Khi
học hỏi những lời dạy của Đức Phật, chúng ta cần phải hiểu biết về cuộc đời của
Ngài. Khi biết được cuộc đời của Đức Phật, hiểu được Ngài đã nỗ lực và hy sinh
như thế nào để trở thành một vị Phật thì chúng ta sẽ càng khâm phục Đức Phật và
trân trọng để tìm hiểu những lời dạy của Ngài hơn.
Đức
Phật sinh vào ngày trăng tròn tháng năm dương lịch năm 624 trước Công Nguyên.
Giờ sinh chính xác của Ngài không được ghi lại, nhưng chúng ta có thể nói rằng:
Ngài sinh vào buổi sáng vì trong lịch sử ghi lại ngay chiều hôm đó, ẩn sĩ
Kaladevila đã đến thăm Bồ Tát. Chỗ Bồ Tát đản sinh là công viên Lumbini trong
khu rừng không xa thủ đô Kapilavatthu. Phụ thân của Ngài là vua Tịnh Phạn
(Suddhodana) và mẫu thân là hoàng hậu Mahā Māyā.
Ngay
chiều hôm đó, một ẩn sĩ tên Kaladevila hay Asita đến hoàng cung thăm đứa trẻ mới
sinh. Ẩn sĩ Asita thường đến thăm vua Tịnh Phạn, nhận thức phẩm, chuyện trò với
nhà vua, nhưng mục đích của chuyến đi lần này là để thăm hoàng tử mới sinh. Khi
vị ẩn sĩ đến, Vua Tịnh Phạn đem đứa trẻ ra đảnh lễ vị ẩn sĩ, nhưng đứa trẻ sơ
sinh quay mình lại và đặt chân lên đầu vị ẩn sĩ. Ẩn sĩ Asita bèn quỳ lạy đứa
bé. Thấy vị ẩn sĩ làm vậy, chính nhà vua cũng cúi lạy con trai mình.
Khi
vị ẩn sĩ thấy hoàng tử, đầu tiên ông cười rồi sau đó khóc. Nhà vua hỏi lý do. Vị
ẩn sĩ trả lời: “Tôi cười vì hoàng tử sẽ thành một vị Phật vì lợi ích của tất cả
chúng sinh. Tôi khóc vì tôi không sống được đến ngày hoàng tử thành Phật”.
Sau
khi hoàng tử ra đời năm ngày, nhà vua tổ chức lễ đặt tên. Tám vị Bà la môn
thông thái được mời đến xem tướng hoàng tử. Bảy vị Bà la môn lớn tuổi nhìn tướng
của hoàng tử tiên đoán rằng: nếu hoàng tử chọn đời sống thế tục thì sẽ trở
thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương; nếu hoàng tử muốn xuất gia, xa lìa thế tục
thì sẽ trở thành một vị Phật. Nhưng vị Bà la môn trẻ tuổi nhất là Kondañña chỉ
đưa ra một lời tiên đoán là hoàng tử sẽ không sống đời thế tục mà sẽ xuất gia
và
trở thành một vị Phật. Hoàng tử được đặt tên là Siddattha (Sĩ Đạt Ta) có nghĩa
là hoàn thành ước nguyện hay mãn nguyện.
Một
sự kiện quan trọng xảy ra trong cuộc đời Sĩ Đạt Ta là vào lễ hạ điền, một buổi
lễ được tổ chức hàng năm để chính nhà vua cày nhát cày đầu tiên nhằm khuyến
khích nông Nghiệp. Thời xưa, nhà vua và các vị quan lớn trong triều đều đến dự
lễ hạ điền. Vào lễ này, nhà vua cũng đem hoàng tử đi dự lễ và giao cho những
người cung nữ trông nom. Các cung nữ còn trẻ tuổi muốn xem lễ hội nên đã để
hoàng tử nằm một mình dưới những cội cây táo rừng. Chắc chắn hoàng tử được để nằm
trong một cái màn che để tránh các loại côn trùng, muỗi mòng v.v…
Khi
không có người nào ở đó, hoàng tử ngồi dậy chú tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra
hành thiền, và hoàng tử đã đạt được sơ thiền. Khi những cung nữ chăm sóc hoàng
tử nhớ rằng: mình đã để hoàng tử một mình bèn vội vã trở về. Rất ngạc nhiên khi
thấy hoàng tử đang ngồi thiền các cung nữ báo tin cho nhà vua hay. Thấy con
mình đang ngồi thiền, nhà vua lại cúi đầu đảnh lễ hoàng tử. Đây là lần thứ hai
nhà vua đảnh lễ con mình.
Việc hành thiền trong dịp lễ hạ điền là một sự kiện quan trọng giúp Bồ
Tát Giác Ngộ sau này. Sau khi trở thành một vị ẩn sĩ, Bồ Tát thực hành nhiều
phương pháp, nhưng không đạt được mục tiêu mong muốn, nhờ nhớ lại sự kiện mình
đã đạt được sơ thiền thuở nhỏ, hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, khiến Ngài
tìm ra con đường thực hành đúng đắn.
Kinh
điển không ghi lại lễ hạ điền nào hoàng tử đã ngồi thiền và đắc sơ thiền, nhưng
ta có thể căn cứ vào những dữ kiện khác để biết. Lúc bấy giờ Bồ Tát còn là một
đứa trẻ, không đủ lớn để cùng cha dự lễ hạ điền. Vì lễ hạ điền được tổ chức
hàng năm nên ta có thể nói rằng: vào lễ hạ điền năm đó Bồ Tát chưa đầy một tuổi
vì Ngài đang còn nằm trong nôi.
Vào
năm mười sáu tuổi, hoàng tử Sĩ Đạt Ta kết hôn với công chúa Yasodharā. Thời bấy
giờ người ta kết hôn rất sớm. Sĩ Đạt Ta hưởng thụ đời sống xa hoa của một hoàng
tử trong mười ba năm. Vua Tịnh Phạn chỉ muốn hoàng tử trở thành Chuyển Luân
Thánh Vương chứ không muốn Ngài trở thành một vị Phật nên nhà vua cung cấp cho
Ngài đủ mọi tiện nghi Vật Chất để Ngài quên đi việc xuất gia tu hành. Trong
cung điện Ngài được hưởng thụ tất cả các thú vui Vật Chất xa hoa mà thời bấy giờ
có thể có được.
Năm
thái tử hai mươi chín tuổi, các vị chư thiên nghĩ rằng: đây là lúc cần nhắc nhở
thái tử nhớ đến hạnh nguyện của mình nên chư thiên cho Ngài thấy bốn dấu hiệu lớn.
Thái tử có thói quen dạo chơi trong vườn thượng uyển. Một ngày nọ trong lúc
đang dạo chơi thái tử thấy một người già. Bốn tháng sau thái tử lại thấy một
người bệnh. Bốn tháng sau nữa, Ngài lại thấy một người chết. Sau khi thấy được
ba hiện tượng già nua, bệnh tật, chết chóc, thái tử hiểu được chân tướng của cuộc
đời. Cuộc đời đầy đau khổ vì con người phải chịu già, đau, chết. Không ai có thể
tránh khỏi già, đau, chết.
Lần
dạo chơi sau cùng trong vườn thượng uyển, thái tử gặp một vị tu sĩ, có thể vị
này đang ngồi tĩnh tọa hành thiền dưới một cội cây. Thấy được hình ảnh vị tu
sĩ, Bồ Tát hiểu rằng: mình phải xuất gia từ bỏ thế gian để giúp chúng sinh bằng
cách chỉ dẫn cho họ phương pháp giải thoát chính mình ra khỏi vòng luân hồi đau
khổ.
Sau
khi thấy vị tu sĩ đó, Bồ Tát chuẩn bị trở về cung điện. Lúc vừa bước lên xe đi
về, Ngài nhận được tin Yasodharā, vợ Ngài, vừa hạ sinh một bé trai. Thông thường
người cha sẽ rất vui mừng khi hay tin con mình ra đời, nhưng Bồ Tát Sĩ Đạt Ta
không cảm thấy hân hoan thích thú vì Ngài đã hướng đến sự từ bỏ thế gian. Ngài
xem sự ra đời của đứa con là một chướng ngại. Khi nghe tin con mình ra đời,
thái tử than: “Một dây ràng buộc đã phát sinh” tức là một sự ràng buộc đã phát
sinh. Vua Tịnh Phạn lấy câu nói đầu tiên của thái tử thốt ra khi nghe tin mình
có con đặt tên cho con của thái tử là Rāhula, có nghĩa là sợi dây ràng buộc.
Sau
khi nghe tin con sinh ra, thái tử trở về cung điện. Vừa về đến hoàng cung, Ngài
đã được các tùy tùng cung phụng các thú vui Vật Chất. Trong khi hưởng thụ các
thú vui này thái tử ngủ. Khi thái tử Sĩ Đạt Ta thức dậy, Ngài thấy mọi người, đặc
biệt là các nữ ca sĩ, các nữ vũ công xinh đẹp vừa biểu diễn cho Ngài xem, đang
nằm ngủ đây đó, không còn giữ ý tứ, áo quần xốc xếch, nằm như những xác chết la
liệt khắp nơi. Thấy cảnh tượng trước mắt chẳng khác nào một nghĩa trang, ngay
lúc đó Ngài quyết định ra đi. Trước khi rời cung điện, thái tử Sĩ Đạt Ta muốn
nhìn vợ và con, Ngài bèn vào phòng ngủ của vợ. Nhìn thấy vợ mình đang ngủ, cánh
tay che khuất trán đứa trẻ mới sinh. Ngài muốn bước vào phòng, có lẽ để ôm con
vào lòng, nựng nịu và hôn con, nhưng Ngài nghĩ: Nếu ta bồng đứa bé lên thì
Yasodharā sẽ thức dậy, và lúc đó ta không thể đành lòng ra đi.
Trong
đêm đó, cùng với người tùy tùng, Ngài rời cung điện. Đó là ngày rằm tháng bảy
dương lịch tức ngày trăng tròn tháng sáu âm lịch. Ngài cùng người tùy
tùng
đến cổng thành thì cổng thành đã được mở sẵn. Kinh điển ghi lại rằng: cổng
thành rất khó mở, phải cần rất nhiều người mới mở được cổng thành, nhưng chư
thiên đã mở sẵn cổng cho Ngài nên Ngài có thể ra đi dễ dàng.
Lúc
bấy giờ ma vương xuất hiện và cố gắng thuyết phục Ngài đừng đi xuất gia vì sau
bảy ngày nữa Bồ Tát sẽ trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương cai trị toàn thế
giới. Nghe thế, Bồ Tát bảo ma vương: “Ta không muốn trở thành Chuyển Luân Thánh
Vương; ta muốn trở thành một vị Phật để giúp chúng sinh biết cách tự cứu độ
chính mình”. Nói xong Ngài ra đi.
Một
đêm nọ, sau khi vượt sông Anomā, Ngài cắt tóc, khoác lên mình chiếc y ẩn sĩ, trở
thành một người không nhà.
Sau
khi gặp vua Bimbisāra, Ngài gặp hai vị thầy. Vị thầy đầu tiên là Āḷāra Kālāma.
Ngài thực hành với vị thầy này và đạt được những gì mà vị thầy đã đạt được (Tầng
thiền Vô Sở Hữu Xứ). Nhưng Ngài tìm thấy thành quả đã đạt được của mình không dẫn
đến sự giải thoát, không đưa đến nơi hoàn toàn chấm dứt đau khổ.
Ngài
rời bỏ vị thầy này, và đến học với một vị khác tên là Uddaka Rāmaputta. Bồ Tát
thực hành theo lời chỉ dẫn của thầy, và cũng đạt được những gì thầy đã dạy (Tầng
thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng). Ngài lại nhận thấy rằng: thành quả này cũng
không thể dẫn đến chỗ hoàn toàn loại trừ phiền não trong tâm và thoát khỏi đau
khổ, nên Ngài lại rời vị thầy này ra đi.
Sau
khi rời bỏ vị thầy thứ hai, Ngài đi khắp nơi tìm thầy học đạo. Cuối cùng, Ngài
đến Ūruvelā, một nơi đẹp đẽ, an tịnh, thích hợp với việc hành thiền. Ngài trú tại
đó và thực hành một phương pháp rất khó thực hành đó là hành khổ hạnh. Đây là lối
thực hành được nhiều người ưa chuộng thời bấy giờ.
Lúc
bấy giờ vị Bà la môn trẻ tuổi Kondañña, người đã tiên đoán hoàng tử Sĩ Đạt Ta
chắc chắn sẽ thành Phật trong buổi lễ đặt tên cho hoàng tử trước đây, đang ở
đó. Khi hay tin thái tử đã xuất gia, Kondañña bèn gặp những người con của bảy vị
Bà la môn đã đến xem tướng cho thái tử vào buổi lễ đặt tên trước đây, cho họ biết
chỗ ở hiện nay của ẩn sĩ Gotama, và hỏi họ có muốn đi tu theo Ngài không. Chỉ
có bốn người con quyết định đi với Kondañña (Kiều Trần Như). Thế là Kiều Trần
Như dẫn bốn người này đến nơi ẩn sĩ Gotama đang thực hành khổ hạnh, và họ trở
thành những người giúp đỡ Ngài.
Sau
này, khi đắc quả Phật, Đức Phật đã kể lại thời gian thực hành khổ hạnh cực kỳ
gian khổ trong Majjima Nikāya (Trung Bộ kinh). Ngài hành khổ hạnh gian khổ cùng
cực, thân thể trở nên yếu ớt đến nỗi chỉ còn da bọc xương. Lúc bấy giờ, ma
vương muốn làm Bồ Tát nản lòng thực hành bèn đến nói với Ngài: “Ngươi sắp chết
rồi, bây giờ ngươi quá ốm yếu. Trên thế gian này còn có rất nhiều thú vui để hưởng
thụ, dại dột chi mà hành khổ hạnh như thế này”. Nhưng Bồ Tát không kể đến lời
xúi giục của ma vương vẫn tiếp tục hành khổ hạnh.
Bồ
Tát đã thực hành như vậy gần sáu năm, sau đó Ngài xem xét lại việc thực hành của
mình và tự nhủ: “Ta đã thực hành phương pháp khổ hạnh này nhiều năm, nhưng chẳng
thấy đến gần mục tiêu chút nào. Có thể đây là con đường thực hành sai lầm”.
Ngài quyết định không theo phương pháp khổ hạnh nữa vì biết rằng: phương pháp
khổ hạnh là phương pháp sai lầm.
Bồ
Tát nhớ lại một sự kiện quan trọng vào lễ hạ điền. Lúc bấy giờ Ngài còn là một
đứa trẻ, và đã ngồi thiền đạt được tầng thiền thứ nhất. Khi ở trong tầng thiền
đó, Ngài rất an lạc hạnh phúc. Bồ Tát tự nhủ: “Có thể đây mới đích thực là con
đường thoát khổ”. Thế là, Bồ Tát quyết định một cách mạnh mẽ rằng: đây là con
đường đúng đắn, và nhất quyết đi theo con đường này.
Tuy
nhiên, thể chất của Ngài lúc bấy giờ rất yếu. Với cơ thể tàn tạ thế này, Ngài
không thể tiếp tục theo đuổi việc hành thiền. Thế là Ngài bắt đầu ăn uống trở lại.
Trước đây khi hành khổ hạnh Ngài giảm thực phẩm từng chút, từng chút một. Đôi
lúc trong một ngày Ngài chỉ ăn một nắm đậu nhỏ, đôi lúc Ngài chỉ ăn một hạt đậu,
có khi chỉ ăn một trái cây nhỏ.
Sau
khi Bồ Tát quyết định dùng thực phẩm trở lại, năm người học trò rời bỏ Bồ Tát
vì họ nghĩ rằng: Bồ Tát đã từ bỏ con đường đúng đắn, theo con đường xa hoa thụ
hưởng. Họ không còn vui thích ở với Ngài nữa mà bỏ đi nơi khác. Bồ Tát lại tiếp
tục một mình trên con đường đã vạch. Khi đã phục hồi sức khỏe, vào một ngày
trăng tròn tháng năm, có thể là năm 589 trước Công Nguyên, trong khi Bồ Tát
đang ngồi tĩnh tọa dưới cội cây, có một phụ nữ tên Sujātā đem cháo đến dâng
Ngài. Sau khi nhận cháo cùng với đồ đựng cháo, Bồ Tát xuống sông Nerañjara tắm
rồi thọ thực. Khi thọ thực xong, Bồ Tát thả bát xuống dòng sông và nguyện rằng:
“Nếu ta trở thành một vị Phật thì cái bát này sẽ trôi ngược dòng sông”. Ngay
khi đó, cái bát trôi ngược dòng sông.
Suốt
ngày hôm đó, Bồ Tát ngồi dưới cội cây. Tối hôm đó, Ngài đi bộ đến một cội cây
khác, bây giờ được gọi là cây bồ đề. Cây bồ đề thực ra có tên Panyan, nhưng từ
khi đức Bồ Tát Giác Ngộ (Bodhi) thì nó mang tên là cây bồ đề. Bồ đề có nghĩa là
Giác Ngộ (Bodhi).
Lúc
Bồ Tát đi từ gốc cây - chỗ Ngài ngồi ban ngày - đến cây bồ đề, có một người cắt
cỏ dâng cúng cho Ngài tám bó cỏ. Ngài trải cỏ dưới gốc cây bồ đề, rồi ngồi lên
đó, mặt hướng về hướng đông và phát ra một lời nguyện mạnh mẽ: “Dầu
cho
máu cạn, thịt khô, chỉ còn da bọc lấy gân, xương; ta cũng không từ bỏ nỗ lực
tinh tấn khi chưa thành tựu mục đích cao thượng”. Câu nói này có
nghĩa là Ngài quyết định không thay đổi tư thế: “Ta không rời bỏ tư thế này
cho đến khi đạt thành quả Phật”.
Lúc
bấy giờ vào khoảng hoàng hôn, ma vương đến gặp Bồ Tát một lần nữa với đội binh
ma hùng mạnh của mình. Ma vương muốn làm cho Bồ Tát sợ hãi rời khỏi chỗ ngồi,
nhưng Bồ Tát vẫn không lay chuyển. Cuối cùng, ma vương thất bại.
Sau
khi chiến thắng ma vương, Bồ Tát hành thiền để đạt đến quả Phật. Trong suốt
canh đầu của đêm đó, Bồ Tát thực hành chánh niệm trên hơi thở, Ngài lần lược đạt
đến tầng thiền thứ tư rồi tiếp tục đạt các tầng thiền vô sắc. Sau đó, Ngài đạt
được một loại thần thông hay trí tuệ siêu việt nhờ thế Ngài có thể nhớ lại tất
cả các kiếp sống quá khứ của mình: Ngài sinh ra ở đâu, làm gì, nhất là tạo ra
Nghiệp gì, tu hành như thế nào, sau khi chết sinh về đâu… Như vậy, trong canh đầu
Đức Phật đắc Túc Mạng Minh.
Sang
canh hai, Đức Phật đạt được Thiên Nhãn Minh, thấy được tất cả chúng sinh chết ở
kiếp sống này, tái sinh ở kiếp sống khác. Ngài cũng thấy rõ rằng: chính Nghiệp
đã khiến một người chết nơi này và sinh vào nơi khác. Ngài thấy rõ chúng sinh
tái sinh vào địa ngục là kết quả của những hành động bất thiện mà họ đã làm trước
đây; chúng sinh sinh vào cõi trời cũng là quả của những Nghiệp thiện họ đã làm
trước đây v.v… Như vậy, Ngài thấy tất cả chúng sinh chết và tái sinh giống như
cảnh hiện ra trước mắt.
Điều này giúp Đức Phật khám phá ra luật Nghiệp Báo. Luật Nghiệp Báo là
quy luật tự nhiên mà chính Ngài thấy rõ chứ không phải là kết quả của lý luận
hay suy tư hữu lý của Ngài. Thật vậy, luật Nghiệp Báo do Đức Phật khám phá ra bằng
chính
trực giác của Ngài, bằng chính trí tuệ, sự hiểu biết trực tiếp của Ngài. Như vậy,
Đức Phật khám phá ra luật Nghiệp Báo trước khi Ngài thành Phật.
Đức Phật đã thực hành Thiền Minh Sát trên mười hai yếu tố của Thập Nhị
Nhân Duyên. Ngài quán sát lui, quán sát tới nhiều lần. Do kết quả của việc hành
Thiền Minh Sát bằng cách quán sát Thập Nhị Nhân Duyên, Bồ Tát Sĩ Đạt Ta đã đạt
được tuệ giác tối cao, loại trừ mọi phiền não, trở thành Đức Chánh Biến Tri vào
lúc bình minh. Như vậy, Đức Bồ Tát Giác Ngộ quả Phật vào cuối canh ba ngày rằm
tháng tư âm lịch năm 589 trước Công nguyên, vào lúc Ngài ba mươi lăm tuổi.
Sau
khi đạt được quả Phật, Ngài dành bảy tuần lễ ngụ dưới cội cây bồ đề và gần cội
cây bồ đề hưởng hạnh phúc Niết Bàn. Đúng hai tháng sau khi Giác Ngộ, Ngài thuyết
thời pháp đầu tiên tại Isipatana gần Bārāṇasi nơi năm thầy Kiều Trần Như đang
tu tập. Nửa đêm hôm đó, Đức Phật đã dạy bài pháp thứ hai cho Yakkhas, Hemavatta
và Sattagiri. Năm ngày sau, kể từ ngày thuyết bài pháp đầu tiên, Đức Phật thuyết
bài pháp thứ ba, bài pháp về “Bản Chất Vô Ngã của Các Pháp”. Sau bài pháp thứ
nhất, một trong năm học trò của Ngài, trở thành Sotāpanna (Tu Đà Hoàn). Trong mỗi
ngày kế tiếp sau đó, các học trò còn lại lần lượt đắc quả Sotāpanna. Đến ngày
thứ năm, sau khi năm học trò đã trở thành Tu Đà Hoàn, Đức Phật thuyết bài pháp
về “Bản Chất Vô Ngã của Các Pháp”. Sau thời Pháp, cả năm thầy Kiều Trần Như đều
trở thành A La Hán. Sau khi an cư mùa mưa đầu tiên ở Isipatana, Đức Phật đến
Rājagaha, nơi vua Bimbisāra đang trị vì, và Vua Bimbisāra đã dâng cúng cho Ngài
Trúc Lâm Tịnh Xá. Đức Phật chấp nhận, và an cư mùa hạ thứ hai tại đây. Một năm
sau khi Giác Ngộ, Đức Phật trở về Kapilavatthu thăm viếng quê hương, cha mẹ, và
thân quyến. Trong lần thăm viếng đầu tiên này, Đức Phật đã hướng dẫn phụ thân
Ngài lần lược đắc ba quả thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm. Cũng trong
chuyến thăm viếng này, Người em cùng cha khác mẹ của Ngài là Nanda và con Ngài
là Rāhula cũng xuất gia.
Đức
Phật giảng dạy trong bốn mươi lăm năm. Ngài giảng dạy cả ngày lẫn đêm chứ không
ngủ như chúng ta. Ngài chỉ nằm nghiêng về tay phải để nghỉ ngơi. Đọc chương
trình làm việc hằng ngày của Đức Phật, ta thấy mỗi ngày đêm Ngài không nghỉ
ngơi quá bốn tiếng. Những giờ khác Ngài dạy dỗ cư sĩ, nhà sư, giảng dạy và trả
lời các câu hỏi của chư thiên. Như vậy Ngài đã bỏ ra hai mươi giờ mỗi ngày để
thuyết pháp, chỉ dẫn, đem lại sự an vui hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.
Sau
khi trở thành một vị Phật, Ngài có thể nghỉ ngơi, nhưng Đức Phật không bao giờ
ngừng làm việc. Ngài chỉ dạy cho chúng sinh không phân biệt ngày đêm. Những ai
đến gặp Ngài đều được Ngài dạy dỗ, hướng dẫn. Trong bốn mươi lăm năm, Ngài đã
giúp đỡ vô số chúng sinh. Trong lịch sử, Đức Phật là vị giáo chủ dành nhiều thời
giờ và sức lực nhất để giúp đỡ chúng sinh.
Trong
suốt bốn mươi lăm năm, Ngài làm việc ngày đêm, chỉ nghỉ ngơi không hơn bốn tiếng
một ngày. Khi nghiên cứu thời khóa hằng ngày của Đức Phật, chúng ta chỉ biết
thán phục lòng bi mẫn và nỗ lực của Ngài đối với chúng sinh. Đức Phật nỗ lực cứu
độ chúng sinh càng nhiều càng tốt. Cứu độ ở đây không có nghĩa là chính Ngài cứu
độ người khác mà giúp chúng sinh tự cứu. Trong suốt bốn mươi lăm năm, không phải
Đức Phật chỉ giúp đỡ, độ cho con người mà Ngài còn đem lại an vui hạnh phúc cho
tất cả chúng sinh, kể cả người thường lẫn các nhà sư.
Vào
tuổi tám mươi, Đức Phật Niết Bàn vào ngày trăng tròn tháng năm dương lịch năm
544 trước công nguyên trong rừng cây sālā gần thành phố Kusinārā.
Ngày
trăng tròn trở thành một ngày rất quan trọng đối với tất cả Phật Tử. Đức Phật
sinh vào ngày trăng tròn tháng năm, Giác Ngộ quả Phật vào ngày trăng tròn tháng
năm, và Niết Bàn cũng vào ngày trăng tròn tháng năm dương lịch. Chúng ta gọi
đây là ba ngày thiêng liêng trong cuộc đời Đức Phật.
Vài đặc điểm quan trọng của Đức Phật chúng ta cần hiểu rõ.
Đức Phật không phải là một vị Thượng Đế vì
theo Đức Phật, không hề có một vị Thượng Đế tạo ra vũ trụ và loài
người. Đức Phật cũng không phải là một vị thần, không phải là một vị chư thiên,
cũng không phải là một đấng tiên tri hay sứ giả của Thượng Đế, vì đối với Ngài,
Thượng Đế không có thật; Đức Phật cũng không phải là một đấng cứu rỗi theo
nghĩa của các tôn giáo khác, Đức Phật chỉ giúp chúng sinh tự cứu lấy mình. Tóm
lại, Đức Phật không phải là đấng cứu rỗi.
Vậy, Phật là ai? Đức
Phật nói: “Chỉ cần biết ta là Phật
thôi”. Phật (Buddha) có nghĩa là người
đã Giác Ngộ chân lý và đem ra giáo hóa chúng sinh để họ cũng được Giác Ngộ. Vậy
Đức Phật có phải là con người không? Phải, Đức
Phật là một con người. Nhưng Ngài là một người đặc biệt, không phải là một người
bình thường. Ngài là một con người, nhưng Ngài là một người đặc biệt, đặc biệt ở
đây là Ngài cao thượng hơn trời, người, phạm thiên
20
(phạm thiên là những vị trời cao hơn chư
thiên dục giới). Như vậy, Đức Phật là một chúng sinh cao thượng hơn tất cả các
chúng sinh khác.
Không
phải chỉ cao thượng hơn loài người mà cao thượng hơn tất cả chúng sinh bao gồm
cả người, trời và phạm thiên.
Đức Phật có rất nhiều phẩm chất cao thượng
không thể kể hết hay đếm hết được. Trong số những phẩm chất cao thượng của Đức Phật, có hai đặc tính chúng
ta cần phải biết đến là: “Hoàn toàn
trong sạch”, và “Có sự hiểu biết không giới hạn”. Đây là
những phẩm chất rất quan trọng của một vị
Phật. Tâm Đức Phật rất trong sạch, không chút bợn nhơ, không chút vết tích
phiền não, và Đức Phật có trí tuệ siêu việt, hiểu biết mọi sự mọi vật.
Trên
đường đi đến Bārāṇāsi thuyết bài pháp đầu tiên, Đức Phật gặp đạo sĩ Upaka. Đạo
sĩ Upaka hỏi Ngài là ai. Ngài trả lời: “Ta
là kẻ biết hết mọi sự”. Như vậy
chính Ngài nói rằng: Ngài là một vị Chánh
Biến Tri.
Hiện nay Đức Phật
đang ở đâu? Phải chăng Ngài đang có mặt với một hình thức khác tại một nơi nào đó? Theo Phật
giáo, Đức Phật không còn nữa. Giống như ngọn lửa đã tắt, Đức Phật tịch diệt và
không còn hiện hữu, không còn tái sinh nữa. Như vậy, theo Phật giáo, hiện nay không còn Phật nữa.
Vậy
làm sao Ngài có thể giúp chúng ta khi Ngài không còn sống với chúng ta nữa? Giống
trường hợp một người sáng chế ra máy thu thanh hay máy phát điện và phổ biến đến
tất cả mọi người nay người đó không còn nữa, nhưng chúng ta đang hưởng lợi ích
về những sáng chế của người này. Cũng vậy, mặc dầu Đức Phật không còn trên cõi
đời này với chúng ta nữa, nhưng Ngài đã để lại giáo pháp của Ngài. Trước khi mất,
Ngài nói: “Sau khi Như Lai tịch diệt, những lời dạy của Như
Lai là thầy dạy các con”. Bây giờ chúng ta có giáo pháp, có
những lời hướng dẫn dạy dỗ của Đức Phật; chúng ta thừa hưởng và nhận được
lợi lạc từ những lời dạy của Ngài. Mặc dù bây giờ Đức Phật không còn nữa, nhưng
giáo pháp của Ngài còn tồn tại thì cũng tốt đẹp như Đức Phật còn hiện tiền vậy.
Đức
Phật có thể tha thứ tội lỗi cho chúng ta không?
Chữ tội lỗi ở đây được dùng theo ý nghĩa của
Phật giáo; có nghĩa là những hành
vi bất
thiện: Đó là hành động bất thiện, lời nói bất thiện, tư tưởng bất thiện. Ba bất
thiện trên được gọi là akusala. Ta tạm thời gọi akusala là tội lỗi. Đức Phật có
thể tha thứ (tội lỗi) của ta đã làm chăng?
Giả
sử bây giờ ta làm những hành vi bất thiện (akusala), và ta có thể đến gặp Đức
Phật để xin Ngài tha thứ không? Chẳng hạn như ta đến gặp Đức Phật và nói rằng:
“Xin Ngài tha thứ tội lỗi cho con!” Đức Phật có thể tha thứ cho ta không?
Không! Đức Phật không thể tha thứ tội lỗi cho một ai, đơn giản bởi vì không ai
có đủ thẩm quyền, và năng lực để tha thứ tội lỗi cho người khác được. Tội lỗi
chính nó là tội lỗi chứ không phải vì Đức Phật nói rằng: đó là tội lỗi nó mới
thành tội lỗi. Vì nó là tội lỗi nên Đức Phật nói nó là tội lỗi chứ Ngài không
sáng tạo ra tội lỗi. Khi ta làm điều tội lỗi, đó là hành động của ta. Khi chúng
ta làm hành động gì thì đó là hành động của ta, không ai có thể xóa bỏ hành động
đó cho ta được vì hành động đó đã được thực hiện rồi. Bởi vậy, Đức Phật không
thể tha thứ tội lỗi cho ai, và cũng không ai có thể tha thứ tội lỗi cho người
khác được. Điều đó không có nghĩa là Đức Phật không muốn tha thứ tội lỗi, nhưng
vì điều đó không thể thực hiện được. Đó là lý do tại sao ta nói Đức Phật không
xóa tội cho ai được, và không có năng lực hay quyền uy nào có thể tha thứ tội lỗi
cho người khác.
Đức
Phật có tình thương yêu và lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh.
Đức
Phật có tình thương vĩ đại, không bờ bến đối với tất cả chúng sinh, nhưng tình
thương của Đức Phật là một tình thương hoàn toàn trong sáng, không bị ô nhiễm bởi
tham, sân, si: Đó là tâm từ ái, mong muốn cho tất cả chúng sinh được an vui hạnh
phúc. Ngài cũng có tâm đại bi, mong muốn cho tất cả chúng sinh thoát khổ, không
phân biệt.
Như
vậy, trong Phật giáo, chúng ta không thể nói rằng: Đức Phật chỉ có tâm bi mẫn đối
với những người theo Ngài chứ không có tâm bi mẫn đối với những người không
theo Ngài. Dầu cho bạn có là đệ tử của Đức Phật hay không thì Ngài cũng có tình
thương bình đẳng đối với bạn như những người khác. Đức Phật có tình thương đối
với tất cả chúng sinh, không ngoại trừ một chúng sinh nào. Đức Phật có tình
thương rộng lớn, có tâm Đại Bi đối với tất cả chúng sinh.
Đức
Phật không khi nào làm hại, hay trừng phạt ai.
Bởi
vì Đức Phật có tâm hoàn toàn thanh tịnh, không bị tham, sân, si chi phối nên
Ngài không bao giờ làm hại bất kỳ chúng sinh nào. Ngay cả những người có ác tâm
muốn hại đến mạng sống của Ngài thì Ngài cũng không hề nóng giận mà Ngài luôn
luôn có tâm bi mẫn với người đó. Ngài luôn luôn có tình thương đối với mọi người,
mọi chúng sinh. Vì Đức Phật không làm hại ai nên trong lịch sử chúng
ta
chưa bao giờ thấy Đức Phật giết hại chúng sinh nào hoặc giết hại nhiều người,
trừng phạt nhiều người hay làm đau khổ chúng sinh nào khác. Do đó, chúng ta có
thể sống một cách an toàn với Đức Phật, chúng ta không sợ bị hại hay bị trừng
phạt hoặc những gì tương tự như vậy từ Đức Phật. Đức Phật không đủ khả năng để
làm hại chúng sinh.
Phải
chăng chỉ có một vị Phật thôi?
Vâng.
Trong mỗi thời kỳ chỉ có một vị Phật. Mặc dù có rất nhiều vị Phật trong quá khứ,
và cũng sẽ có nhiều vị Phật trong tương lai, nhưng trong mỗi thời kỳ chỉ có một
vị Phật trên thế gian này. Kinh điển ghi lại thế giới này không thể giữ được
hai vị Phật cùng một lúc.
Bạn có thể trở thành
Phật được không? Những người khác có thể thành Phật được không?
Được.
Nếu muốn, bạn có thể trở thành một vị Phật, và để trở thành một vị Phật bạn phải
thực hành mười pháp Ba La Mật, và sẽ chịu đau khổ lâu dài trong vòng luân hồi để
hoàn thành các Ba La Mật này. Như vậy, theo lý thuyết người nào cũng có thể
thành Phật được, nhưng trên thực tế không phải mọi người đều trở thành Phật. Rất
ít người trở thành Phật vì để thành một vị Phật là việc làm rất khó khăn, cần
thời gian rất dài để tích lũy những phẩm tính cần thiết. Người muốn trở thành một
vị Phật cũng phải nỗ lực thực hành, hy sinh nhiều thứ trong đời sống của họ,
ngay cả hy sinh tánh mạng của chính mình. Thật khó khăn để hoàn thành những đặc
tính này, nên để thành một vị Phật là một điều rất khó khăn.
Chẳng
hạn như: Tất cả mọi công dân Mỹ đều có thể trở thành tổng thống Mỹ. Họ có quyền
trở thành tổng thống Mỹ, nhưng không phải ai cũng trở thành tổng thống. Mỗi nhiệm
kỳ chỉ có một tổng thống thôi. Cũng vậy, ta có thể nói rằng: chúng sinh có khả
năng, hay có tiềm năng để trở thành một vị Phật, nhưng không phải tất cả mọi
chúng sinh đều sẽ trở thành Phật; chỉ có một số ít, rất ít người sẽ trở thành
Phật. Bởi vì những ai muốn trở thành một vị Phật phải chịu khổ sở lâu dài trong
vòng luân hồi này để tích tụ Ba La Mật.
Trong
Phật giáo, bạn không bị ép buộc phải cố gắng trở thành một vị Phật Toàn Giác. Bạn
có quyền lựa chọn hoặc trở thành Phật Toàn Giác, trở thành Phật Độc Giác, hoặc
trở thành Thinh Văn Giác. Như vậy có ít nhất ba sự lựa chọn, ba con đường mở ra
trước mắt bạn. Bạn có thể lựa chọn con đường bạn thích. Theo lời dạy của Đức Phật,
chúng ta không thể nói rằng: bạn phải cố gắng trở thành một vị Phật. Nếu bạn muốn
hoàn thành mười pháp Ba La Mật, muốn giúp chúng sinh tự cứu lấy họ thì bạn có
thể trở thành một vị Phật. Nếu bạn không muốn bỏ ra thật nhiều thời gian ở
trong vòng sinh tử luân hồi, và nếu bạn muốn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi sớm
hơn thì bạn có thể chọn con đường trở thành A La Hán. Thế nên, muốn trở thành
Phật hay A La Hán là tùy ở bạn.
Từ khi có hạnh nguyện trở thành Phật, phải cần
thời gian bao lâu để thực hành?
Nếu
bạn có hạnh nguyện trở thành Phật, và bạn phát lời thệ nguyện trước sự hiện diện
của một vị Phật, và được Đức Phật thọ ký, thì bắt đầu từ đó bạn phải trải qua một
thời gian ít nhất là bốn A Tăng Kỳ kiếp trái đất và một trăm ngàn kiếp trái đất.
Đó là thời gian ngắn nhất. Một số vị Phật phải bỏ ra đến tám A Tăng Kỳ kiếp
trái đất và một trăm ngàn kiếp trái đất; một số vị Phật khác phải bỏ ra mười
sáu A Tăng Kỳ kiếp trái đất và một trăm ngàn kiếp trái đất. Trong một kiếp trái
đất có rất nhiều kiếp sống, như vậy ta phải trải qua hàng tỉ tỉ kiếp sống để
tích tụ những phẩm chất cao thượng hầu trở thành một vị Phật.
Khi
nói về vũ trụ, chúng ta không dùng mile (dặm), dùng kilomet mà dùng năm ánh
sáng, triệu năm ánh sáng, tỉ năm ánh sáng. Cũng vậy, khi nói đến thời gian một
người phải trải qua để tích lũy Ba La Mật thì chúng ta phải nói đến A Tăng Kỳ,
có nghĩa là một con số rất lớn, dường như không thể đếm được. Nếu muốn tính một
A Tăng Kỳ bạn phải dùng một con số một (1) và một trăm bốn mươi số không (0)
phía sau.
(Trích Phật Pháp Căn Bản, tác giả Sīlānanda, Khánh Hỷ dịch)
Xem thêm thứ tự:
1. Nền tảng Phật Pháp - hiểu Phật Pháp Tăng - TK Sīlānanda
2. Nền tảng Phật Pháp - Lịch sử Đức Phật Gotama (Thích Ca) - TK Sīlānanda
3. Nền tảng Phật Pháp - Tứ Diệu Đế - TK Sīlānanda
4. Nền tảng Phật Pháp - Bát Chánh Đạo - TK Sīlānanda
5. Nền tảng Phật Pháp - Nghiên cứu về Nghiệp - TK Sīlānanda
6. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Sinh = 12 Nhân Duyên - TK Sīlānanda
7. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Hệ = 24 Hệ Nhân Duyên - TK Sīlānanda
8. Nền tảng Phật Pháp - CÁC HẠNG CHÚNG SINH TRÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT -TK Sīlānanda
9. Nền tảng Phật pháp - Những giới luật quan trọng nhất - Tỳ kheo Silananda
10. Nền tảng Phật pháp - THIỀN ĐỊNH (SAMATHA) - Tỳ kheo Silananda
11. Nền tảng Phật pháp - THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ)) - Tỳ kheo Silananda
12. Nền tảng Phật pháp - Giải thích sự giác ngộ - Tỳ kheo Silananda
13. Nền tảng Phật pháp - Các kỳ kết tập Kinh điển lịch sử - Tỳ kheo Silananda
14. Nền tảng Phật pháp - Hiểu vê Vô Ngã - Tỳ kheo Silananda
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét