Về con đường phát triển tâm linh của Phật Giáo, trước tiên chúng ta Quy Y rồi giữ giới, sau đó hành Thiền Định. Bây giờ chúng ta bước thêm một bước nữa là hành Thiền Minh Sát (vipassanā), đó là con đường trí tuệ.
Nếu phát triển được Thiền Định thì tốt, nhưng nếu chỉ một mình Thiền Định
thôi thì không thể Giác Ngộ. Muốn Giác Ngộ, muốn chấm dứt đau khổ chúng ta phải
thực hành trí tuệ pañña. Muốn thực hành trí tuệ thì chúng ta phải hành Thiền
Minh Sát. Các bạn đã hành Thiền Minh Sát nhiều năm, đã biết cách thức hành thiền,
nhưng hôm nay tôi sẽ nói cho các bạn về lý thuyết của Thiền Minh Sát. Đây là một
khóa học về căn bản của Phật Giáo, nên tôi phải bao gồm Thiền Minh Sát.
Đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu nghĩa của chữ minh sát vipassanā. Chữ
vipassanā được dịch là pháp nội quán. Được dịch là pháp nội quán bởi vì Thiền
Minh Sát xuyên thấu vào bản chất của Vật Chất và Tâm, nhưng theo nghĩa chuyên
môn của chữ vipassanā thì có chút khác biệt. Bạn cần phải hiểu nghĩa chuyên môn
này nữa. Vipassanā có nghĩa là thấy bằng nhiều cách. Chữ vipassanā gồm hai chữ “vi”
và “passana”. “Vi” là tiếp đầu ngữ có nghĩa là nhiều cách. “Passana” có nghĩa
là thấy. Bằng nhiều cách ở đây có nghĩa là thấy Vật Chất và Tâm hay Ngũ Uẩn,
hay các Pháp Hữu Vi (các pháp có điều kiện) là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Nghĩa
tiềm ẩn trong chữ minh sát có nghĩa là khi thực hành Thiền Minh Sát bạn phải thấy
sự Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của đối tượng đang quán sát. Chỉ khi nào thấy ba đặc
tính này bạn mới có thể nói là bạn đang thật sự hành Thiền Minh Sát.
Thiền Minh Sát (vipassanā) được Đức Phật khám phá và được chính Ngài dạy
cho chúng sinh. Chắc các bạn đã biết Đức Phật từng hành khổ hạnh trong rừng suốt
sáu năm dài. Cuối cùng Ngài nhận thấy mục đích của mình vẫn còn ở quá xa. Đức
Phật kiểm lại sự thực hành của Ngài và đi đến kết luận là mình đã thực hành sai
lầm. Sau đó, Đức Phật khám phá ra con đường trung đạo là thực hành vipassanā.
Ngài thực hành và đạt được kết quả tốt đẹp nhất, đó là trở thành một vị Phật.
Sau khi Giác Ngộ quả Phật, Ngài đi du hành
khắp nơi truyền bá giáo pháp. Ngài thuyết giảng nhiều bài pháp và giảng dạy về
vipassanā hay satipaṭṭhāna nhiều lần. Như vậy, chỉ khi Đức Phật xuất hiện trên
thế gian, mới có chúng sinh hiểu biết và
thực hành Thiền Minh Sát. Và khi giáo pháp của Đức Phật vẫn còn tồn tại
trên thế gian này mới có sự hiểu và thực hành Thiền Minh Sát.
Dù không có Đức Phật ra đời, không có giáo pháp của Đức Phật, người ta vẫn
có thể thực hành Thiền Định, nhưng chỉ vào thời kỳ của Đức Phật hoặc khi giáo
pháp của Đức Phật còn lưu hành người ta mới có thể thực hành Thiền Minh Sát. Chỉ
có Thiền Minh Sát mới giúp xuyên thấu vào bản chất thật sự của Vật Chất và Tâm,
Giác Ngộ Tứ Diệu Đế (thấy rõ bốn sự thật cao thượng).
Vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, và cả ngàn năm sau khi Ngài nhập diệt,
Thiền Minh Sát vẫn được nhiều người thực hành. Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng
một ngàn năm cho đến bây giờ, dường như ít ai thực hành Thiền Minh Sát. Bởi vì
những Chú Giải được viết trong vòng một ngàn năm từ lúc Đức Phật Niết Bàn, lúc
còn rất nhiều người hành Thiền Minh Sát, nên thường hay đề cập đến những người
hành Thiền Minh Sát và Giác Ngộ Đạo Quả. Sau một ngàn năm đó, những người hành
thiền và những người Giác Ngộ trở nên hiếm hoi. Ngài Mahasi nói rằng: khoảng thời
gian sau khi Đức Phật diệt khoảng một ngàn năm cho đến bây giờ rất ít người thực
hành Thiền Minh Sát. Câu này có nghĩa là sau một ngàn năm Đức Phật nhập diệt
cho đến bây giờ có ít người hành Thiền Minh Sát chứ không phải là không có ai.
Sau một ngàn năm, từ khi Đức Phật Niết Niết Bàn cho đến bây giờ, đa số
các vị Sư sống trong rừng mới hành Thiền Minh Sát, những vị Sư sống ở thành phố
phần lớn không hành thiền. Trong những tài liệu cổ được ghi chép lại, chỉ thỉnh
thoảng người ta mới gặp những vị Sư đắc quả A La Hán. Nếu những vị này thật sự
là A La Hán thì các vị phải hành Thiền Minh Sát.
Mặc dù có rất ít người thực hành Thiền Minh Sát, nhưngThiền Minh Sát vẫn
còn. Những người hành Thiền Minh Sát thời bấy giờ chỉ hành thiền cho chính họ
mà không dạy cho nhiều người. Các vị chỉ dạy Thiền Minh Sát cho các học trò thân
cận hay những bạn bè gần gũi. Bởi vậy rất ít người có cơ hội hiểu được cách
hành Thiền Minh Sát và thực hành.
Khoảng một trăm năm trước đây, một số các vị Hòa thượng ở Miến Điện cố gắng
làm sống lại Thiền Minh Sát. Việc hành Thiền Minh Sát có hệ thống mà chúng ta
đang hiểu và thực hành đây theo tôi nghĩ được bắt đầu bởi Hòa thượng Mingun
Jetavan. Đọc lịch sử của Ngài ta biết rằng: Ngài muốn hành Thiền Minh Sát,
nhưng Ngài không biết làm thế nào để thực hành. Ngài bèn đi tìm một vị thầy có
đủ thẩm quyền và năng lực để dạy Ngài hành Thiền Minh Sát. May mắn thay, Ngài gặp
một Hòa thượng ở một nơi gọi là Mingun. Mingun là một địa phương ở bên kia sông
của thành phố Mandalay. Vị hòa thượng này sống ở Mingun, là học trò của một vị
Hòa
thượng
khác. Vị thầy này là một người rất nổi tiếng và được mọi người xem là một vị A
La Hán.
Theo tài liệu ghi chép, vị Hòa thượng đầu tiên này có thể là một vị
thánh thứ ba bởi vì lúc bấy giờ có những vị Hòa thượng khác yêu cầu Ngài thuyết
pháp, dạy cho họ cách hành thiền và vị này nói rằng: “Tôi sẽ giảng cho các vị một
bài pháp, nhưng bài pháp này chỉ nói đến những gì tôi đã thực hành” hoặc là câu
nói tương tự như vậy.
Ngài giảng về việc thực hành cho đến tầng thánh thứ ba và Ngài chỉ giảng
đến đây thôi. Nếu dựa vào tài liệu này thì vị Hòa thượng này đã đắc đến quả
thánh thứ ba – quả Bất Lai. Vị Hòa thượng này không có nhiều học trò vì Ngài sống
trong rừng sâu và ít vị Sư nào có thể sống được ở đó. Vì Hòa thượng sống ở Mingun
là học trò của vị Hòa thượng đầu tiên này cho nên vị Hòa thượng sống ở Mingun
biết cách thực hành. Ngài đã thực hành theo và có thể là Ngài đã Giác Ngộ Đạo
Quả. Ngài Mingun gặp vị Hòa thượng thứ hai này và xin Ngài giảng giải cho mình
cách hành thiền, nhưng vị Hòa thượng thứ hai không dạy cho ngài Mingun Jetavan
nhiều chi tiết của việc thực hành. Ngài chỉ nói với Ngài Mingun Jetavan: “Đây
là bản kinh về Tứ Niệm Xứ và đây là những Chú Giải và Phụ Chú Giải. Con chỉ cần
nghiên cứu bản kinh và các Chú Giải, Phụ Chú Giải này”.
Có thể ngài Mingun đã được Ngài này hướng dẫn một phần nào đó. Ngài
Mingun Jetava nghiên cứu bài kinh, Chú Giải và Phụ Chú Giải và biết cách thực
hành. Chắc có lẽ Ngài đã nhận được một số lời chỉ dẫn của vị Hòa thượng thứ
nhì. Như vậy, Ngài Mingun Jetavan đã thực hành Thiền Minh Sát theo kinh điển và
theo lời hướng dẫn của vị Hòa thượng thứ hai và có thể Ngài đã đạt được một tầng
mức nào đó và Ngài bằng lòng với sự thực hành của mình. Chuyện này xảy ra vào
khoảng năm 1908, mới bắt đầu của thế kỷ hai mươi.
Sau khi thực hành đạt kết quả, Ngài muốn hướng dẫn người khác cách thực
hành, nên Ngài bắt đầu giảng pháp ở Mingun, nhưng không ai muốn nghe và thực
hành theo Ngài. Đối với các vị Sư và dân chúng thời bấy giờ, những lời Ngài giảng
thật là kỳ lạ. Người ta chỉ trích và chế giễu, lấy Ngài ra làm trò đùa. Chẳng hạn
như Ngài dạy: “khi đi biết rằng: tôi đang đi hay khi ngồi biết rằng: tôi đang
ngồi”. Họ láy câu đó làm trò đùa và nói rằng: “khi đi tôi cũng biết rằng: tôi
đang đi, khi giết cá thì tôi cũng biết rằng: tôi giết cá”. Thế nên chẳng ai
nghe Ngài dạy và hành theo.
Ngài bèn trở về nơi sinh quán của Ngài và nghĩ rằng: dân chúng trong
làng này và thân quyến sẽ muốn nghe và thực hành theo Ngài. Thế là Ngài trở về
quê quán của mình, nhưng ở đây cũng chẳng ai nghe và hành theo Ngài. Ngài cũng
gặp sự chỉ
Ở làng cũ hai năm,
Ngài trở về Mingun lại và kiên trì dạy dỗ, kiên trì thuyết pháp
ở đây.
Lúc bấy giờ có một cặp vợ chồng đến nghe Ngài giảng. Họ rất thích thú và muốn
hành thiền dưới sự chỉ dẫn của Ngài. Hai người này thực hành theo lời dạy của
Ngài và đạt kết quả. Sau đó dần dần nhiều người đến tìm học với Ngài, số thiền
sinh gia tăng. Về sau Ngài xây dựng một trường thiền ở đó, đó là năm 1911. Bắt
đầu từ đó nhiều thiền viện trong các thị trấn khác được thành lập.
Khoảng năm 1914, Hòa thượng Mingun Jetavan đi xuống miền hạ Miến lập một
trường thiền ở Thaton, cũng đặt cùng tên là Mingun Jetavan. Đó là lý do tại sao
Ngài nổi tiếng với tên Hòa thượng Mingun Jetavan. Nhiều người đến hành thiền với
Ngài, danh tiếng Ngài lan rộng. Nhiều người đến học với Ngài, có cả chư Tăng và
cư sĩ, sau đó họ tiếp tục hành Thiền Minh Sát. Nhiều học trò đó trở thành thiền
sư theo truyền thống dạy thiền của Ngài.
Một trong những người học trò đó là Visuddha
lập một thiền viện ở Yangoon, bắt đầu dạy Thiền Minh Sát theo truyền thống
Mingun. Thiền viện này bây giờ còn tồn tại ở Yangoon, không xa tháp Shwe Dagon
bao nhiêu.
Năm 1932, một vị học trò khác đến Mingun Jetavan và thực hành dưới sự hướng
dẫn của Ngài trong bốn tháng rồi trở về chùa của mình. Người học trò này là Hòa
thượng Mahāsi. Như vậy sau khi thực hành Thiền Minh Sát dưới sự hướng dẫn của
Hòa thượng Mingun Jetavan, Hòa thượng Mahāsi bắt đầu hướng dẫn Thiền Minh Sát
năm 1938.
Ngài Mahāsi trở về ngôi làng sinh quán của
mình giảng giải giáo pháp. Một số người muốn đến hành thiền với Ngài, trong đó
có người bà con chú bác của Ngài. Như vậy Ngài Mahāsi bắt đầu dạy Thiền Minh
Sát từ năm 1938. Ngài đi đi về về giữa thành phố Thaton và nơi sinh quán của
Ngài để dạy thiền.
Năm 1949, Ngài được mời về dạy thiền ở thiền viện Mahāsi ở Yangoon. Bắt
đầu từ đó, Ngài Mahāsi sống ở thiền viện này cho đến khi Ngài mất vào năm 1982.
Hòa thượng Mahāsi rất thành công trong việc phổ biến phương pháp Thiền
Minh Sát. Một trong những lý do thành công đó là nhờ Ngài được sự hỗ trợ của thủ
tướng U Nu. Khi thủ tướng U Nu đến thiền viện Mahāsi để hành thiền, có rất nhiều
người đi theo thủ tướng. Nhờ điều này nên Ngài rất thành công trong việc phát
triển Thiền Minh Sát, không chỉ ở Miến Điện mà còn trên thế giới. Học trò Ngài
Mahāsi dịch những bài pháp của Ngài ra tiếng Anh và phổ biến đến các xứ khác.
Dân chúng nhiều quốc gia khác cũng biết ngài Mahāsi và phương pháp thiền Ngài dạy.
page 61
Ở Miến
Điện nhiều thiền viện mới được xây dựng và hàng ngàn, hàng ngàn người thực hành
ở các trung tâm đó. Ở Srilanka, Thái Lan nhiều trung tâm thiền cũng được thành
lập và nhiều người đến đó thực hành. Hòa thượng Mahāsi không phải là vị thiền
sư độc nhất dạy thiền ở Miến. Có rất nhiều Hòa thượng khác đã dạy Thiền Minh
Sát. Mặc dù rất nhiều vị đều dạy Thiền Minh Sát, nhưng kỹ thuật của các vị này
có một số điểm khác với các vị khác. Tuy nhiên, một cách tổng quát vị Hòa thượng
nào dạy Thiền Minh Sát cũng căn cứ vào những căn bản thực hành trong kinh Đại
Niệm Xứ.
Hòa thượng Mahāsi được mời đến Hoa Kỳ để hướng dẫn các khóa thiền. Ngài
đã dạy thiền nhiều nơi và dạy tại Insight Meditation Society ở Beri,
Massachusetts vào năm 1979. Ngài Mahāsi được mời đến Hoa Kỳ để hướng dẫn nhiều
khóa thiền tại nhiều nơi khác nhau. Khi trở về Miến Điện, Ngài để tôi ở lại đây
để truyền bá Thiền Minh Sát.
Về sau, nhiều thiền sư dạy Thiền Minh Sát theo truyền thống của Ngài
Mingun như các Ngài Paṇḍita, Kuṇḍala, Dhammapiya, Janaka, Kim Triệu… Sư Khánh
v.v… đều dạy thiền theo phương pháp của Ngài Mahasi, đúng kinh Đại Niệm Xứ của
Đức Phật. Ở New York có Ngài Indaka. Như vậy, những người học trò của Ngài
Mahāsi đã truyền bá phương pháp hành Thiền Minh Sát trong xứ Hoa Kỳ này.
Bây giờ chúng ta đi sâu hơn vào Vipassanā. Mức
tiến bộ của Thiền Minh Sát được phân chia thành bảy giai đoạn hay gọi là bảy
giai đoạn thanh tịnh “visuddhi”. Thiền sinh sẽ tiến triển từ giai đoạn thanh tịnh
này đến giai đoạn thanh tịnh khác, không bỏ qua giai đoạn nào. Bạn phải đi từng
bước từ khởi đầu cho đến cuối cùng. Trong những từng mức này thiền sinh kinh
nghiệm nhiều loại tuệ giác khác nhau. Nhiều loại tuệ giác khác nhau khởi sinh
trong tâm thiền sinh khi thiền sinh tiến triển theo bảy giai đoạn thanh tịnh
này.
Giai đoạn đầu tiên là Giới Tịnh.
Trong tầng mức này, bạn chưa hành Thiền Minh Sát mà bạn chỉ cố gắng thanh tịnh
giới. Vì giới thanh tịnh là nền móng vững chắc bạn xây dựng định và tuệ. Nếu giới
không trong sạch thì không thể đạt được sự định tâm. Khi không có định tâm bạn
không thể nào xuyên thấu bản chất sự vật. Do vậy giới thanh tịnh là một bước rất
quan trọng để thành công trong việc hành Thiền Minh Sát.
Trong phần giới luật có giới của các vị Sư.
Trong thanh tịnh đạo chỉ nói đến giới luật của nhà Sư mà không nói đến giới luật
của cư sĩ. Thanh Tịnh Đạo là một cuốn sách viết cho các nhà Sư bởi một nhà Sư
khác nên tác giả không nói đến giới luật của người cư sĩ. Ở đây, chúng ta sẽ đề
cập đến giới dành cho người cư sĩ như: năm giới, tám giới …
Thiền sinh ít nhất phải giữ năm giới, nhưng nếu giữ tám giới thì đạt được
nhiều phước báu hơn, lợi ích hơn vì khi giữ tám giới thiền sinh có nhiều thời
gian để hành
thiền.
Như vậy, giữ tám giới tốt hơn giữ năm giới. Nếu bạn không giữ tiền trong lúc
hành thiền thì bạn có thể giữ mười giới, nhưng ngày nay giữ mười giới rất khó
khăn. Tóm lại, bạn có thể giữ năm giới, tám giới hay mười giới để thanh tịnh giới
luật của mình.
Vậy, bước đầu tiên
Giữ Giới chẳng khác nào bước dự bị cho việc hành thiền.
Giai đoạn thứ hai là Tâm Tịnh.
Tâm tịnh thật sự có nghĩa là định tâm. Khi có Cận Định hay đạt các tầng thiền
được gọi là tâm tịnh. Nói cách khác, tâm tịnh là tâm có được Cận Định hay các tầng
thiền.
Một thiền sinh đạt được Cận Định và nhập vào
các tầng thiền tức là người này hành Thiền Định. Một người hành Thiền Định mà đạt
được Cận Định và vào các tầng thiền thì gọi là tâm tịnh. Chú Giải định nghĩa tâm tịnh là Cận Định hay định trong
các tầng thiền.
Đối với những người hành Thiền Định trước rồi
mới qua Thiền Minh Sát, thì sau khi họ đạt Cận Định hay đạt các tầng thiền, họ
sẽ chuyển qua hành Thiền Minh Sát. Đây gọi là người hành Thiền Định rồi qua Thiền
Minh Sát. Đối với những người không hành Thiền Định trước mà đi thẳng vào Thiền
Minh Sát thì gọi là người hành Thiền Minh Sát khô.
Đối với người hành Thiền Minh Sát không qua
Thiền Định trước thì tâm tịnh là Sát Na Định. Sát Na Định tương đương với Cận Định.
Khi đạt đến Cận Định thì người hành thiền giữ tâm trên đề mục một cách vững
vàng, và lúc bấy giờ năm chướng ngại tạm thời vắng bóng. Như vậy, Cận Định có
thể chế ngự được năm chướng ngại (tham, sân, bất an hối hận, dã dượi buồn ngủ,
hoài nghi) và có thể giữ tâm trên đối tượng một cách vững chắc. Tương tự như thế,
Sát Na Định cũng giữ tâm trên đối tượng và chế ngự được năm chướng ngại. Do đó,
Cận Định và Sát Na Định tương đương với nhau. Chỉ có một sự khác biệt giữa Cận
Định và Sát Na Định là: Cận Định chỉ chú tâm trên một đề mục duy nhất trong khi
Sát Na Định có thể chú tâm trên rất nhiều đề mục từng sát na một. Đề mục của
Sát Na Định thay đổi và khác nhau từng sát na, nhưng đề mục của Cận Định trước
sau chỉ là một.
Chú Giải và Phụ Chú Giải chỉ đơn giản nói là Tâm Tịnh, nhưng trong Phụ Chú Giải của Trung Bộ Kinh (Majjima
Nikāya) nói rằng: Sát Na Định là yếu tố thiết yếu trong Thiền Minh Sát. Điều
này có nghĩa là nếu không đạt được Sát Na Định thì việc hành thiền của bạn sẽ
không đạt kết quả.
Bởi vậy, Hòa thượng
Mahāsi đã giảng giải cho những người hành Thiền Minh Sát
page 63
khô,
là những người không có Thiền Định trước, rằng: Tâm Tịnh có nghĩa là Sát Na Định. Như vậy khi một người hành Thiền
Minh Sát đạt được Sát Na Định thì người đó gọi là đã có tâm tịnh.
Trong suốt thời gian hành Thiền Minh Sát, khi tâm bạn chỉ ở trên đề mục
quán sát và không lang thang đi nơi khác thì lúc đó bạn đạt được Sát Na Định.
Khi đạt được Sát Na Định, tâm không bị chi phối bởi phiền não, nên bạn bắt đầu
thấy sự vật một cách rõ ràng. Bạn sẽ phân biệt được thế nào là Vật Chất, thế
nào là Tâm. Cũng vậy, bạn sẽ thấy được “đặc tính”, “chức năng”, “sự biểu hiện”
hoặc “nguyên nhân gần” của đối tượng.
Như vậy, khi bạn có thể thấy đối tượng một cách rõ ràng, khi bạn có thể
phân biệt được đây là Vật Chất, đây là Tâm. Khi bạn thấy đặc tính, chức năng hoặc
sự biểu hiện, hay nguyên nhân gần một cách rõ ràng thì lúc đó bạn đạt được Kiến Tịnh.
Kiến
Tịnh có nghĩa là khi bạn quán sát đối tượng bạn
chỉ thấy đây là đối tượng và đây là
tâm quán sát đối tượng. Đối tượng chỉ là đối tượng, tâm chỉ là tâm. Chỉ có các
yếu tố này sinh diệt mà thôi, ngoài ra chẳng có gì cả. Chẳng có gì bạn có thể gọi
là linh hồn, tự ngã (attā) cả. Khi đạt đến tầng mức này bạn có thể loại trừ tà
kiến, loại trừ sự hiểu lầm rằng: có một linh hồn, tự ngã attā thêm vào Vật Chất
và Tâm này. Ở tầng mức này được gọi là Tuệ Phân Biệt Vật Chất và Tâm.
Sau khi thấy được Vật Chất và Tâm rõ ràng, chính xác thì bạn sẽ thấy
nguyên nhân của Vật Chất và Tâm. Bạn sẽ thấy có cái gì đó là nhân của Tâm và
cái gì đó là nhân của Vật Chất. Ở tại tầng mức này tâm hoài nghi được chế ngự -
hoài khi rằng: không biết trong quá khứ có ta không hoặc trong tương lai sẽ có
ta không, đồng thời cũng có sự nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng và sự thực hành.
Ở tầng
mức này, bạn đã đã đạt được Tuệ Phân Biệt
Nguyên Nhân. Nguyên nhân ở đây có nghĩa là nhân thật sự và đôi khi là những
điều kiện. Ở tầng mức này, bạn thấy được các điều kiện hay các duyên của sự vật;
bởi vì có Vật Thấy thì mới có Thức Thấy, có vật để ghi nhận thì mới có tâm ghi
nhận v.v… Ở tầng mức này bạn thấy rõ ràng nguyên nhân của sự vật.
Khi bạn đạt được giai đoạn này gọi là Đoạn Nghi Tịnh. Người đạt được tầng mức
này gọi là Cuḷa-Sotāpanna (Tiểu Tu Đà Hoàn). Người tiểu Tu Đà Hoàn không phải
là Tu Đà Hoàn thật sự, nhưng người này giống một Tu Đà Hoàn. Người đắc quả Tu
Đà Hoàn không còn tái sinh vào bốn cảnh khổ trong tương lai. Người tiểu Tu Đà
Hoàn không bị rơi vào bốn ác đạo trong kiếp kế tiếp nếu người đó không lui sụt
khỏi tầng mức này, nghĩa là người đó tiếp tục tinh tấn hành thiền không thối
chuyển. Vì vị này không rơi vào bốn ác đạo trong kiếp kế tiếp nên được gọi là
tiểu Tu Đà Hoàn.
Sau khi thấy được nguyên nhân của Vật Chất và Tâm,
thiền sinh sẽ thấy được ba đặc tính của sự vật. Ở giai đoạn, này thiền sinh lấy
đối tượng là một nhóm và quán sát để thấy rõ chúng là Vô Thường, khổ, vô ngã. Tầng
mức này được gọi là Kiến Tịnh. Ở giai đoạn này, thiền sinh trú trong
nhiều đối tượng và thấy rõ những đối
tượng này là Vô Thường, khổ, vô ngã.
Sau khi thấy được ba đặc tính Vô Thường, khổ, vô ngã của Vật Chất và
Tâm, thiền sinh sẽ thấy rõ ràng sự sinh khởi, hoại diệt hay sự đến và đi của Vật
Chất và Tâm. Thiền sinh sẽ thấy sự sinh và diệt của những đối tượng cá biệt,
không xem đối tượng là một khối tổng thể mà tách chúng thành những đối tượng cá
biệt. Khi thấy sự sinh và diệt của Vật Chất và Tâm, sự tập trung của thiền sinh
trở nên mạnh mẽ. Khi sự tập trung ngày càng mạnh mẽ và mãnh liệt, thiền sinh bắt
đầu trải nghiệm cái gọi là “tùy phiền não” (tuệ giác khiếm khuyết) của Thiền
Minh Sát. Đến giai đoạn này, thiền sinh sẽ kinh nghiệm ánh sáng, kinh nghiệm hỉ,
cảm thấy an lạc, thanh tịnh và một đức tin mạnh mẽ, tinh tấn cũng mạnh hơn, sau
đó kinh nghiệm lạc. Lúc này sự hiểu biết của thiền sinh rất sắc bén, tâm chánh
niệm rất vững chắc, không cần nhiều cố gắng chánh niệm vẫn tốt. Cuối cùng thiền
sinh bị dính mắc vào tuệ giác bất toàn này.
Khi tuệ giác này mới phát sinh, thiền sinh
muốn ôm giữ chúng và bắt đầu dính mắc vào mười tuệ giác bất toàn hảo của tuệ
giác Thiền Minh Sát. Khi trải qua kinh nghiệm này, thiền sinh nghĩ rằng: mình
đã đi đến đích nên họ dừng lại và không tiến thêm nữa. Đây không phải là mục
tiêu tối hậu của hành trình. Họ không biết rằng: đây chỉ là “hệ quả phụ” của những
kinh nghiệm trong khi hành thiền nên thiền sinh dừng lại, vì dừng lại nên không
thể tiến xa hơn.
Đó là lý do tại sao ta gọi những trạng thái tâm này là chướng ngại của
Thiền Minh Sát hay tuệ giác khiếm khuyết. Đây không phải hướng đi đúng của Thiền
Minh Sát. Những thiền sinh chưa từng trải nghiệm qua tuệ giác này thường hiểu lầm
mình đã đến đích cuối cùng, nhưng những thiền sinh có sự hiểu biết hay đã trải
nghiệm qua tuệ giác này sẽ biết rằng: đây không phải là mục tiêu thật sự và biết
cách chế ngự chúng. Sau đó thiền sinh sẽ tinh tấn hành thiền hơn và sẽ chế ngự
hay vượt qua tuệ giác khiếm khuyết này.
Tầng mức tuệ giác này được gọi là Đạo
Phi Đạo Tri Kiến Tịnh. Có nghĩa là hiểu biết đâu là đúng đâu là sai, đâu là
con đường đúng đâu là con đường sai.
Sau khi vượt qua những chướng ngại này thiền sinh sẽ tiếp tục thấy sự
sinh diệt của Vật Chất và Tâm. Đến tầng mức này sự thấy, sự biết của thiền sinh
rõ ràng hơn. Bây giờ thiền sinh thấy được sự sinh và diệt của Vật Chất và Tâm
và khi gặp phải mười phiền não này họ sẽ cố gắng vượt qua và sau đó tâm họ chỉ
chú tâm vào sự
page 65
sinh diệt của đối tượng mà thôi.
Chú tâm vào sự sinh diệt của đối tượng và hiểu biết rõ ràng hơn. Đây là
hai tầng mức của tuệ giác thấy được sự sinh diệt. Có hai tầng mức của Tuệ Sinh
Diệt, tuệ yếu và tuệ mạnh. Ở giai đoạn
tuệ yếu thì sự thấy biết của thiền sinh chưa đủ mạnh nên các tùy phiền não xen
lấn vào. Khi thiền sinh đã chế ngự được những tùy phiền não này thì sự thấy biết
của họ trở nên mạnh mẽ hơn. Sau khi vượt qua những tùy phiền não rồi, thiền
sinh đến giai đoạn thứ hai của tuệ này, lúc đó thấy biết trở nên mạnh mẽ, thiền
sinh sẽ thấy rõ ràng hơn sự sinh diệt của đối tượng.
Sau khi có được tuệ giác này thiền sinh tinh tấn tiếp tục hành thiền. Một
tuệ giác khác lại khởi sinh, đó là Tuệ
Diệt. Ở tuệ giác mới này thiền sinh chỉ thấy được sự diệt và sự biến mất của
đối tượng. Thiền sinh không cố gắng thấy sự sinh nữa, họ thấy được hay hiểu được
sự diệt hay sự chấm dứt của đối tượng mà thôi. Ở tầng mức của tuệ giác này, khi
quán sát bất kỳ đối tượng nào thiền sinh chỉ thấy sự diệt mà thôi.
Khi thiền sinh chỉ còn thấy sự diệt của bất kỳ đối tượng nào mà họ chú
tâm đến thì thiền sinh đi đến một trạng thái tâm khác, đó là đối tượng thật là
đáng sợ, đối tượng thật đầy nguy hiểm bởi vì chúng không thể tồn tại lâu dài. Mỗi
khi thiền sinh quán sát chúng chúng liền biến mất ngay. Chúng ta cần lưu ý là
thấy sự sinh diệt của đối tượng là đáng sợ chứ không phải là sợ hãi.
Tiếp theo thiền sinh đến giai đoạn thấy được những lỗi lầm, những khiếm
khuyết của Vật Chất và Tâm. Sau khi đã có được tuệ giác thấy Vật Chất và Tâm
đáng sợ, thiền sinh tiến đến một bước nữa là thấy Vật Chất và Tâm có rất nhiền lỗi
lầm khiếm khuyết. Sau khi thấy được những khiếm khuyến của Vật Chất và Tâm, thiền
sinh thấy Vật Chất và Tâm thật đáng chán, không đáng bám víu, đánh tan ảo tưởng
sai lầm về Vật Chất và Tâm. Điều này khiến cho thiền sinh không còn hứng thú và
thiền sinh quay lưng làm ngơ với Vật Chất và Tâm, thiền sinh trở nên không còn
dính mắc, không còn thiết tha với Vật Chất và Tâm. Bây giờ thiền sinh chỉ còn
thấy sự biến mất, sự diệt, sự lụi tàn, sự tan biến của mọi sự vật trên thế gian.
Tóm lại, sau khi thiền sinh thấy Vật Chất và
Tâm thật đáng sợ và nguy hiểm, nhiều khiếm khuyết lỗi lầm thì thiền sinh cảm thấy
không còn thiết tha gì với chúng nữa. Vì không còn thiết tha đến Vật Chất và
Tâm, không còn thiết tha gì mọi sự vật trên thế gian nên thiền sinh muốn thoát khỏi
chúng. Thiền sinh muốn thoát khỏi Vật Chất và Tâm vì khi chú tâm vào bất kỳ đối
tượng Vật Chất và Tâm nào thiền sinh đều thấy chúng tan biến và diệt mất. Thiền
sinh muốn thoát khỏi Vật Chất và Tâm có nghĩa là muốn thoát khỏi phiền não.
Tuệ giác thứ chín là Muccitukamyatā-ñaṇa. Có
hai cách viết tuệ giác này. Chữ trên là cách thứ nhất, cách viết thứ hai là
Muñcitakamyatā-ñaṇa. Tùy theo cách viết mà có nghĩa hơi khác nhau. Khi viết chữ
Muccitakamyatā-ñaṇa có nghĩa là muốn tự do, muốn trốn chạy, muốn thoát khỏi.
Khi viết với chữ Muñcita-kamyatā-ñaṇa nghĩa là muốn vất bỏ.
Hai nghĩa trên thật ra cũng giống nhau. Khi chúng ta không có hứng thú,
không còn thiết tha, không màng đến cái gì thì chúng ta muốn vất bỏ nó. Như vậy
muốn thoát khỏi hay vất bỏ cũng đều đúng cả.
Khi muốn thoát khỏi hay muốn vất bỏ Vật Chất
và Tâm, thiền sinh tiếp tục quán sát Vật Chất và Tâm nhiều lần để thấy rõ chúng
là Vô Thường, khổ, vô ngã, không có linh hồn, không có tôi ta. Khi thiền sinh
tiếp tục quán sát Vật Chất và Tâm, thấy rõ chúng Vô Thường, khổ, vô ngã, không
có tôi ta nhiều nhiều lần hơn nữa thì kết quả là thiền sinh sẽ đạt đến một tầng
mức khác gọi là Tuệ Xả Hành.
Khi đạt đến giai đoạn này thiền sinh không cần nỗ lực chánh niệm vào đề
mục nữa vì tâm họ luôn luôn ở trên đề mục. Có nghĩa là tâm chánh niệm hiện diện
trên đề mục một cách tự động. Lúc bấy giờ thiền sinh chẳng cần quan tâm gì đến
chánh niệm, chẳng cần một sự cố gắng nào vì chánh niệm tự động đến không cần mời
gọi. Đó gọi là xả đối với Vật Chất và Tâm.
Ở tầng
mức này tâm thiền sinh rất an lạc tĩnh lặng. Tâm thiền sinh đứng “ở giữa”. Đứng
ở giữa có nghĩa là khi có một đối tượng đáng sợ đến với thiền sinh, thiền sinh
không cảm thấy sợ hãi; khi có đối tượng đẹp đẽ hấp dẫn đến, thiền sinh cũng
không bị lôi cuốn, hay Tham Ái dính mắc vào vật đó, tâm thiền sinh đứng ở giữa.
Tuy nhiên, ở trạng thái này thiền sinh vẫn có sẵn một sự tinh tấn tự nhiên, và
tâm chánh niệm luôn luôn khắng khít với đề mục. Đây là trạng thái tâm quân bình
trước tất cả các pháp hành.
Khi tuệ xả với các
pháp hành chín muồi thì thiền sinh đạt đến Tuệ
Thuận Thứ.
Ở tầng
mức này thiền sinh gần thấy Niết Bàn. Tuệ này được gọi là Tuệ Thuận Thứ vì nó nằm
giữa tuệ trước và tuệ sau. Sau khi đạt được tuệ thuận thứ thiền sinh bước sang Tuệ Chuyển Tánh.
Từ Tuệ Sinh Diệt đến Tuệ Thuận Thứ gồm có chín tuệ. Chín tuệ này gọi là Đạo Tri Kiến Tịnh hay chỉ cần nói ngắn gọn Tịnh Đạo. Sau Tuệ Thuận Thứ đến Tuệ Chuyển Tánh. Tuệ Chuyển Tánh là tuệ cuối cùng của đời sống thế tục.
Vào sát na Tuệ Chuyển Tánh sinh khởi, thiền sinh gần Giác Ngộ vì đây là sát na
cuối cùng của đời sống thế tục, cho nên tuệ này được gọi là chuyển tánh, có
nghĩa là nó vượt từ phàm qua thánh. Tuệ giác này lấy Niết Bàn làm đối tượng
trong khi những tuệ giác
page 67
trước đây lấy Vật Chất và Tâm (pháp hữu vi)
làm đối tượng.
Tuệ Chuyển Tánh không nằm trong giai đoạn thứ
sáu của bảy giai đoạn thanh tịnh, nhưng vì nó nằm trong tiến trình của
Vipassanā nên gọi nó là Vipassanā. Tuy nhiên, nếu nói một cách chính xác hơn
thì Tuệ Chuyển Tánh không phải là vipassanā vì ở tuệ này tâm không lấy Vật Chất
và Tâm (Ngũ Uẩn) làm đối tượng mà lấy Niết Bàn làm đối tượng. Như vậy, nói
chính xác thì tuệ này không thuộc về những giai đoạn thanh tịnh trước đây, cũng
không nằm trong giai đoạn sắp đến, nó nằm giữa các giai đoạn vipassanā. Vì nó nằm
trong tiến trình vipassanā nên gọi nó là vipassanā.
Tuệ xả hành, Tuệ Thuận Thứ, Tuệ Chuyển Tánh
là những tuệ giác dẫn đến việc nhập vào dòng. Nhập vào dòng có nghĩa là dòng
thánh hay Đạo. Bởi vì sát na kế tiếp là sát na Đạo. Ba tuệ giác này được gọi là
dẫn vào Đạo hay dẫn vào dòng nên chúng có tên là tuệ đưa đến nhập lưu.
Tuệ kế tiếp là Đạo Tuệ. Đạo tuệ là sát na chỉ vào lúc Giác Ngộ, tại sát na này thiền
sinh Giác Ngộ lý Tứ Diệu Đế, tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng. Ngay sau Đạo tuệ
là Quả Tuệ, đó là quả của đạo. Tiếng
Pāḷi gọi Quả tuệ là Phala. Sau Quả tuệ độ vài sát na khởi sinh trong tâm thiền
sinh là Tuệ Hồi Khán. Có nghĩa là thiền sinh nhìn lại để xét xem những gì mình
đã đạt được và những phiền não còn lại.
Thông thường, sau khi đạt được Tuệ Hồi Khán, thiền sinh xét lại những
phiền não nào mình đã loại trừ và phiền não nào chưa loại trừ. Có năm loại Tuệ
Hồi Khán: Hồi Khán hay Nhìn Lại Đạo, Nhìn
Lại Quả, Nhìn Lại Niết Bàn, Nhìn Lại
Phiền Não Đã Loại Trừ, Nhìn Lại Phiền
Não Còn Tồn Tại.
Giai đoạn thanh tịnh
thứ bảy là Tri Kiến Tịnh để chỉ cho
Đạo Tuệ.
Như vậy có bảy giai đoạn thanh tịnh cần trải qua
hay nói cách khác có mười sáu tầng tuệ để đắc đạo quả.
1. Tuệ Phân Biệt Vật Chất
và Tâm.
2. Tuệ Thấy Nhân (Tuệ
nhân duyên)
3. Tuệ Thấy Rõ Tam Tướng.
4a. Tuệ Sinh Diệt Yếu.
4b. Tuệ Sinh Diệt Mạnh.
5. Tuệ Diệt.
6. Tuệ Sợ Hãi.
7. Tuệ Thấy Lỗi của Vật
Chất và Tâm.
8. Tuệ Nhàm Chán Vật Chất
và Tâm.
9. Tuệ Muốn Giải Thoát.
10. Tuệ Suy Tư.
11. Tuệ Hành Xả.
12. Tuệ Thuận Thứ.
13. Tuệ Chuyển Tánh.
14. Đạo Tuệ.
15. Quả Tuệ.
16. Tuệ Hồi Khán.
Vậy là có mười sáu tầng
tuệ liên quan đến sự hành Thiền Minh Sát.
Trong số mười sáu tầng tuệ này, Vi Diệu Pháp Toát Yếu
(Abhidhammatthasangaha) chỉ nói có mười tầng tuệ được gọi là Tuệ Minh Sát.
Nghĩa là từ tầng Tuệ Thấy Rõ Tam Tướng đến Tuệ Thuận Thứ mới được gọi là Tuệ
Minh Sát. Nói một cách chính xác thì Tuệ Chuyển Tánh không thuộc trong các Tuệ
Minh Sát. Trong Chú Giải nói hai tuệ đâu tiên là Tuệ Phân Biệt Vật Chất và Tâm
và Tuệ Thấy Rõ Nhân (Tuệ Nhân Duyên) cũng được gọi là Minh Sát Tuệ. Như vậy
theo Chú Giải ta có thể nói có mười ba tầng Tuệ Minh Sát, từ tầng Tuệ Phân Biệt
Vật Chất và Tâm đến Tuệ Thuận Thứ. Tuệ thứ mười bốn là Đạo Tuệ không phải là Tuệ
Minh Sát cho nên nói tuệ này ở trên hoặc vượt xa hơn Tuệ Minh Sát. Tuệ thứ mười
lăm cũng không phải là Tuệ Minh Sát.
Vậy là trên lý thuyết, chúng ta đã biết được các giai đoạn thanh tịnh và
các loại tuệ khác nhau sinh khởi trong suốt quá trình hành Thiền Minh Sát
(vipassanā). Như vậy phần còn lại là phần của chúng ta, chúng ta phải thật sự
kinh nghiệm các tuệ này thông qua việc hành Thiền Minh Sát (vipas-sanā).
(Trích Phật Pháp Căn Bản, tác giả Sīlānanda, Khánh Hỷ dịch)
Xem thêm thứ tự:
1. Nền tảng Phật Pháp - hiểu Phật Pháp Tăng - TK Sīlānanda
2. Nền tảng Phật Pháp - Lịch sử Đức Phật Gotama (Thích Ca) - TK Sīlānanda
3. Nền tảng Phật Pháp - Tứ Diệu Đế - TK Sīlānanda
4. Nền tảng Phật Pháp - Bát Chánh Đạo - TK Sīlānanda
5. Nền tảng Phật Pháp - Nghiên cứu về Nghiệp - TK Sīlānanda
6. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Sinh = 12 Nhân Duyên - TK Sīlānanda
7. Nền tảng Phật Pháp - Lý Duyên Hệ = 24 Hệ Nhân Duyên - TK Sīlānanda
8. Nền tảng Phật Pháp - CÁC HẠNG CHÚNG SINH TRÊN ĐƯỜNG GIẢI THOÁT -TK Sīlānanda
9. Nền tảng Phật pháp - Những giới luật quan trọng nhất - Tỳ kheo Silananda
10. Nền tảng Phật pháp - THIỀN ĐỊNH (SAMATHA) - Tỳ kheo Silananda
11. Nền tảng Phật pháp - THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ)) - Tỳ kheo Silananda
12. Nền tảng Phật pháp - Giải thích sự giác ngộ - Tỳ kheo Silananda
13. Nền tảng Phật pháp - Các kỳ kết tập Kinh điển lịch sử - Tỳ kheo Silananda
14. Nền tảng Phật pháp - Hiểu vê Vô Ngã - Tỳ kheo Silananda
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét