, cúng dường. Chỉ như vậy mới gọi là Quy Y theo nghĩa thứ tư.
Bây giờ chúng ta hãy bàn luận rộng thêm về vấn đề Quy Y này. Khi bạn đã
Quy Y Tam Bảo, nhưng bạn có một người bà con thuộc tôn giáo khác, giả sử người
đó theo đạo Thiên Chúa, bạn lễ bái, tôn kính người đó vì người đó là thân bằng
quyến thuộc của bạn. Khi phải đảnh lễ một người khác tôn giáo vì người đó là
thân bằng quyến thuộc của bạn thì bạn có đứt Tam quy không? Câu trả lời là
không.
Vào thời đại quân chủ, trong nước có vua. Bạn
phải cung kính lễ lạy nhà vua. Bạn quỳ lạy trước nhà vua bởi vì bạn sợ rằng: nếu
không làm như thế bạn sẽ bị trị tội, bạn có thể bị ở tù hay bị đánh đập. Vì sợ
hãi nên bạn phải lễ lạy nhà vua thì bạn cũng không đứt Tam Quy.
Theo phong tục của đông phương, vị thầy rất
được tôn kính, mọi người cũng như học trò thường lễ lạy những người đó vị họ là
người thầy. Những người lễ lạy
page 31
một người nào đó, tỏ lòng tôn kính vị đó bởi vì vị đó là một vị thầy thì
đó không phải là Quy Y.
Bạn có một vị thầy dạy
học, về sau vị này trở thành một tu sĩ của tôn giáo khác.
Bạn đảnh lễ vị thầy này bởi vì đây là vị thầy
dạy học cũ của mình, vậy bạn có đứt
Tam Quy không? Câu trả lời là không.
Bạn gặp một tu sĩ của tôn giáo khác, vị này không phải bà con của bạn, vị
này cũng không phải thầy của bạn, bạn cũng chẳng sợ hãi gì vị này, nhưng bạn
nghĩ rằng: đây là một người tu hành, dù thuộc tôn giáo khác đi nữa cũng đáng
cho ta kính trọng nên bạn đảnh lễ vị đó. Như vậy bạn có đứt Tam Quy không?
Chú Giải không giải thích điều này, bạn muốn
làm sao thì tùy bạn, bạn phải tự quyết định lấy. Tôi nghĩ rằng: bao lâu bạn
không xem người này là vị thầy có thể dẫn dắt mình ra khỏi vòng luân hồi sinh tử
thì bạn sẽ không đứt Tam Quy, hoặc bạn không xem người này là vị thầy dạy bạn
hành thiền, giúp bạn thoát khỏi những phiền não trong tâm thì bạn không đứt Tam
Quy.
Tóm lại, khi bạn theo một người nào mà bạn
nghĩ rằng: đây là vị thầy có thể giúp cho mình thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi,
đây là vị thầy dạy ta hành thiền, đây là vị thầy giúp ta loại trừ phiền não
trong tâm thì khi đó bạn đứt Tam Quy.
Giả sử có một người phụ nữ đang mang thai, vị
này nói rằng: “Đứa bé trong bụng tôi xin Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng”
hay “tôi Quy Y Phật, Pháp, Tăng cho đứa bé này” v.v… Trong trường hợp này thì đứa
bé đó có được Quy Y chăng?
Vào thời kỳ Đức Phật có một vị hoàng tử tên là Bodhi. Vị hoàng tử thỉnh
Đức Phật đến nhà để trai tăng. Sau lễ trai tăng, hoàng tử Bodhi hỏi Phật về
cách thực hành của Ngài trước khi thành đạo, Ngài đã chịu khó khăn và nỗ lực
như thế nào để trở thành một vị Phật. Đức Phật kể lại rất nhiều chi tiết về việc
thực hành của Ngài, về việc hành Thiền Định theo các vị thầy ngoại đạo, về sáu
năm khổ hạnh trong rừng, và sau đó là phương pháp Thực Hành Trung Đạo. Khi Đức
Phật giảng giải xong, một người bạn của hoàng tử Bodhi nói: “Bạn ơi, bạn tôn
kính tán dương Đức Phật, nhưng bạn chưa Quy Y với Phật”. Hoàng tử Bodhi nghe
nói thế trả lời: “Mặc dù từ khi lớn lên tôi chưa Quy Y với Phật, nhưng khi tôi
còn trong bụng mẹ, mẹ tôi đã cho tôi Quy Y với Phật rồi”. Câu nói của hoàng tử
Bodhi cho thấy hoàng tử đã xem mình là một người đã Quy Y Tam Bảo.
Chú Giải giải thích rằng: sẽ không có Quy Y
nếu không có hiểu biết, không có sự lưu tâm đến việc Quy Y. Điều này có nghĩa
là mặc dù mẹ của hoàng tử đã Quy Y cho ông từ trong bụng mẹ, nhưng thật ra ông
chưa Quy Y bởi vị lúc đó hoàng tử không
biết. Sau khi hoàng tử được sinh ra, lúc hoàng tử đã có đủ sự hiểu biết,
mẹ của hoàng tử nói rằng: bà đã cho hoàng tử Quy Y lúc còn trong bào thai. Vào
lúc người mẹ nói như thế, hoàng tử biết rằng: mình đã Quy Y thì ngay lúc đó
hoàng tử đã Quy Y.
Đức Phật lúc chưa Giác Ngộ Đạo Quả, còn là một Bodhisatta, vì là người
có trí tuệ nên đôi khi Ngài dạy những người khác điều gì, nếu những người đó vì
được Bồ Tát hướng dẫn nên tôn kính và đảnh lễ Ngài thì đó cũng không phải là
Quy Y. Không những thế, ngay cả khi Bồ Tát đã thành Phật, Đức Phật nhiều khi chỉ
dẫn cho những người cư sĩ làm thế nào để việc làm ăn được ngày càng tiến bộ hoặc
dạy họ làm thế nào để dùng của cải họ đã kiếm được. Khi nghe lời hướng dẫn ấy,
họ đảnh lễ Đức Phật vì họ biết ơn Đức Phật đã chỉ dẫn cho họ cách sử dụng tài sản
thì đó cũng không phải là Quy Y.
Chắc các bạn đã biết Đức Phật dạy cách sử dụng lợi tức của mình một cách
tốt đẹp bằng cách phân chia thành nhiều phần. Phần đầu tiên để sử dụng cho cuộc
sống của mình, phần thứ hai và thứ ba để dùng làm vốn buôn bán làm ăn. Phần thứ
tư để dành phòng khi trái gió trở trời hoặc gặp hoạn nạn. Như vậy bạn phải chia
lợi tức của bạn thành bốn phần. Hai mươi lăm phần trăm để tiêu xài cho mình và
gia đình, năm mươi phần trăm để phát triển việc làm ăn. Hai lăm phần trăm còn lại
bỏ vào trong ngân hàng để phòng ngừa khi gặp điều gì bất trắc.
Nhiều khi Đức Phật dạy tiền của kiếm được
nên chia làm năm phần. Phần đầu tiên để nuôi sống chính mình (bỏ vào lỗ trống),
phần thứ hai để phụng dưỡng cha mẹ (trả nợ cũ), phần thứ ba để nuôi dưỡng con
cái (cho vay nợ mới), phần thứ tư để dành phòng thân (đào lỗ để dành), phần thứ
năm để bố thí cúng dường, giúp đỡ người bị bệnh tật tai nạn, thiên tai (rải
trên mặt đất).
Quy Y sẽ thành tựu khi có sự hiểu biết hay ý thức
rõ ràng.
Khi Quy Y hay khi ta
nói:
“Buddaṁ saraṇaṁ
gacchāmi
Dhammaṁ saraṇaṁ
gacchāmi
Saṇghaṁ saraṇaṁ
gacchāmi”
(Con đem hết lòng thành kính xin qui y Phật. Con đem hết lòng thành kính
xin qui y Pháp. Con đem hết lòng thành kính xin qui y Tăng) thì chúng ta phải
hiểu là chúng ta đang Quy Y Tam Bảo. Trong các quốc gia Phật Giáo như Miến Điện
chẳng hạn, mọi người đã quen với cách thức Quy Y. Họ chỉ đọc những câu khuôn mẫu
có sẵn, nhiều khi họ chẳng biết đến ý nghĩa của những câu xin Quy Y mà họ đang
đọc. Có lần tôi hỏi mọi người: “Quý vị đang đọc cái gì đó? Nghĩa của những câu
nói ấy như
page 33
thế nào?” Họ chẳng hiểu gì cả. Bởi vậy tôi nói với họ muốn Quy Y một
cách nghiêm túc thì quý vị phải hiểu những gì quý vị đang nói. Khi quý vị nói
Buddaṁ saraṇaṁ gacchāmi, Dhammaṁ saraṇaṁ gacchāmi, Saṇghaṁ saraṇaṁ gacchāmi, mặc
dù quý vị không hiểu nghĩa từng chữ, nhưng ít nhất bạn cũng phải hiểu rằng: đây
là những câu xin Quy Y hay cụ thể hơn là “Con xin Quy Y Phật, con xin Quy Y
Pháp, con xin Quy Y Tăng”. Đó là điều tôi luôn nhắc nhở các Phật Tử khi họ Quy
Y.
Quy Y là một việc làm rất nghiêm túc, quan trọng, quý báu. Đây là hành
vi biểu hiện lòng tin tưởng vào Tam Bảo. Bởi vậy mỗi lần Quy Y, đọc những câu
Quy Y thì chúng ta phải làm với tâm nhiệt thành, trang trọng, thành khẩn chứ đừng
Quy Y cho có lệ hay đó là một việc mang tính hình thức mình phải làm hằng ngày.
Chúng ta phải hiểu nghĩa của những câu Quy Y. Khi đọc câu “Con xin Quy Y Phật,
con xin Quy Y Pháp, con xin Quy Y Tăng” phải hiểu rõ trong tâm là chúng ta đang
muốn noi theo gương lành của Phật, Pháp, Tăng. Nghĩa là tôi nhận Phật, Pháp,
Tăng là người hướng dẫn tinh thần.
Trong đời người Phật Tử đọc quy giới rất nhiều lần. Một câu hỏi được nêu
ra là có cần phải Quy Y hằng ngày không? Hầu như những người Phật Tử đều Quy Y
hay đọc quy giới hàng ngày. Chúng ta có phải đọc hàng ngày hay không nếu chúng
ta bận công việc làm ăn và nếu ngày đó họ bận không đọc quy giới thì có phải là
ngày đó họ không Quy Y hay không? Mỗi lần Quy Y như vậy thì hiệu lực của nó kéo
dài bao lâu? Ba năm, năm năm hoặc kéo dài đến suốt đời cho đến khi bạn chưa bỏ
Phật, Pháp, Tăng. Thật ra không cần phải đọc quy giới hàng ngày. Lần đầu tiên
khi Quy Y chúng ta nói “bắt đầu từ hôm nay cho đến trọn đời tôi Quy Y Phật,
Pháp, Tăng”. Dựa vào câu nói này thì ta chỉ Quy Y một lần, nhưng chúng ta hầu
như hàng ngày được khuyên đọc lại quy giới vì chúng ta muốn xác quyết đức tin của
chúng ta vào Tam Bảo. Chúng ta muốn xác quyết rằng: mình luôn luôn là người con
Phật, luôn luôn là đệ tử của Tam Bảo. Khi đọc lại Tam quy là chúng ta vun bồi đức
tin. Quy Y, đọc lại Tam quy là một hành vi thiện lành. Mặc dù, nếu nói theo một
cách tuyệt đối thì không cần Quy Y hàng ngày, nhưng theo tôi nghĩ đọc lại quy
giới là việc nên làm hàng ngày.
Chú Giải có đề cập đến những ô nhiễm trong sự Quy Y. Những phiền não, ô
nhiễm trong sự Quy Y.
QUY Y SIÊU THẾ
Siêu thế Quy Y có nghĩa là không có phiền
não trong sự Quy Y bởi vì siêu thế Quy Y chỉ có được khi người Quy Y đó đã Giác
Ngộ. Siêu thế Quy Y không có phiền não, nhưng thế tục Quy Y có thể có phiền
não. Khi chúng ta không có sự hiểu biết
về Tam Bảo hay khi chúng ta có sự nghi ngờ về Tam Bảo, hoặc khi chúng ta
có sự hiểu biết sai lầm về Tam Bảo thì đó là sự Quy Y bị ô nhiễm, không thanh tịnh.
Khi Tam quy bị đứt thì chỉ có thế tục Quy Y
mới đứt còn siêu thế Quy Y không bị đứt. Có hai loại đứt Tam quy: đứt Tam quy
đáng chê trách và đứt Tam quy không đáng chê trách. Đáng chê trách có nghĩa là
đem lại kết quả đau khổ, phiền muộn. Không đáng chê trách có nghĩa là không đem
lại kết quả đau khổ, phiền muộn. Đứt Tam quy đáng bị chê trách khi chúng ta tự
mình khuất phục dưới một vị thầy không phải là Phật, Pháp, Tăng. Có nghĩa là
tin tưởng theo những vị thầy không phải ở trong Phật Giáo. Điều này có nghĩa là
từ bỏ sự tin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng. Đây là loại đứt Tam quy đáng chê trách
bởi vì theo quan điểm của Phật Giáo điều này đưa đến hậu quả đau khổ thảm hại.
Đứt Tam quy không đáng bị chê trách là khi
người có Tam quy chết đi. Khi đứt Tam quy không đáng chê trách khởi sinh thì sẽ
không đưa đến kết quả đau khổ bởi vì chết chính nó là quả của Nghiệp trong quá
khứ. Vì đó là quả nên nó không có khả năng để tạo ra một quả khác hay không có
khả năng đem lại một quả đau khổ v.v…
Trong Phật Giáo, những nghi lễ mà vị Sư thực hiện khi có một người chết
như sau: Trước tiên thân nhân hay những người cư sĩ đọc Tam quy và ngũ giới,
sau đó họ cúng dường thực phẩm đến chư Tăng, rồi chia phước báu của sự cúng dường
này đến những người đã quá vãng. Ở Miến Điện, người ta gọi các hình thức Quy Y
trước khi làm phước và chia phước đến người chết là "cúng dường sự Quy
Y" hay "giúp cho người khác Quy Y". Nhiều người nghĩ rằng: đây
là Quy Y cho xác chết. Nhưng thật ra, xác chết chỉ là xác chết, thân thể người
chết bây giờ chỉ như một khúc gỗ vô tri chẳng biết gì cả. Chúng ta phải hiểu ý
nghĩa phía sau nghi lễ đó. Sau khi chết người chết sẽ tái sinh vào một cảnh giới
mới, ở cảnh giới mới họ có đời sống mới. Bà con thân quyến còn sống của người
chết muốn trong đời sống mới người này phải được Quy Y. Có nghĩa là vị này mới
sinh ra trong đời sống mới chưa được Quy Y nên phải cho họ Quy Y. Theo ý nghĩa
này, thân nhân mời người đã mất cùng Quy Y với họ, nương theo Tam Bảo và họ thỉnh
các vị Sư hướng dẫn cho họ và người đã mất Quy
Y. Nghi
thức trong tang lễ này để giúp đỡ cho những người đã mất trong đời sống mới là
người Quy Y Tam Bảo nên ở Miến Điện gọi những nghi lễ này là lễ đưa người đã mất
đi Quy Y.
Không có vấn đề đứt Tam quy trong siêu thế
Quy Y vì đây là sự Quy Y của một người vào lúc họ Giác Ngộ. Chú Giải giải thích
rằng: một vị thánh đệ tử của Phật dù sinh ra trong cảnh giới mới thì họ cũng
không tìm một vị khác ngoài Phật, Pháp, Tăng để nương nhờ. Giả sử một người đã
đắc quả Tu Đà Hoàn chết ở đâu và tái sinh lại
page 35
nơi
khác trong cõi người. Ngay cả khi vị này sinh trong một gia đình có cha mẹ thuộc
tôn giáo khác thì họ cũng không đánh mất Tam quy nương nhờ vào Phật, Pháp,
Tăng. Có nghĩa là mặc dù sinh ra trong gia đình cha mẹ theo tôn giáo khác họ
cũng là một người theo Phật Giáo. Không có sự đứt siêu thế Quy Y dù trong một
kiếp sống khác. Nhưng sự Quy Y của những người thế tục có thể bị đứt ngay khi họ
còn sống.
Thoạt đầu khi giảng bài giảng này tôi nói rằng: Quy Y là việc làm đầu
tiên của những người Phật Tử. Một người muốn trở thành một Phật Tử thì họ phải
làm gì? Trước tiên là phải Quy Y. Khi Quy Y, nương nhờ vào Phật, Pháp, Tăng
chính họ tuyên bố họ trở thành một đệ tử Phật hoặc con Phật; hay theo thời đại
bây giờ họ tuyên bố: “Tôi là một Phật Tử”. Là một Phật Tử chúng ta Quy Y, đọc
Tam quy hàng ngày, đó là một việc làm tốt đẹp, nhưng trước khi Đức Phật nhập diệt
Ngài nhắn nhủ chúng ta: “Các con hãy là hải đảo của chính mình. Hãy là nơi
nương tựa của chính mình. Không nên nương tựa vào kẻ nào khác”.
Chúng ta phải nhớ hai điều sau này. Thứ nhất là Quy Y, nương tựa vào Phật,
Pháp, Tăng, đây là điều tốt đẹp. Thứ hai là không nương nhờ vào ai khác ngoài
mình, chỉ nương tựa vào chính ta. Hai câu trên có gì mâu thuẫn không? Khi chúng
ta Quy Y hay nương nhờ Tam Bảo chúng ta xem Tam Bảo là người hướng dẫn, là vị
thầy chỉ đạo tinh thần. Điều này không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn dựa vào
Tam Bảo để được thoát khổ mà chẳng cần làm gì cả. Khi Đức Phật nói: “Đừng nương
tựa vào một ai khác”, có nghĩa là hãy nương tựa vào chính mình để Giác Ngộ
chính mình; không nương tựa vào kẻ khác để được giải thoát. Đây là điều quan trọng
bởi vì không ai có thể giúp ta giải thoát được. Do đó, khi nói rằng: “Tôi nương
nhờ nơi Phật, Pháp, Tăng” đó là việc làm đúng đắn. Và khi nói rằng: “Tôi chỉ
nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào ai khác” cũng là điều đúng đắn.
Hai câu này không có mâu thuẫn, vì đây là hai vấn đề khác nhau.
Đức Phật tiếp tục giải thích rằng: “Nương tựa vào mình, có nghĩa là lấy
giáo pháp làm nơi nương tựa”. Lấy giáo pháp làm nơi nương tựa có nghĩa là phải
tự mình thực hành Tứ Niệm Xứ - bốn căn bản của chánh niệm. Khi Đức Phật nói: “Hãy
lấy mình làm nơi nương tựa của chính mình ”, có nghĩa là hãy thực hành Chánh Niệm
- bốn căn bản của chánh niệm. Hai câu trên không mâu thuẫn nhau.
Để thể hiện đức tin của vào Tam Bảo, chúng ta Quy Y, đọc quy giới hàng
ngày đồng thời chúng ta theo lời chỉ dạy của Đức Phật để thực hành là chúng ta
đã nương tựa vào chính mình. Nương tựa vào chính mình bằng cách thực hành Tứ Niệm
Xứ. Khi thực hành Tứ Niệm Xứ, khi hành Thiền Minh Sát là chúng ta theo lời hướng
dẫn
của
Đức Phật; và chúng ta lấy mình làm nơi nương tựa; chúng ta Quy Y Tam Bảo, lấy
Tam Bảo là nơi hướng đạo tinh thần, và chúng ta thực hành theo lời dạy của Đức
Phật. Thực hành Tứ Niệm Xứ là chúng ta đã nương tựa vào chính mình. Do sự Quy Y
Tam Bảo và nương tựa vào chính mình, cầu mong các bạn đạt được mục đích tối hậu
của người Phật Tử, đó là hoàn toàn loại trừ phiền não, tâm thanh tịnh giải
thoát, và Giác Ngộ Niết Bàn.
Hôm nay chúng ta nói phần thứ hai của con đương tâm linh. Phần thứ nhất
chúng ta đã xét đến Tam quy. Tiếp theo người Phật Tử phải giữ giới. Khi một người
Quy Y Phật, Pháp, Tăng, người nam trở thành Cận Sự Nam (upāsaka), người nữ trở
thành cận sự nữ (upāsika). Cận Sự Nam, cận sự nữ là những người thực hành theo
lời dạy của Đức Phật nên khi một người Phật Tử, Quy Y hay nương nhờ vào Phật,
Pháp, Tăng tức là người đó chấp nhận thực hành theo sự dạy dỗ của Đức Phật.
Theo lời chỉ dẫn của Đức Phật tức là thực hành theo Giới, Định, Huệ.
Ba bước giới định tuệ này phải thực hành tuần
tự và cùng lúc. Điều này không có nghĩa là phải đợi cho đến khi thực hành Giới
một cách tốt đẹp rồi mới bước thêm hai bước kế tiếp.
Bước đầu tiên trong sự tiến bộ tâm linh, loại trừ phiền não là Giới
(sīla). Giới là những hành vi thánh thiện, đạo đức. Như vậy, người Cận Sự Nam
hay Cận Sự Nữ theo đúng nghĩa là người có giới luật hay có phẩm hạnh đạo đức tốt
đẹp. Một lần nọ Đức Phật nói làm thế nào để trở thành một Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ
tốt. Một thiện nam hay tín nữ muốn trở thành một người Phật Tử tốt, có đạo đức
thì phải giữ giới luật trong sạch. Đức Phật dạy khi một Thiện Nam hay Tín Nữ
không sát hại sinh mạng chúng sinh, ngăn ngừa lấy của không cho, ngăn ngừa tà hạnh,
ngăn ngừa sự nói lời không thật, ngăn ngừa uống rượu và các chất say. Người Thiện
Nam hay Tín Nữ thực hành được những phẩm hạnh đó là người có giới luật hay phẩm
hạnh trong sạch. Như vậy, người Thiện Nam hay người Tín Nữ theo đúng nghĩa là
người giữ năm giới trong sạch.
Đầu tiên chúng ta cần hiểu nghĩa của chữ Giới. Giới (sīla) được định
nghĩa là những hành vi hợp đạo đức hay giới hạnh. Chú Giải định nghĩa Giới
(Sīla) là hành vi thu thúc thân hành v.v… Một người gọi là đứt giới khi họ sát
sinh, trộm cắp, tà hạnh v.v… về thân, về khẩu thì gọi đó là người không thu
thúc. Giới luật giữ cho hành động và lời nói được thu thúc. Giới luật cũng được
định nghĩa là những căn bản có thể chấp nhận được. Thế nào là những căn bản có
thể chấp nhận được? Chấp nhận được có nghĩa là đó là những hành vi thiện lành.
Khi giữ giới trong sạch là chúng ta giữ cho tâm mình có được sự thiện lương. Giới
luật là trạng thái tâm thánh thiện có thể chấp nhận được. Khi chúng ta phạm giới
là chúng ta làm mất trạng thái tâm tốt
page 37
đẹp này. Như vậy sīla được định nghĩa là những trạng thái tâm căn bản có thể chấp nhận được.
Thế nào là chức năng, phận sự hay nhiệm vụ của giới hoặc giới đem lại kết
quả gì? Nhiệm vụ của giới là tiêu diệt sự không có đức hạnh, tiêu diệt những
hành vi sai lầm. Một người giữ giới tốt đẹp thì người đó đã hủy hoại, tránh xa
những hành vi không có đạo đức. Chữ tiêu diệt ở đây có nghĩa là tránh, ngăn ngừa
những hành vi bất thiện, phi đạo đức khởi sinh. Tóm lại, nhiệm vụ của giới luật
là hủy diệt hay đẩy xa hành vi phi đạo đức. Nói theo cách khác, nhiệm vụ của Giới
Luật là ngăn ngừa, thu thúc, kiểm soát thân và khẩu. Bao lâu ta còn giữ được Giới
Luật thì bấy lâu hành động và lời nói đước kiểm soát. Kiểm soát ở đây có nghĩa
là không thực hiện những hành vi và lời nói sai lầm.
Một điều quan trọng cần ghi nhận ở đây là Giới chỉ có thể kiểm soát, thu
thúc hành động và lời nói chứ Giới không thể kiểm soát được tâm. Tâm được đề cập
đến trong sự kiểm soát về thân và khẩu vì nếu không có tâm thì không thể kiểm
soát được, nhưng ý nghĩa ở đây muốn nói rằng: Giới chỉ có khả năng ngăn ngừa lời
nói và hành động bất thiện chứ chưa thể ngăn ngừa tâm. Chẳng hạn, bạn có ý nghĩ
giết người nào đó, nhưng bạn không thể hiện bằng hành động, lời nói (lời nói có
nghĩa là bạn sai khiến người khác giết) thì giới của bạn vẫn không bị đứt. Chỉ
mới suy nghĩ trong tâm mà chưa thể hiện ra hành động và lời nói thì vẫn chưa bị
đứt giới.
Tôi hi vọng các bạn còn nhớ đến ba mức độ của
phiền não, đó là phiền não ngủ ngầm, phiền não trồi lên bề mặt (hay phiền não
tư tưởng) và phiền não biểu hiện ra hành động và lời nói. Trong ba mức độ của
phiền não này thì Giới Luật chỉ đối trị được với phiền não thứ ba là phiền não
được biểu hiện qua hành động và lời nói. Như vậy Giới Luật chỉ tiêu diệt và
tránh được phiền não ở mức độ thứ ba, tức là Giới Luật chỉ có thể làm thanh tịnh
được thân và khẩu mà thôi.
Đối với người cư sĩ
có thể giữ năm giới, tám giới hoặc là mười giới.
1. NĂM GIỚI
Các bạn đã giữ năm giới nhiều năm. Người cư sĩ Phật Tử thệ nguyện giữ
năm giới suốt đời. Năm giới này còn được gọi là giới của người Kuru hay những
giới quan trọng, đạo đức căn bản cần phải thực hành. Ở Ấn Độ có một xứ gọi là
Kuru, xứ này
ở gần
New Deli ngày nay. Những người xứ này giữ năm giới rất trong sạch, họ thực hành
giới này với lòng tôn trọng, nghiêm túc nên còn được gọi là năm giới thiết yếu
và đáng tôn trọng giới.
Năm giới còn được gọi là giới căn bản phải giữ thường xuyên. Ngũ giới còn
được gọi là giới tự nhiên bởi vì những giới này là quy luật tự nhiên đối
với tất cả chúng sinh. Theo vũ trụ quan của Phật Giáo, có bốn đại châu, dân
chúng ở Bắc câu lưu châu giữ giới một cách tự nhiên. Họ không cần cố gắng để giữ
năm giới. Năm giới được họ xem là những giới được thiết lập một cách tự nhiên. Ở
Miến Điện có một câu châm ngôn: “Bạn phải giữ năm giới giống như bạn giữ cái
váy của bạn vậy”.
Những người đã Giác Ngộ Đạo Quả thì không bao giờ bị đứt năm giới. Những
vị đã đắc quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán không bao giờ đứt năm
giới ngay cả ở một đời sống khác. Giả sử một vị đắc quả Tu Đà Hoàn trong kiếp sống
này rồi vị đó chết và tái sinh thành người trong một kiếp sống khác, dù trong
kiếp sống mới này vị đó không biết rằng: mình là một vị Tu Đà Hoàn thì vị này
cũng giữ tròn đủ năm giới. Muốn biết một người Giác Ngộ hay không ta hãy xem
người đó có đứt giới nào trong ngũ giới hay không. Những người Giác Ngộ luôn giữ
năm giới trong sạch.
Tất cả các bạn đều biết năm giới và mỗi giới
có nhiều chi trong đó. Ví dụ giới sát sinh có năm chi, khi hội đủ năm chi này
thì mới gọi là phạm giới sát.
a. Giới không sát sinh:
Giới sát sinh có năm
chi:
- Phải là một chúng
sinh còn sống.
- Biết chúng sinh đó
còn sống.
- Cố ý giết. Hành vi vô tình, không cố ý sát hại chúng
sinh thì không phạm giới
sát.
- Cố gắng giết.
- Chúng sinh đó bị giết
do sự cố gắng của mình.
Theo
Chú Giải, sát sinh và trộm cắp có nhiều hình thức và phương tiện. Bạn có thể giết
chúng sinh bằng nhiều cách.
Thứ nhất là chính bạn giết. Trong tiếng Pāḷi thì đó là giết bằng chính
bàn tay của mình.
Thứ hai là sai khiến
người khác giết, nghĩa là bạn ra lệnh cho người khác giết.
Giết
bằng những dụng cụ bạn cầm trên tay có nghĩa là giết bằng súng đạn, cung tên,
dao gậy…
Giết bằng những loại
bẫy,
page 39
Giết bằng các loại ảo
thuật,
Giết bằng thần
thông.
Có rất nhiều cách giết. Tất cả những cách giết đều bao gồm trong giới
sát sinh.
Khi giết chính mình
có phạm giới sát sinh không?
Giết chính ta là tự
sát cũng phạm giới sát sinh.
Nếu bảo người nào giết
mà người này đã giết thì phạm giới.
Nếu bạn bảo giết bằng
dao mà họ giết bằng súng thì bạn không phạm giới.
Nếu bạn bảo giết vào
giờ này mà họ giết vào giờ khác thì bạn không phạm giới.
b. Giới không lấy của không cho:
Thu thúc, giữ gìn
không lấy của không cho của người chủ của vật đó.
Có năm chi hay năm
điều kiện để phạm giới lấy của không cho.
- Của thuộc quyền sở hữu
của kẻ khác.
- Biết của này thuộc
quyền sở hữu của kẻ khác.
- Muốn ăn cắp, muốn lấy
và cố ý lấy. Đây là tư tưởng ăn cắp.
- Cố gắng lấy cắp.
- Đã
lấy được vật nhờ sự cố gắng ấy. Điều này có nghĩa là đã di chuyển vật hay có những
hành vi tương tự.
Hành động có đủ năm chi đó thì phạm giới trộm cắp. Cũng được xem là phạm
giới này nếu ra lệnh cho người khác trộm cắp. Giới này cũng bao gồm hai điều
như giới sát sinh là tự mình làm hay ra lệnh, sai khiến người khác làm.
c. Giới không tà dâm.
Giới này có bốn chi
hay bốn yếu tố:
- Đối
tượng cấm, có nghĩa là người không được vi phạm. Nghĩa là người mà mình không
được phép hành dâm.
- Có Tham Ái muốn hưởng
thụ sự liên hệ đó.
- Cố gắng làm.
- Bộ phận của người
nam và người nữ gặp nhau.
Người nào phạm đủ bốn
chi giới này thì đứt giới thứ ba.
d. Giới không nói dối:
Giới này có bốn chi:
- Điều không thật.
- Có
ý muốn dối gạt, có nghĩa là bạn muốn cho người khác hiểu một cách sai lầm, cố ý
lừa dối họ.
- Cố
gắng nói dối. Sự cố gắng này khởi sinh bởi tâm, và do ý muốn nói dối này khiến
cho bạn cố gắng nói dối.
- Người nghe lời nói dối
hiểu và tin những lời bạn nói.
Nếu hội đủ bốn điều
này thì phạm giới nói dối.
Nói dối thật sự xấu khi nào? Khi ảnh hưởng xấu
đến sự an lạc và quyền lợi người khác.
Có một loại nói dối là “nói dối với thiện ý”.
Đôi khi bạn phải nói dối để làm người khác an lòng hoặc đôi khi bạn nói dối vì
không muốn người khác cảm thấy đau khổ, bất an. Như vậy là bạn đã nói những điều
không thật. Dù đó là nói dối, nhưng theo tôi nghĩ điều đó cũng không đáng trách
lắm. Đôi khi người ta dùng những danh từ thậm xưng để nhấn mạnh hay nói đến
nghĩa bóng nào đó. Ví dụ nói “ở đây con muỗi to bằng con gà mái" hay trường
hợp một vị Sư sau khi khất thực ở một ngôi làng về, có người hỏi thì vị đó nói “Ở
đó có cả núi đồ ăn”. Mặc dù đó là những lời nói không thật, nhưng cũng không đến
nỗi tệ lắm.
e. Giới không uống rượu
Giới không uống rượu
có bốn chi.
- Vật uống hay ăn là một
chất say, như rượu hay một loại chất say khác.
- Muốn uống.
- Do sự muốn đó nên cố
gắng uống.
- Rượu hay chất say đó
đã lọt qua khỏi cổ.
Hành vi hội đủ bốn
điều đó thì phạm giới thứ năm.
Như vậy, có thể xét lại hành động của chúng
ta bằng những chi, những yếu tố trên để biết xem là mình có phạm vào những yếu
tố làm đứt giới không. Chẳng hạn, về giới thứ năm có người nói: Sau khi uống rượu
rồi tôi đi ngủ, tôi chẳng làm điều gì sai lầm cả, như vậy tôi có phạm giới
không? Đây không phải là điều bất thiện gì lớn lao? Đúng, bạn uống rượu, bạn thấy
xây xẩm chút chút, bạn chẳng làm điều gì xấu
page 41
cả, bạn đi ngủ, nhưng bạn cũng phạm giới. Hãy xét đến bốn yếu tố để phạm
giới uống rượu. Thứ nhất, đó chất say; thứ hai, bạn đã uống nước say đó; thứ
ba, bạn muốn uống và cố gắng uống; thứ tư, rượu đã qua khỏi cổ. Như vậy hành vi
của bạn hội đủ bốn yếu tố để phạm giới. Hành vi của bạn không đến nỗi tệ lắm,
nhưng bạn cũng phạm giới uống rượu.
2. TÁM GIỚI
Người cư sĩ có thể giữ tám giới gọi là bát
quan trai giới (uposatha). Tám giới thường được giữ trong những ngày bát quan
trai. Trong xứ Miến Điện, tháng được chia ra làm hai là: “nửa tháng sang” và “nửa
tháng tối”. Ngày thọ giới Bát Quan Trai là ngày rằm trăng sáng, ngày ba mươi
không trăng và ngày thứ tám của nửa tháng sáng, ngày thứ tám của nửa tháng tối.
Những ngày đó gọi là bốn ngày bát quan trai của Miến Điện. (Ở Việt Nam mỗi
tháng có tám ngày Bát Quan Trai, đó là các ngày: Mồng Năm, Mồng Tám, Mười Bốn,
Rằm, Hai Mươi, Hai Mươi Ba, Hai Mươi Chín, và Ba Mươi).
Hai giới đầu tiên của bát quan trai giới giống
với ngũ giới. Giới thứ ba trong ngũ giới là không tà dâm, giới thứ ba trong bát
quan trai giới là không thông dâm. Giới thứ tư và thứ năm cũng giống như ngũ giới.
Giới thứ sáu là không ăn trái giờ, nghĩa là không ăn sau giờ ngọ. Vào thời kỳ Đức
Phật còn tại tiền, một tu sĩ (của bất cứ tôn giáo nào) nếu ăn trái giờ thì bị
chê là không có phạm hạnh. Như vậy, ăn sau giờ ngọ đối với một vị ẩn sĩ, một vị
sư là ăn sái giờ. Giới thứ bảy là không xem múa hát, nghe đờn kèn, đeo tràng
hoa, thoa dầu thơm… Đối với một nhà Sư hoặc một người giữ bát quan trai giới
thì xem một buổi trình diễn, nhảy múa, ca hát là điều bất thiện. Kinh điển giải
thích điều đó giống như những cây thương, ngọn giáo. Đeo tràng hoa
ở đây
không có nghĩa chỉ là đeo đồ trang sức, thoa vật thơm, trang điểm thôi, ngay cả
đeo những vòng hoa tươi cũng không được. Giới thứ tám là không nằm ngồi giường
cao và xinh đẹp. Giường cao ở đây là không được quá sáu tấc. Giường xinh đẹp có
nghĩa là rất xa xỉ, dùng cho những người hưởng thụ những dục lạc giác quan.
Tám giới chỉ giữ vào một số ngày trong tháng chứ không bắt buộc phải giữ
suốt đời như ngũ giới. Lý do là vì cư sĩ và những người sống đời sống thế tục
có gia đình nên họ không thể luôn luôn giữ tám giới. Họ chỉ giữ vào những ngày
định sẵn trong tháng gọi là ngày bố tát hay ngày bát quan trai mà thôi.
Đối với những người cư sĩ giữ năm giới được
coi như là giữ giới trong sạch. Đây là người đáng được tán dương, nhưng nếu giữ
được tám giới thì càng tốt hơn. Khi giữ tám giới thì bạn sẽ ít làm điều bất thiện,
điều đáng chê trách hơn vì ngay cả khi bạn ăn thì bất thiện cũng bao gồm trong
đó. Hành vi bất thiện được định nghĩa là
những hành vi phát khởi từ tham, sân, si. Thường người ta ăn với tâm ham
muốn. Khi bạn múa hát hay xem hoặc nghe múa hát, khi dùng đồ trang điểm, trang
sức, thoa dầu thơm thì cũng có hành vi bất thiện trong đó. Khi bạn tiết chế những
điều trên cũng giúp bạn giảm thiểu hành vi bất thiện. Khi giữ bát quan trai giới
thì bạn có nhiều thời giờ để hành thiền nhất là trong các khóa thiền. Vì vậy,
giữ tám giới tốt hơn là giữ năm giới.
Có một loại tám giới khác có giữ xen kẽ với bát quan trai giới. Bát quan
trai giới chỉ giữ một số ngày nhất định. Những ngày còn lại người Phật Tử phải
đi làm nên cần phải ăn chiều. Trong bát quan trai giới bao gồm cả giới không ăn
quá ngọ, người ta bỏ giới không ăn quá ngọ đi và thay vào bằng giới chánh mạng
và họ gọi đây là tám giới chánh mạng. Người giữ tám giới chánh mạng vẫn giữ bảy
giới trên, nhưng giới ăn sái giờ được thay bằng giới chánh mạng. Có nhiều nơi
người thay vào giới ăn sái giờ bằng giới từ bi. Khi giữ giới họ đọc thêm “con
nguyện giữ hạnh từ bi trong hành động, con nguyện giữ hành từ bi trong lời nói,
con nguyện giữ hạnh từ bi trong ý nghĩ thầm kín”. Những người giữ ngũ giới cũng
nên giữ những hạnh nguyện này.
Những giới này được đề cập đến trong Chú Giải, nhưng Chú Giải không nói
đến cách xin giữ tám giới chánh mạng đó như thế nào. Ở Miến Điện, các nhà Sư
trước đây dùng nghi thức giống như nghi thức thọ ngũ giới và bát quan trai giới
cho tám giới chánh mạng. Cũng có một số nhà Sư cho thiện tín thọ trì tám giới
chánh mạng bằng cách khác. Như chúng ta biết ngũ giới gồm có không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, nhưng giới thứ tư
là không nói dối được thêm ba điều nữa là không nói hai lưỡi, hay nói đâm thọc
gây chia rẽ, không nói lời dữ (chửi rủa, mắng nhiếc), không nói lời vô ích. Giới
thứ tám là giữ chánh mạng. Nghĩa là bốn giới đầu giống như bốn giới đầu của năm
giới, giới thứ năm là không nói hai lưỡi, gây chia rẽ thù hằn, giới thứ sáu là
không nói là lời dữ, giới thứ bảy là không nói lời vô ích, giới thứ tám là giới
chánh mạng.
Để cho các vị dễ nhớ tám giới chánh mạng thì bạn
nên nhớ rằng: hành vi bất thiện về thân có ba, hành vi bất thiện về khẩu có bốn,
tổng cộng là bảy, thêm một giới chánh mạng nữa là tám.
Còn một cách giữ giới nữa gọi là cửu quan trai (thêm giới thứ chín vào
giới bát quan trai) đó là giữ tám giới cộng thêm giới từ ái đến tất cả chúng
sinh. Giới này còn có tên là giới chín chi, giới có chín yếu tố. Tám giới là
tám giới thông thường của bát quan trai giới, giới thứ chín là giới sống với
tâm từ ái đến tất cả chúng sinh, nghĩa là giữ tám giới và thực hành thiền từ ái
đến tất cả chúng sinh.
Thật ra từ ái không phải là một giới. Từ ái
thuộc về sự phát triển tâm hay thiền. Tuy nhiên vào những ngày bát quan trai giới,
để trang điểm hay làm đẹp thêm cho bát quan trai giới của mình thì họ thêm vào
lòng từ ái hay thêm vào một chi giới cho tám giới bát quan. Bởi vậy được gọi là
cửu quan trai giới. Khi bạn thọ thêm giới thứ chín này thì bạn phải nên thận trọng
bởi vì bạn đã nguyện giữ cho tâm mình tràn đầy
page 43
tình thương với tất cả chúng sinh. Điều này có nghĩa là bạn phải luôn
luôn giữ tâm từ ái hay phải thực hành thiền từ ái suốt trong thời gian giữ giới
này.
Nếu trong thời gian giữ chín giới này mà bạn nổi giận thì bạn mất hết một
chi. Bởi vậy có nhiều tranh biện xoay quanh vấn đề có nên giữ chín giới hay
không. Giới thứ chín này đã được đề cập đến trong kinh điển Pāḷi (Tăng Chi Bộ
Kinh-Aṅguttara Nikāya) vì thế ta nên giữ. Có nhiều người ngại giữ giới thứ chín
nên thay vì đọc “tôi giữ hạnh từ ái đối với tất cả chúng sinh” thì nói rằng: “tôi
nguyện giữ hạnh từ ái đối với tất cả chúng sinh được bao nhiêu hay bấy nhiêu”.
Nhóm giới cuối cùng mà người cư sĩ có thể giữ là mười giới, nhưng mười
giới rất ít người giữ bởi vì những người cư sĩ trong đời sống hàng ngày rất khó
giữ giới không giữ tiền, nhưng một số cư sĩ vẫn có thể giữ giới này. Khi giữ mười
giới thì giới thứ bảy trong tám giới được chia làm hai: múa hát, thổi đờn kèn,
xem múa hát, nghe đờn kèn là giới thứ bảy; trang điểm, thoa vật thơm, đeo tràng
hoa trở thành giới thứ tám. Giới không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp trở
thành giới thứ chín. Và giới cuối cùng, thứ mười, là không giữ tiền, vàng bạc
v.v…
Như tôi đã nói, người
cư sĩ có thể giữ mười giới, nhưng rất ít người giữ được.
3. MƯỜI GIỚI
Mười giới được các sa di và sa di ni giữ. Mặc
dù các sa di và sa di ni giữ mười giới, nhưng họ còn giữ các giới khác. Khi viết
thì người ta thường viết là sa di, sa di ni giữ mười giới, nhưng thật ra họ phải
giữ chín mươi lăm giới hay điều luật. Ngoài mười giới này họ phải giữ thêm mười
giới nữa và giữ thêm bảy mươi lăm giới chung với các vị Tỳ Khưu. Như vậy sa di,
sa di ni giữ chín mươi lăm giới chứ không phải mười giới. Các bạn cần hiểu rõ
điều này.
Đôi lúc viết giới cho chư Tăng người ta cũng viết các vị Tỳ Khưu giữ mười
giới, nhưngTỳ Khưu giữ hai trăm hai mươi bảy giới. Mười giới người ta nói đến
có thể nằm trong hai trăm hai mươi bảy giới này, nhưng các bạn không nói rằng:
những nhà Sư giữ mười giới. Tôi hy vọng đó là điều có thật. Tôi mong rằng: Tỳ
Khưu chỉ giữ mười giới thôi thay vì hai trăm hai mươi bảy giới (Ngài cười).
Bây giờ chúng ta tiến đến một điểm rất quan
trọng về giới luật. Đó là chúng ta không thể thay đổi hay biến cải giới luật bởi
vì giới luật được dạy bởi Đức Phật. Nếu Đức Phật còn sống đến ngày hôm nay thì
chúng ta có thể tranh luận với Ngài về giới luật, nhưng nay Đức Phật không còn
nữa nên chúng ta không thể thay đổi hay biến cải giới luật, hoặc chúng ta không
có thẩm quyền để biến đổi giới luật. Đây là điều rất quan trọng và nghiêm túc.
Hoặc là bạn giữ giới luật đã được Đức Phật dạy, hoặc là bạn phá hay
không giữ, đó là quyền của bạn, nhưng bạn không thể thay đổi hay biến cải giới
luật. Tôi nghĩ đây là vấn đề rất nghiêm túc và quan trọng. Bởi vì ngày nay có
những người muốn thay đổi và biến cải giới luật. Họ biện minh cho việc làm của
họ bằng cách lý luận rằng: Giới luật đã được Đức Phật chế định cách đây hơn
2500 năm nên bây giờ đã lỗi thời, chúng ta phải thay đổi hay biến cải như thế
này, thế kia v.v… Bây giờ có nhiều người nói về giới thứ năm rằng: uống rượu
thì không phạm giới; họ nói rằng: “uống rượu có thể được Đức Phật chấp nhận,
tránh uống rượu mới là phạm giới…”, nhưng trong kinh điển cũng như trong Chú Giải
chẳng ở đâu thấy điều tương tự như thế. Nếu bạn uống rượu và khi rượu qua khỏi
cổ thì bạn phạm giới. Dù cho bạn uống rượu với mục đích để có sức khỏe hoặc bạn
uống rượu vì bạn muốn uống, lúc bạn uống rượu và rượu qua khỏi cổ thì bạn phạm
giới rồi.
Như vậy đối với giới uống rượu chúng ta khỏi cần tranh biện với người
nào vì có tranh biện đi nữa ta cũng không thể thay đổi hay biến cải được họ. Nếu
họ không muốn thì họ đừng giữ giới này.
Khi sang Canada tôi gặp một phụ nữ người Miến, bà nói rằng: bà chỉ giữ
giới không sát sinh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Tôi nói với bà rằng: “Không,
như vậy là bà không giữ giới. Khi nói câu nói đó là bà đã tính toán sẵn sàng để
phạm giới. Ai không giữ được thì người đó phạm giới. Giới luật không thể giữ
như vậy. Giữ giới là một chuyện mà giữ được chừng nào hay chừng đó là một chuyện.
Câu nói của bà chứng tỏ rằng: tâm quyết định của bà rất yếu. Tinh thần bà rất yếu.
Tôi nghĩ rằng: khi thọ giới mà còn nói thêm câu ‘được bao nhiêu hay bấy nhiêu’
thì không phải là thọ giới”.
Bây giờ chúng ta bàn đến vấn đề chánh mạng. Người Phật Tử phải sống theo
chánh mạng, có nghĩa là họ phải tránh xa tà mạng. Đức Phật dạy trong Tăng Chi Bộ
kinh: có năm nghề nghiệp người Phật Tử cần phải tránh. Đó là buôn bán vũ khí,
buôn bán chúng sinh, buôn bán thịt, buôn bán rượu, buôn bán chất độc.
Sống nhờ buôn bán khí giới có nghĩa là làm
vũ khí và bán vũ khí. Đó là điều giải thích trong Chú Giải, nhưng trong Phụ Chú
Giải nói thêm: là bán vũ khí sau khi đã tự mình làm (bạn làm vũ khí và bán
chúng) hoặc vũ khi đã được người khác làm (có thể bạn bảo người khác làm rồi
mình bán) hoặc bạn không bảo người khác làm mà bạn mua vũ khí người khác đã làm
và bán chúng thì đó cũng gọi là buôn bán vũ khí.
Buôn bán chúng sinh ở đây nói đến việc buôn
bán người để cho họ làm nô lệ. Buôn bán thịt có nghĩa là nuôi súc vật rồi bán
chúng. Phụ Chú Giải còn nói thêm, bán thịt ở đây nghĩa là sau khi đã nuôi chúng
rồi đem bán hoặc bán thịt đã làm sẵn.
page 45
Sự buôn bán thịt bị cấm vì nó bao gồm trong
phần giết sinh mạng.
Bán rượu có nghĩa là nấu ra rượu và bán rượu hay là mua rượu bán sẵn hoặc
đặt người ta làm rượu cho mình bán. Buôn bán thuốc độc có nghĩa là làm ra thuốc
độc và bán. Bán thuốc độc cũng có những yếu tố quy định trong Phụ Chú Giải. Tóm
lại, khi làm năm nghề nghiệp trên gọi là không chánh mạng nên chúng ta cần phải
tránh.
Như vậy khi một người Quy Y Phật, Pháp, Tăng luôn luôn bao hàm việc giữ
ngũ giới và họ có thể giữ tám giới, mười giới nữa. Người Quy Y Tam Bảo cũng bao
hàm việc giữ chánh mạng, không làm những nghề nghiệp tà mạng. Giữ giới trong sạch
là bước đầu tiên của hành trình tiến bộ tâm linh.
Bởi vì đây là bước đầu tiên, là căn bản, hay nền tảng vững chắc để ta có
thể xây dựng ngôi nhà định, tuệ. Nếu giới không trong sạch nghĩa là nền tảng
không vững thì chúng ta không thể kỳ vọng có được định tâm tốt. Nếu không có định
thì tuệ hay sự xuyên thấu vào bản chất của sự vật không thể khởi sinh. Bởi vậy
cần phải giữ giới thật trong sạch, nhất là khi các bạn hành thiền.
Khi hành thiền muốn đạt đến định tâm, nhưng
giới không trong sạch thì không thể có định tâm. Vì khi không giữ giới trong sạch
thì tâm bạn sẽ bị bất an, đau khổ vì ăn năn hối hận. Khi ăn năn hối hận ngự trị
bạn thì tâm không thể an bình tĩnh lặng. Khi không có an bình tĩnh lặng thì tâm
không ổn định, tâm không ổn định, thoải mái thì không thể có định. Giữ giới luật
trong sạch hay có đức hạnh tốt đẹp là một yếu tố thật cần thiết cho tất cả mọi
người, nhất là những người thực hành theo giáo huấn của Đức Phật, những người
muốn đạt đến trạng thái, đến tầng mức tất cả phiền não bị tiêu diệt.
(Trích Phật Pháp Căn Bản, tác giả Sīlānanda, Khánh Hỷ dịch)
Xem thêm thứ tự:
1. Nền tảng Phật Pháp - hiểu Phật Pháp Tăng - TK Sīlānanda
2. Nền tảng Phật Pháp - Lịch sử Đức Phật Gotama (Thích Ca) - TK Sīlānanda
3. Nền tảng Phật Pháp - Tứ Diệu Đế - TK Sīlānanda
4. Nền tảng Phật Pháp - Bát Chánh Đạo - TK Sīlānanda
5. Nền tảng Phật Pháp - Nghiên cứu về Nghiệp - TK Sīlānanda
6. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Sinh = 12 Nhân Duyên - TK Sīlānanda
7. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Hệ = 24 Hệ Nhân Duyên - TK Sīlānanda
8. Nền tảng Phật Pháp - CÁC HẠNG CHÚNG SINH TRÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT -TK Sīlānanda
9. Nền tảng Phật pháp - Những giới luật quan trọng nhất - Tỳ kheo Silananda
10. Nền tảng Phật pháp - THIỀN ĐỊNH (SAMATHA) - Tỳ kheo Silananda
11. Nền tảng Phật pháp - THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ)) - Tỳ kheo Silananda
12. Nền tảng Phật pháp - Giải thích sự giác ngộ - Tỳ kheo Silananda
13. Nền tảng Phật pháp - Các kỳ kết tập Kinh điển lịch sử - Tỳ kheo Silananda
14. Nền tảng Phật pháp - Hiểu vê Vô Ngã - Tỳ kheo Silananda
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét