Chúng ta đã học xong bước đầu tiên của con đường phát triển tâm linh, đó
là giữ giới luật trong sạch. Nhờ giữ giới luật trong sạch, thiền sinh có thể kiểm
soát được thân và khẩu của mình. Nếu một người có thể kiểm soát được hành vi của
mình, có thể thu thúc để mình khỏi sát hại chúng sinh, khỏi trộm cắp v.v… thì
đó là một sự thành tựu lớn lao, nhưng trên đường phát triển tâm linh, nếu chỉ
giữ giới luật không thôi thì chưa đủ. Mặc dù giữ giới luật trong sạch, nhưng
tâm của chúng ta còn có thể bị ô nhiễm. Đôi khi trong tâm ta còn suy nghĩ đến
những hành vi phạm giới như suy nghĩ đến sự giết hại, xâm phạm của cải của kẻ
khác, xâm phạm tiết hạnh vợ con người, nói lời không thật, dùng chất say, rượu.
Như vậy để kiểm soát tâm, chúng ta cần phải
bước bước kế tiếp là Thiền Định (samathi). Đức Phật dạy rằng: khi tâm đã được
phát triển, vun bồi sẽ đem lại an vui hạnh phúc: “Này các thầy Tỳ Khưu, không
có gì đem lại nhiều an vui hạnh phúc bằng một tâm đã được phát triển và vun bồi
liên tục. Này các thầy Tỳ Khưu, khi tâm đã được phát triển và vun bồi thì tâm
được an vui hạnh phúc”. Câu này có nghĩa là nếu chúng ta muốn được an vui hạnh
phúc thì phải kiểm soát tâm, phát triển tâm, chúng ta phải liên tục vun bồi
tâm.
Muốn phát triển tâm chúng ta phải hành thiền.
Đức Phật đã khích lệ chư Tăng phát triển định tâm. Ngài nói rằng: một nhà Sư với
tâm an định sẽ thấy rõ thực tướng của sự vật. Thấy sự vật như thật, hay đúng
theo thực tướng của nó nghĩa là gì? Đó là nhà Sư thấy hay biết mắt là Vô Thường,
thấy biết hình sắc là Vô Thường, thấy biết nhãn thức là Vô Thường. Nhà Sư biết
sự tiếp xúc giữa mắt và hình sắc là Vô Thường (nhãn xúc). Tỳ Khưu thấy biết các
Cảm Thọ khởi sinh khi có sự tiếp xúc cũng là Vô Thường.
Điều quan trọng ở đây là nếu chúng ta muốn
hiểu sự vật đúng theo thực tướng của nó, nếu chúng ta muốn xuyên thấu vào bản
chất của sự vật, nếu chúng ta muốn thấy rõ sự vật là Vô Thường v.v… chúng ta cần
phải phát triển định tâm.
Trước khi phát triển định (samādhi) chúng ta cần hiểu định là gì, định
có đặc tính như thế nào. Chữ samādhi được dịch là định tâm. Định tâm được định
nghĩa là một sự chú tâm hay sự gom tâm, nhưng đây là sự phát triển tâm linh nên
sự chú tâm này có đặc tính thiện. Vậy sự định tâm đây là chánh định chứ không
phải tà định. Chữ samādhi có thể được chia làm hai phần là “sam” và “adhi”. “Adhi”có
nghĩa là một vật gì được đặt lên hay đặt lên một chỗ. “Sam” có hai nghĩa, nghĩa
thứ nhất là
page 47
vững, trọn vẹn nghĩa thứ hai là đúng. Như vậy samādhi có nghĩa là được đặt
đúng và vững vàng, nhưng đặt là đặt cái gì? Đó là đặt tâm hay tâm sở. Đặt ở
đâu? Trên một đề mục đơn độc.
Như vậy samādhi có nghĩa là một tâm sở làm nhiệm vụ đặt tâm và những tâm
sở đi với nó trên một đối tượng. Chúng ta phải hiểu samādhi là một tâm sở đặt
tâm vương và những tâm sở tương ưng một cách trọn vẹn, thăng bằng, đúng đắn
trên đề mục đơn nhất đó. Chữ trọn vẹn có nghĩa là không để cho những tâm sở phân
tán, tập trung các tâm sở lại một chỗ. Đúng có nghĩa là đặt đúng chỗ, không để
cho chúng phân tán ra các đối tượng khác. Như vậy samādhi là giữ cho tâm vương
và tâm sở gom tụ lại, không để cho chúng có cơ hội phân tán.
Đặt
tính của samādhi là không phân tán, khi có
samādhi thì tâm không bị phân tán.
Tâm của bạn không chạy sang đối tượng khác mà ở trên đối tượng thiền. Như vậy đặc
tính của samādhi là không phân tán. Khi tâm định trên đối tượng có nghĩa là nó
không để cho những tâm sở tản mạn đi nơi khác.
Như vậy chức năng hay nhiệm vụ
của định là loại trừ sự phân tán. Một khi tâm chỉ nằm trên một đối tượng thôi
thì nó không bị lay động, không chạy chỗ này chỗ kia.
Như vậy biểu
hiện của định tâm là không dao động, không lay động. Đôi khi định tâm được
so sánh với một ngọn đèn được đặt ở nơi không có gió.
Nguyên
nhân gần của sự định tâm là lạc (sukha). Sukha có
nghĩa là hạnh phúc, thoải mái. Như vậy
sukha hay hạnh phúc, thoải mái là một yếu tố rất cần thiết để đạt đến định tâm.
Tóm lại,
Đặc tính của định là không phân tán.
Chức
năng của định là loại trừ sự phân tán, Biểu hiểu của định là ổn định, không lay động. Nguyên nhân gần của định là lạc.
Có nhiều loại định tâm. Samatha hay samādhi
là hai chữ đồng nghĩa với nhau. Samatha có nghĩa là samādhi hay samādhi có
nghĩa là samatha. Samatha có nghĩa là khả năng làm cho an tịnh, khi vật gì làm
cho tâm an tịnh gọi là samatha.
Trong Phật Giáo như các bạn biết có hai loại
thiền là Thiền Định, samatha và Thiền Minh Sát, vipassanā, nhưng cả hai đều phải
phát triển định tâm samatha. Trong Thiền Định (samatha) thì định tâm rất quan
trọng, định tâm là yếu tố vượt trội.
Có hai loại định tâm trong Thiền Định là Cận
Định và An Chỉ Định. Cận Định có nghĩa là sự định tâm gần với An Chỉ Định. Cận
Định xảy ra trước khi có An Chỉ Định. Các tầng thiền, jhāna là sự định tâm khi
thiền sinh đạt được tầng mức tâm cao hơn, tức là An Chỉ Định. Định tâm trong
các tầng thiền mạnh hơn định tâm trong Cận Định.
Cả hai Cận Định và An Chỉ Định đều có khả
năng chế ngự hay đè nén năm chướng ngại. Thiền Định có thể giúp bạn đạt được Cận
Định và An Chỉ Định. Sau khi đạt được An Chỉ Định bạn có thể phát triển xa hơn
để đạt được các loại thần thông (abhiñña).
Trong Phật Giáo, Thiền Định được dạy không chỉ nhằm mục tiêu để đạt được
Cận Định hay An Chỉ Định mà thôi. Phật Giáo dạy rằng: hai loại định đạt được là
để dùng làm căn bản cho Thiền Minh Sát (vipassanā). Như vậy Thiền Định không chỉ
để đạt được tâm định mà thôi. Samatha được dạy như một căn bản, nền tảng cho
Thiền Minh Sát (vipassanā).
Mục đích của những lời giáo huấn của Đức Phật
là loại trừ phiền não. Muốn loại trừ phiền não cần phải thấy rõ thực tướng của
sự vật. Chúng ta cần phải thấy chúng là Vô Thường, khổ, vô ngã, trống không, vô
vị v.v… nhưng chỉ một mình Thiền Định (samatha) thôi thì không thể giúp chúng
ta khám phá ra những đặc tính này của Vật Chất và Tâm.
Thiền Định tự nó
không giúp chúng ta thấy rõ được thực tướng của sự vật, do đó không dẫn đến việc
loại trừ phiền não. Sau khi bạn đã phát triển định tâm mạnh theo đường lối Thiền Định
thì bạn có thể dùng định tâm hay các tầng thiền làm đối tượng cho Thiền Minh
Sát. Khi đã dựa trên những đối tượng Thiền Định để hành Thiền Minh Sát, từ tầng
mức minh sát này cho đến tầng mức minh sát khác, thì cuối cùng thiền sinh cũng
đạt được mục tiêu tối hậu. Như vậy, Thiền Định, chính nó không dẫn đến loại trừ
phiền não, nhưng đối với một số người, Thiền Định có thể là một công cụ đắc lực
hỗ trợ cho Thiền Minh Sát.
Có bốn mươi đề mục để thực hành Thiền Định.
Bạn có thể thực hành một trong những đề mục này. Các đề mục này được chia làm
nhiều nhóm.
Nhóm
đầu tiên là kasiṇa.
Chữ kasiṇa rất khó dịch cho nên tốt nhất là để nguyên không dịch. Chữ kasiṇa có nghĩa
là một khối, một tổng thể. Có nghĩa là bạn có thể đặt tâm mình vào toàn thể của
đối tượng kasiṇa. Đức Phật dạy mười kasiṇa: đó là kasiṇa đất, kasiṇa nước, kasiṇa lửa, kasiṇa gió, kasiṇa xanh, kasiṇa
vàng, kasiṇa đỏ, kasiṇa trắng, kasiṇa
không gian, kasiṇa ánh sáng. Bốn kasiṇa
đầu là bốn đại đất, nước, gió, lửa hay nói đến trong Phật Giáo.
*Thực hành kasiṇa đất:
page 49
Khi thực hành kasiṇa đất thành công thì đầu
tiên bạn sẽ đạt được upacāra samādhi (Cận Định). Nếu tiếp tục thực hành thì sẽ
đạt được năm tầng thiền, từ tầng thiền thứ nhất đến tầng thiền thứ năm. Tất cả
mười kasiṇa đều dẫn đến kết quả tương tự như vậy. Bạn có thể chọn một trong những
kasiṇa đó để đạt được định tâm hay đạt được Cận Định và các tầng thiền.
Nếu muốn thực hành kasiṇa đất thì bạn phải làm một đĩa kasiṇa. Lấy đất
sét có màu giống như màu mặt trời vào lúc bình minh, làm một đĩa có đường kính
khoảng một gang tay và bốn ngón (độ chừng hai tấc rưỡi). Làm bề mặt của kasiṇa
cho trơn láng và sạch sẽ rồi đặt trước mặt vừa tầm mắt bạn (không xa quá, không
gần quá, không cao quá, không thấp quá). Để tâm vào toàn thể kasiṇa đó và niệm
thầm “đất, đất, đất” cả ngàn ngàn lần. Thật ra là bạn làm cho mình nhớ kỹ cái
đĩa đó. Đôi khi mở mắt ra nhìn, niệm “đất, đất, đất”, đôi khi nhắm mắt lại, cố
gắng nhớ hình ảnh của cái đĩa đất trong tâm.
Do tinh tấn thực hành, một thời gian sau, ngay khi nhắm mắt lại bạn cũng
thấy kasiṇa đất rõ ràng giống như đang mở mắt. Khi bạn có thể giữ được tướng
hay hình ảnh của đĩa đất trong tâm thì bạn có thể không cần nhìn vào đĩa đất nữa
mà chỉ chú tâm vào tướng hay hình ảnh của kasiṇa đất mà bạn nhớ trong tâm mình.
Nếu tiếp tục chú ý vào hình ảnh hay tướng của kasiṇa trong tâm thì tướng đó
càng ngày càng rõ và sắc nét hơn.
Thoạt đầu hình ảnh hay tướng của kasiṇa xuất hiện trong tâm hoàn toàn giống
như một bản sao của đĩa kasiṇa. Ví dụ trên đĩa đó có vài chỗ lồi lõm hoặc màu sắc
chỗ đậm chỗ nhạt khác nhau ta đều thấy rõ. Nghĩa là tướng kasiṇa đất trong tâm
giống như đúc hình ảnh của đĩa đất bên ngoài. Khi việc hành thiền của bạn tiến
bộ thì tướng kasiṇa đất trở nên sắc nét hơn và những dấu vết trên tướng đó mất
hẳn. Tướng của kasiṇa đất trở nên trơn láng mịn màng và rõ ràng trong suốt giống
như một cái đĩa có ánh sáng của mặt trăng hay mặt trời.
Thiền sinh tiếp tục chú tâm chánh niệm vào đề
mục cho đến khi có một loại tâm khởi sinh. Loại tâm này có thể từ trước đến nay
chưa bao giờ khởi sinh trong bạn, đó là tâm thiền jhāna. Khi tâm thiền xuất hiện
thì trước đó định tâm của bạn rất tốt. Tâm bạn ở trên tướng của kasiṇa đất một
thời gian lâu dài.
Thực tập các kasiṇa khác cũng tương tự như vậy.
Muốn thực tập kasiṇa nước bạn có thể đổ một ít nước vào trong bình rồi nhìn vào
nước đó. Nếu niệm về kasiṇa lửa thì bạn có thể đốt một đống lửa rồi nhìn lửa đó
qua một lỗ tròn trên bức tường hoặc qua một lỗ trên một vật gì đó để khi bạn thấy
lửa cũng có kích thước như của kasiṇa đất. Kasiṇa gió có hai cách. Thứ nhất là
nhìn vào lá cây rung rinh do sức gió.
Thứ hai là ở trong một phòng kín, mở hé cửa sổ và để gió luồng vào, cảm
nhận gió tiếp xúc với cơ thể.
Nếu muốn thiền trên kasiṇa xanh thì làm một cái đĩa rồi sơn màu xanh lên
đó hoặc vẽ màu xanh lên trên một tờ giấy rồi lấy đó làm đề mục. Các màu khác cũng
tương tự như vậy. Ở Miến Điện người ta dịch chữ nīla là kasiṇa nâu nên người ta
làm kasiṇa màu nâu. Còn các nước khác dịch là màu xanh nên dùng kasiṇa xanh. Niệm
kasiṇa không gian thì nhìn lên khoảng không trên bầu trời qua một lỗ tròn. Làm
tương tự cho kasiṇa ánh sáng. Muốn thực hành kasiṇa nào thì thực hiện kasiṇa đó
rồi tập trung tâm ý vào đề mục thiền cho đến khi đạt được Cận Định hay An Chỉ Định.
Nhóm
thứ hai là mười asubha tức là hành thiền về mười loại tử thi để thấy sự dơ uế, gớm guốc của tử thi. Khi thấy
sự ô trược, ô uế, đáng nhờm gớm của tử thi thì cũng thấy sự ô trược trong cơ thể
mình. Có mười loại tử thi dùng để hành đề mục này.
Thiền niệm về tử thi trong thời đại này thực
khó vì bây giờ chúng ta khó mà thấy được mười loại tử thi đó. Vào thời kỳ Đức
Phật, các tử thi được đặt ở nghĩa địa cho thối rữa và bị chó, chim ăn. Vì thế
vào thời đó người ta có thể thấy các giai đoạn hư hoại, trương sình khác nhau của
một tử thi. Ngày nay chúng ta có thể thực hành đề mục thiền này bằng cách nhìn
vào các bức hình hoặc bằng cách tưởng tượng các giai đoạn hư hoại khác nhau của
tử thi trong những bức hình này. Sau đó chúng ta phải cố gắng phát triển cảm
giác nhờm gớm, bất tịnh nơi tử thi trong bức hình cũng như trong cơ thể của
chính chúng ta.
Nhưng thực hành thiền về sự ô trược, đáng nhờm
gớm của các loại tử thi, chúng ta chỉ có thể đạt được Upacāra samādhi, Cận Định
và chỉ đắc được đến Sơ Thiền của An Chỉ Định. Thực hành đề mục này, chúng ta
không thể đạt nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và ngũ thiền. Bởi vì niệm tử thi
là một đề mục thiền thô và đề mục tử thi luôn luôn cần thiền chi “tầm” để giữ
tâm trên đề mục nên chúng ta chỉ có thể đắc đến sơ thiền là tầng thiền có thiền
chi “tầm” thôi.
Ngày nay chúng ta chỉ có thể tưởng tượng các tử thi bởi vì chúng ta
không thể thấy trực tiếp chúng.
Có mười loại tử thi.
1. Tử thi bị trương
sình, nghĩa là tử thi trong giai đoại trương phình.
2. Tử thi bầm, nghĩa là
các tử thi trong giai đoạn chuyển sang màu đen và xanh.
3. Tử thii bị mưng mủ,
nghĩa là tử thi trong giai đoạn chảy mủ.
page 51
4. Tử
thi bị chặt tay, chặt chân hay tay chân đứt lìa. Tay chân đứt lìa do kẻ thù, do
bị hành quyết v.v…
5. Tử thi bị ăn, bị ăn
bởi chó, chó rừng, chim v.v…
6. Tử
thi bị phân tán ra nhiều phần, bởi vì các phần của tử thi bị vứt rải rác khắp
nơi sau khi thú ăn.
7. Tử
thi bị cắn xé và phân tán ra nhiều miếng. Các bộ phận của tử thi bị cắn xé và vứt
rải rác nhiều nơi.
8. Tử thi chỉ còn xương
dính máu.
9. Tử thi bị dòi bọ đục
khoét và
10. Bộ xương.
Tôi nghĩ ngày nay chúng ta có thể thấy bộ xương hay ít nhất là có thể
mua một bộ xương bằng nhựa để hành thiền về sự Bất Tịnh của Tử Thi. Mặc dù
không phải là một bộ xương thật, nhưng tôi nghĩ bộ xương bằng nhựa cũng giúp
ích cho chúng ta. Mười loại thiền quán bất tịnh giúp chúng ta dứt bỏ sự dính mắc,
sự chấp trước nơi thân.
Nhóm kế tiếp gọi là “mười anussati”, tức mười loại tùy
niệm.
1.
Niệm
Phật. “Niệm Phật” có nghĩa là niệm các ân đức của
Đức Phật. Đức Phật có chín ân đức
hay phẩm chất và các bạn có thể chọn một trong chín phẩm chất đó rồi chú tâm
trên đó liên tục để phát triển tâm định.
2. Niệm Pháp”. Nghĩa là niệm các phẩm chất của Pháp.
3. Niệm Tăng. NiệmTăng có nghĩa là niệm các phẩm chất của
Tăng.
4.
Niệm
Giới. Nghĩa là niệm sự giữ giới thanh tịnh của
chính mình. Để có thể thực hành đề mục
thiền này, trước tiên bạn phải giữ giới trong sạch. Sau đó quán xét sự trong sạch
của giới của mình. Trong khi niệm giới có thể nói “giới của tôi trong sạch,
tôi không bị phạm một giới nào”.
5. Niệm Thí. Tức
là bạn có thể lấy sự bố thí cúng dường của mình làm đề mục.
6.
Niệm
Thiên. Thiên ở đây không có nghĩa là Chư Thiên mà
chúng ta niệm tưởng đến những đức tính tốt đẹp của chư thiên như đức
tin, sự rộng lượng, trí tuệ v.v… Khi
niệm đến những đặc tính tốt của mình chúng ta lấy chư thiên làm khuôn mẫu hay nhân chứng. Tức là lấy
chư thiên minh chứng, làm ví dụ điển hình. Chẳng hạn như nghĩ rằng: Chư Thiên
đã có những đặc tính tốt đẹp như vậy. Muốn
trở
thành Chư Thiên thì trước đây vị đó phải có đức tin, lòng từ thiện, trí tuệ
v.v… Và bây giờ ở trong tôi cũng có những đặc tính tốt đó. Như vậy khi niệm đề
mục này bạn nghĩ đến những đặc tính tốt đẹp của Chư Thiên, rồi bạn nhìn những đặc
tính tương tự như vậy trong chính bạn. Do đó Niệm Thiên thật ra không phải niệm
về Chư Thiên mà niệm những đặc tính tốt đẹp của Chư Thiên.
7.
Niệm
về Sự An Tịnh Tĩnh Lặng. Đó là niệm những đặc tính thanh tịnh an lạc của Niết Bàn. Thật ra niệm về sự an tịnh
của Niết Bàn chỉ có thể thành công trọn vẹn khi người niệm đã Giác Ngộ. Tuy
nhiên người chưa Giác Ngộ vẫn có thể thực tập đề mục này.
8. Niệm Sự Chết. Sự sống thật bấp bênh, cái chết là điều chắc
chắn.
9. Niệm Ba Mươi Hai Thể Trược để thấy sự ô uế, bất
tịnh của cơ thể.
10.
Niệm
Hơi Thở. Niệm hơi thở là chánh niệm vào hơi thở vào
hơi thở ra. Hơi thở có thể dùng làm
đề mục Thiền Định hay Thiền Minh Sát tùy theo cách thức thực hành của chúng ta.
Ngày nay, nhất là tại Miến Điện người ta hay dùng chuỗi hạt hay tràng hạt
để niệm chín ân đức của Phật. Ở Trung Hoa và Việt Nam thì là mười ân đức. Mỗi lần
niệm một Ân Đức Phật họ lần một hột. Ví dụ Ứng Cúng (Arahaṁ) lần một hột, Chánh
Biến Tri lần một hột, Minh Hạnh Túc lần một hột… cho đến khi xong hết chuỗi hột.
Mỗi chuỗi có 108 hột, có chín ân Đức Phật, niệm mười hai lần chín ân Đức Phật
đó thì đủ 108 hột. Cũng có thể niệm từng chuỗi một của chín ân đức. Khởi đầu là
Iti’pi so Bagava, sau đó Iti’pi so Arahaṁ … cho đến Iti’pi so Buddho thì đủ 108
hột.
Những người Việt Nam
có thể niệm bằng tiếng Việt như sau:
Kính lễ Đức Như Lai Ứng
Cúng nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Chánh Biến
Tri nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Minh Hạnh
Túc nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Thiện Thệ
nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Thế Gian
Giải nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Vô Thượng
Sĩ nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Điều Ngự
Trượng Phu nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Thiên
Nhân Sư nguyện trừ tham sân si.
page 53
Kính lễ Đức Phật
nguyện trừ tham sân si.
Kính lễ Đức Thế Tôn
nguyện trừ tham sân si.
Cứ niệm một chữ thì
lần một hạt, niệm xong mười ân đức đó thì đủ 108 hạt.
Chú Giải nói thế nào về vấn đề niệm
chuỗi hạt? Chú Giải chẳng đề cập đến niệm chuỗi hạt. Vậy thì khi niệm tưởng
Ân Đức Phật bạn có thể dùng chuỗi hạt hay không thì tùy thích. Khi bạn niệm đến
các Ân Đức của Phật thì bấy giờ tâm các bạn vắng bóng tham hay chấp thủ, không
có sân và không có si. Tâm trở nên an tịnh, tĩnh lặng và bạn sẽ đạt được Cận Định.
Mặc dù đạt được Cận Định, nhưng bạn không thể đắc các tầng thiền vì những Ân Đức
của Đức Phật quá rộng lớn, quá sâu xa. Thêm vào đó, Đức Phật có rất nhiều phẩm
tính, năng lực trụ tâm của các bạn không đủ mạnh để có thể tiến vào các tầng
thiền.
Bởi vậy các đề mục tùy niệm Phật, Pháp,
Tăng… chỉ giúp các bạn đạt đến Cận Định mà thôi. Gọi là Cận Định vì nó ở ngưỡng
cửa sắp bước vào An Chỉ Định. Thật ra không thể nói đây là Cận Định bởi vì nó
không có các tầng thiền ở đây. Vì không có các tầng thiền nên nó không thật sự
là Cận Định, chỉ gọi là Cận Định khi nó có thể từ Cận Định tiến vào An Chỉ Định,
nhưng ở đây chỉ đến ngang tầng mức đó là chấm dứt nên không thể gọi là Cận Định.
Khi bạn thực hành đề mục ba mươi hai thể trược
chẳng hạn thì bạn đạt Cận Định, từ Cận Định đắc tầng thiền thứ nhất. Cận Định
này có khả năng dẫn đến tầng thiền thứ nhất nên Cận Định ở đây mới thật sự gọi
là Cận Định. Niệm hơi thở có thể đưa đến Cận Định và tất cả các tầng thiền.
Nhóm tiếp theo là
appanamañña (Tứ Vô Lượng Tâm). Chữ vô lượng ở đây có nghĩa là không có giới hạn. Tứ
vô lượng tâm còn được gọi là bốn phạm trú (bốn nơi ở của Phạm thiên). Khi bạn
niệm một trong bốn đề mục trên thì bạn đang sống như một vị Phạm thiên. Bởi vậy
mới được gọi là “Phạm trú - sống như một vị Phạm thiên”.
Đầu tiên là mettā (tâm từ ái) có nghĩa là mong muốn tất cả chúng sinh đều
được an lạc hạnh phúc. Thứ hai là karuṇā (tâm bi mẫn) có nghĩa là ước muốn loại
trừ, xua tan những đau khổ của chúng sinh. Thứ ba là muditā (tâm hoan hỉ) hoan
hỉ, hạnh phúc trước sự thành công, hạnh phúc của kẻ khác. Thứ tư là upekkhā (tâm
xả). Tâm xả là tâm cao thượng nhất trong bốn loại tâm kể trên. Khi niệm tâm xả
bạn không cảm thấy có tâm từ, tâm bi và tâm hỉ. Tâm bạn ở trạng thái trung
tính, không bị lay động bởi đối tượng vừa lòng hay không vừa lòng, không bị lay
động trước đau khổ hay hạnh phúc. Người có tâm xả cố gắng giúp đỡ mọi người, mọi
loài; nhưng biết rõ mỗi chúng sanh đều có Nghiệp riêng của họ nên mặc dù luôn
luôn giúp
đỡ chúng sanh, nhưng nếu chúng sanh không đủ duyên để hưởng những gì
mình giúp, thì họ vẫn an nhiên tự tại
Bốn đề mục thiền trên được gọi là vô lượng vì đối
tượng của nó là vô lượng chúng sinh, không có giới hạn. Chẳng hạn như khi bạn
thực hành niệm tâm từ, bạn phải rải tâm từ đến tất cả chúng sinh. Khi thực hành
tâm bi, bạn có ước mong tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Khi thực hành tâm
hỉ, bạn hoan hỉ, hài lòng đến sự thành công, hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Với
tâm xả, bạn phải quân bình, thanh thản trước mọi thăng trầm của chúng sinh.
Như vậy, tứ vô lượng tâm đều lấy chúng sinh làm đối tượng và chúng sinh
được lấy làm đối tượng phải là tất cả chúng sinh không giới hạn. Đó là lý do tại
sao gọi là vô lượng tâm.
Khi thực hành thiền từ ái, đầu tiên phải rải tâm từ cho chính mình rồi rải
hay hướng tâm từ đến thầy tổ, cha mẹ… Cuối cùng đến tất cả chúng sinh không giới
hạn. Khi chúng ta nói “nguyện cho thầy tổ tôi có đầy đủ sức khỏe, bình an hạnh
phúc, thanh tịnh tĩnh lặng” tức là ta đã giới hạn rải tâm từ chỉ cho thầy tổ.
Cũng vậy rải tâm từ cho một nhóm người nào đó là ta cũng giới hạn trong số người
đó thôi v.v… Bởi vậy, khi niệm tâm từ, chúng ta không dừng ở đó mà ta mở trải rộng
tâm từ lần lần từ thầy tổ đến cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, những người
không quen biết, những người không có thiện cảm với ta… cho đến khi rải đều tâm
từ đến tất cả chúng sinh.
Như vậy khi thực hành thiền từ ái, tâm ta phải
hướng đến tất cả chúng sinh không trừ một ai. Khi rải tâm bi, tâm hỉ, tâm xả
cũng vậy.
Khi thực hành ba vô lượng tâm đầu tiên, bạn
có thể đạt từ mức Cận Định cho đến tầng thiền thứ tư. Khi thực hành tâm xả bạn
có thể đạt từ Cận Định cho đến tầng thiền thứ năm.
Khi hành thiền niệm tâm từ bạn niệm “nguyện
cho tất cả chúng sinh có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh tịnh tĩnh lặng”.
Khi niệm tâm bi bạn đọc “nguyện cho tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ”. Như
vậy đối tượng của tâm từ là chúng sinh an vui, đối tượng của tâm bi là chúng
sinh đau khổ. Khi niệm tâm hỉ lấy đối tượng là chúng sinh được thành công hạnh
phúc. Bởi vì lấy sự thành công hạnh phúc làm đối tượng nên bạn nói “nguyện cho
sự thành công hạnh phúc của chúng sinh được bền vững lâu dài”. Khi thực hành
thiền tâm xả bạn phải niệm như thế nào? Trong tiếng Pāḷi có câu “kammassaka” có
nghĩa là Nghiệp là gia tài của chúng sinh. Có nghĩa là bạn có thể giúp đỡ cho
chúng sinh theo năng lực của bạn, nhưng nếu bạn không làm được điều đó thì bạn
phải chấp nhận. Bởi thế khi niệm về tâm xả bạn đọc “chúng sinh có Nghiệp là gia
tài của họ, họ đau khổ hay hạnh phúc tùy theo
page 55
Nghiệp của họ”. Không ai có thể can thiệp vào Nghiệp của người
khác.
Nhóm tiếp theo là
quán tưởng về thực phẩm bất tịnh. Sau khi thành đạo, Đức Phật nghĩ đến việc giáo hóa chúng
sinh, nhưng Ngài thấy giáo pháp của Ngài giống như đi ngược dòng nước nên Ngài
không muốn dạy. Bởi vậy khi thực hành quán tưởng thực phẩm ô trược thì không ai
muốn thực hành điều này.
Do đó khi đi vào tiệm ăn, đừng nói tôi thưởng
thức thức ăn. Có lần nọ trong một khóa thiền, một thị giả người Mỹ đáng lẽ nói
với tôi “Chúc Ngài ngon miệng” hay “Mời Ngài thưởng thức thức ăn”, nhưng vị này
không nói, bởi vì vị này biết rằng: Đức Phật nói đừng thưởng thức thức ăn. Bạn
phải phát triển sự quán tưởng về thực phẩm bất tịnh nhằm mục đích loại trừ tâm
Tham Ái thức ăn.
Niệm tưởng về vật thực ô trược có thể thực hành bằng nhiều cách. Chẳng hạn
như nghĩ rằng: bạn phải cố gắng biết bao khi có được thức ăn. Đối với người
bình thường, không phải là nhà Sư thì bạn phải nấu, khi nấu là khổ. Đối với nhà
Sư phải đi khất thực, phải đi nhiều nhà, mỗi chỗ nhận một ít thức ăn. Khi đi,
nhà Sư phải coi chừng chó, ngựa, bò, xe cộ v.v…
Khi bạn ăn, thực phẩm được trộn với nước miếng,
đưa xuống dạ dày. Nếu bạn lấy ra khỏi miệng một miếng thức ăn đã nhai rồi thì bạn
sẽ không muốn ăn lại. Như vậy, vào lúc nhai thực phẩm trở thành ô trược, nhưng vì
bạn không thấy thực phẩm trong miệng nên bạn sẵn sàng nuốt xuống. Khi lấy thức
ăn ra khỏi miệng, ngay cả nhìn nó bạn còn không muốn nhìn, và cũng không dám
cho ai thấy. Như vậy, quán tưởng thực phẩm bất tịnh có thể phát triển bằng nhiều
cách.
Nhưng quán tưởng vừa vừa thôi chứ quán tưởng
quá mức thì khi mới nhai bạn đã nhả ra rồi và không thể nào ăn được. Khi hành
thiền quán tưởng về sự ô trược của thực phẩm thì bạn đạt được kết quả gì? Bạn
chỉ đạt được Cận Định thôi, không thể đạt được các tầng thiền vì định tâm vào
thức ăn ô trược không đủ mạnh để đạt được các tầng thiền. Bởi vì trong khi hành
thiền này, bạn nghĩ đến nhiều khía cạnh bất tịnh của thực phẩm nên tâm không thể
tập trung mạnh mẽ nên không thể đạt được các tầng thiền.
Nhóm tiếp theo là
phân tích tứ đại. Với đề mục thiền này, bạn có thể lấy các bộ phận trong cơ thể như tóc,
lông, móng, răng, da v.v… để thấy các yếu tố tứ đại. Có ba mươi hai thành phần
trong cơ thể, trong đó có hai mươi thành phần thuộc yếu tố đất, mười hai thành
phần thuộc yếu tố nước. Trước tiên bạn phải hiểu tứ đại là gì, sau đó bạn cố gắng
hiểu những bộ phận nào trong cơ thể có những đặc tính của đất, của nước v.v… Chẳng
hạn như bạn có cảm giác về sự cứng thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố đất.
Khi bạn cảm thấy sự dính hút hay ướt thì bạn có thể
kết luận đây là yếu tố nước v.v… Do đó hãy cố gắng thấy các yếu tố này bất
kỳ nơi nào trong cơ thể.
Khi bạn thấy được các yếu tố trong cơ thể thì bạn sẽ mất đi ý niệm về sự
toàn khối của cơ thể. Thực hành như thế cũng có thể giúp bạn thấy được bản chất
vô ngã của sự vật. Hành thiền phân tích tứ đại có thể giúp bạn đạt được Cận Định,
nhưng không đạt được các tầng thiền. Vì hiểu rõ được tứ đại là điều không phải
dễ dàng, rất khó khăn để hiểu rõ được tứ đại do những đặc tính này thật là thâm
sâu nên định tâm không đủ mạnh để đạt đến các tầng thiền.
Cuối cùng là nhóm vô
sắc tức là bốn tầng thiền vô sắc. Nếu bạn không nghiên cứu, học Vi Diệu Pháp thì bạn
không thể nào hiểu được thế nào là vô sắc. Bởi vậy bạn phải học Abidhamma (Vi
Diệu Pháp) để hiểu vô sắc. Thực hành thiền vô sắc giúp bạn đạt được các tầng
thiền vô sắc. Thiền sinh phải vượt qua trạng thái hữu sắc (thực hành xong tầng
thiền hữu sắc) và tập trung vào đề mục không vô biên xứ, thức vô biên xứ v.v… Đối
với người không biết Vi Diệu Pháp trước thì thật khó hiểu. Tôi không đề cập nhiều
đến vấn đề này.
Trên đây là bốn mươi đề mục Thiền Định. Nếu muốn
thì bạn có thể thực hành một hoặc một số trong những đề mục này. Trong số bốn
mươi đề mục, có bốn đề mục Đức Phật gọi là “bảo vệ”, chúng bảo vệ chư Tăng
tránh phiền não xâm nhập. Bốn đề mục đó là: Niệm Ân Đức Phật, Niệm Sự Chết, Niệm
Tâm Từ và niệm Tử Thi.
Theo Chú Giải thì bốn mươi đề mục Thiền Định có thể tìm thấy trong các
tôn giáo khác và trong các thời đại khác. Nhưng Thiền Minh Sát vipassana chỉ được
tìm thấy trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật được truyền bá, có nghĩa là chỉ Đức
Phật mới dạy Thiền Minh Sát. Thiền Định thì nhiều vị thầy khác vẫn có thể dạy
được. Do đó,Thiền Định là lối thiền phổ thông của các học thuyết và tôn giáo
khác.
Mặc dù chúng ta chú trọng đến Thiền Minh Sát, nhưng ta không thể nói Thiền
Định không có giá trị gì. Thiền Định có chỗ đứng riêng trên con đường phát triển
tâm linh. Vì Thiền Định có giá trị riêng nên Đức Phật có giảng dạy Thiền Định,
nhưng cần nhớ một điều rằng: không phải mục đích của chúng ta chỉ là thực hành
Thiền Định. Chúng ta có thể hành Thiền Định khi nào có thể, nhưng chúng ta phải
chuyển sang hành Thiền Minh Sát để loại trừ phiền não.
Mục đích của tất cả Phật Tử là loại trừ phiền não, và bởi vì chỉ có Thiền
Minh Sát mới đạt được mục đích này nên Thiền Minh Sát là mục tiêu chính.
(Trích Phật Pháp Căn Bản, tác giả Sīlānanda, Khánh Hỷ dịch)
Xem thêm thứ tự:
1. Nền tảng Phật Pháp - hiểu Phật Pháp Tăng - TK Sīlānanda
2. Nền tảng Phật Pháp - Lịch sử Đức Phật Gotama (Thích Ca) - TK Sīlānanda
3. Nền tảng Phật Pháp - Tứ Diệu Đế - TK Sīlānanda
4. Nền tảng Phật Pháp - Bát Chánh Đạo - TK Sīlānanda
5. Nền tảng Phật Pháp - Nghiên cứu về Nghiệp - TK Sīlānanda
6. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Sinh = 12 Nhân Duyên - TK Sīlānanda
7. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Hệ = 24 Hệ Nhân Duyên - TK Sīlānanda
8. Nền tảng Phật Pháp - CÁC HẠNG CHÚNG SINH TRÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT -TK Sīlānanda
9. Nền tảng Phật pháp - Những giới luật quan trọng nhất - Tỳ kheo Silananda
10. Nền tảng Phật pháp - THIỀN ĐỊNH (SAMATHA) - Tỳ kheo Silananda
11. Nền tảng Phật pháp - THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ)) - Tỳ kheo Silananda
12. Nền tảng Phật pháp - Giải thích sự giác ngộ - Tỳ kheo Silananda
13. Nền tảng Phật pháp - Các kỳ kết tập Kinh điển lịch sử - Tỳ kheo Silananda
14. Nền tảng Phật pháp - Hiểu vê Vô Ngã - Tỳ kheo Silananda
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét