Triết học Đông phương đã nhận thấy ra nguyên lý cơ bản này từ lâu rồi. Tâm là một dòng vận hành của sự kiện và người quan sát cũng là một bộ phận trong tiến trình ấy mỗi lần hành giả quay tâm vào bên trong. Tu thiền là tham dự vào sự quán sát. Những gì bạn đang nhìn thì phản ảnh qua tiến trình của sự nhìn. Cho nên cái mà bạn đang nhìn là chính bạn, và cái mà bạn thấy được còn tùy thuộc vào cách nhìn của mình. Do đó, quá trình tu thiền thì rất ư là tinh vi vì bởi cái hệ quả có được luôn luôn bị tác động bởi trạng thái tâm của hành giả trong lúc đó. Vì lý do đó, thái độ của hành giả thật là quan yếu đối với thành quả của sự tu tập, như đã được nhắc qua ở phần trên. Chúng tôi đúc kết ở đây một cách cô đọng vài qui luật trong lúc tu tập.
Đừng kỳ vọng bất cứ một thứ gì. Chỉ ngồi và quan sát những gì đang xảy ra. Ví toàn thể như là một cuộc thí nghiệm để xem nó ra sao, và không để cho mình bị phân tâm bởi lòng mong muốn một kết quả nào đó. Theo chiều hướng đó, đừng lo âu về bất kỳ cái gì xảy ra. Hãy để thiền phát triển theo chiều hướng và vận hành của nó; cho nó dạy những gì bạn muốn học. Tu tập tỉnh giác là tìm kiếm để nhìn ra sự thật như-nó-là. Dù cho có phù hợp với kỳ vọng của chúng ta hay không, tu thiền đòi hỏi sự đình chỉ tạm thời mọi định kiến và khái niệm đã có của chúng ta. Cho nên chúng ta phải tạm dẹp qua một bên tất cả những kiến giải, quan niệm, qui ước trong suốt thời gian này, bằng không chúng ta sẽ phải sẩy chân ngã xuống bởi những thứ này.
Đừng quá căng thẳng: đừng nên cưỡng ép quá mức hay tạo nên những cố gắng ngoài sức mình. Tu thiền là không thể nào hiếu động, không có sự phấn đấu vượt sức người. Chỉ để cho sự cố gắng của bạn ung dung và đều đặn.
Đừng vội vã: Không nên hấp tấp, phải từ từ. Ngồi xuống và xem như là bạn có trọn một ngày để ngồi. Bất cứ những gì quí báu đều cần có thời gian phát triển. Kiên nhẫn. Nhẫn nại.
Đừng dính mắc và phản kháng bất cứ gì: Hãy để những gì đến và điều chỉnh mình cho thích hợp với nó, bất cứ là gì. Nếu một hình ảnh tốt đẹp hay xấu nào xuất hiện thì cũng mặc kệ; nhìn vào chúng giống như nhau và làm cho mình thư thản với bất kỳ điều gì xảy ra. Đừng đấu đá với kinh nghiệm của chính mình mà chỉ quan sát nó trong Chánh niệm.
Buông xả: Học cách hòa đồng mình vào dòng thay đổi của những hiện tượng phát sinh. Nới lỏng và thư thái.
Chấp nhận mọi sự kiện khởi sinh: Đón nhận cảm xúc của bạn ngay cả những xúc cảm mà bạn không mong có được, kinh nghiệm những gì dù cho bạn không thích nó. Đừng chỉ trích bản thân vì những khuyết điểm và giới hạn của mình. Hãy học nhìn tất cả hiện tượng trong tâm một cách tự nhiên và cảm thông. Cố gắng thực tập đón nhận một cách vô tư trong mọi thời và nghiêm chỉnh đối với mọi kinh nghiệm mà bạn đang có.
Hãy dịu dàng với chính mình: Hãy hòa nhã với bản thân. Có thể chưa là người hoàn hảo nhưng đây là con người mà bạn chỉ có thể có để bắt đầu. Quá trình để trở thành luôn luôn bắt đầu từ sự chấp nhận trọn vẹn con người bạn đang-là.
Tự kiểm soát mình: Luôn đặt câu hỏi. Đừng bao giờ cả tin một điều gì, nhất là những gì nghe qua chừng như có vẻ là thông thái hay phải vâng theo vì đó là lời ban truyền qua những người linh hướng. Hãy tự thấy. Điều đó không có nghĩa là bạn nên tỏ ra thờ ơ, xấc xược hay không tôn kính họ, mà là nên kiểm chứng qua thực nghiệm. Hãy đưa những lý lẽ kia qua sự kiểm nghiệm và để cho kết quả dẫn dắt bạn tới sự thật. Trí tuệ tự chứng phát triển dần từ lòng mong ước từ bên trong ra để tiếp xúc với sự thật và đạt đến trí tuệ giải thoát về vạn hữu đời sống. Toàn thể sự tu tập tùy thuộc vào lòng mong muốn hiểu biết sự thật này. Nếu không có nó, sự tu tập chỉ có tính cách làm dáng mà thôi.
Nhìn mọi vấn đề như là những đề mục: Hãy nhìn thật gần những cơn thối chí trổi dậy như là những cơ hội học hỏi và huấn luyện kỷ năng tập trung cho mình. Đừng bao giờ trốn tránh, chê trách bản thân hay che dấu trong êm lặng. Bạn gặp trở ngại? Rồi thì sao! Thì cũng giống như có lúa bỏ vào trong máy xay, hãy vui vẻ lao vào mà khám xét, quan sát để học hỏi thêm.
Đừng phân vân: Bạn không cần phải giải quyết bất kỳ một việc gì cả. Những sự suy nghĩ rời rạc sẽ không giúp được gì cho bạn cả trong vấn đề thoát ly khỏi ngục tù tư duy nhị nguyên. Trong thiền định, tâm phải được tôi luyện một cách tự nhiên qua chánh niệm, qua sự chú tâm đơn thuần không văn tự. Thói quen chậm rãi thì không hẵn là cần thiết trong việc loại bỏ những tập quán hay lơ đãng, trôi dạt của tâm này. Điều cần thiết hơn tất cả là sự nhận thức trong sáng không gầy dựng trên khái niệm về bản chất của sự kiện và đường lối vận hành của nó. Chỉ bấy chừng ấy cũng đủ để phân hóa chúng. Khái niệm và phân tích chỉ tạo thêm trở ngại mà thôi. Đừng suy nghĩ mà hãy nhìn.
Đừng chú trọng về sự khác biệt: Sự khác biệt giữa người và người thì luôn luôn tồn tại, nhưng quan tâm nhiều về nó thì rất ư là nguy hiểm, nếu không khéo, nó sẽ đưa ta đi dần đến tính ích kỷ. Thông thường sự nghĩ suy của con người thì đầy dẫy nét tham lam, ganh tị và tự phụ. Khi nhìn người khác trên đường, một người có thể lập tức nghĩ như thế này, “Anh ta thì đẹp trai hơn tôi.” Tư tưởng ấy tạo ra cái quả gần là lòng đố kỵ và sự ngượng ngập. Một người nữ có thể nghĩ khi nhìn thấy một người nữ khác, “Mình đẹp hơn cô ta.” sẽ làm cho mình phát sinh lòng tự phụ. Những loại so sánh như thế này là một thói quen tâm lý, sẽ đưa con người đến những trạng thái tâm ô nhiễm như là: tham lam, ganh tị, tự phụ, đố kỵ, ganh ghét. Đó là trạng thái vụng về của tâm mà chúng ta luôn luôn có trong mọi thời. Chúng ta hay so sánh sắc diện, nghề nghiệp, thành quả, danh tiếng, tài sản hay trí tuệ tri thức, những thứ này đều dẫn đến một kết quả — sự cô lập, những cách ngăn giữa con người, và cảm giác không lành mạnh.
Việc làm của thiền sinh là xóa đi những thói quen vụng về này, bằng cách xét nghiệm nó một cách thấu suốt; để rồi thay vào những tư tưởng hoàn thiện hơn. Thay vì chỉ bận rộn so sánh về sự khác biệt, thiền sinh huấn luyện cho mình nhận diện ra sự đồng dạng giữa mình và người khác. Khi tập trung nhìn vào những điểm tương đồng của mọi người, sẽ giúp cho hành giả gần gủi hơn với họ. Theo lối này, nếu có sự khác biệt hiện hữu, thì thay vì cảm giác lãnh đạm khởi sinh, thiền sinh sẽ phát sinh sự đồng cảm.
Thở là một quá trình rất tự nhiên. Tất cả mọi loài có xương sống đều thở theo cùng một chiều hướng như nhau. Loài động vật hoán đổi hơi thở với môi trường chung quanh theo cách này hay cách khác. Cho nên, đây cũng là một trong nhiều lý do, hơi thở được chọn làm đề mục đối tượng cho tu thiền. Thiền sinh được khuyến khích, nên khám phá quá trình hơi thở của mình như là một phương tiện để nhận diện ra mối tương quan vốn có giữa bản thân và vũ trụ chung quanh mình. Điều này không có nghĩa là chúng ta nhắm mắt xoay lưng với tất cả những gì khác biệt đang vây quanh ta. Sự khác biệt dĩ nhiên tồn tại, cho nên ở đây nó có nghĩa là, chúng ta coi nhẹ sự khác biệt và chú trọng hơn về điểm tương đồng. Phương pháp được đề nghị như thế này:
Khi nhận thức được đối tượng giác quan nào, thiền sinh không nên tiếp nhận nó theo lề lối một tự ngã thường hay làm, mà nên quan sát cái tiến trình khái niệm của nó. Thiền sinh nên nhìn cảm giác đang trổi dậy và những tâm sở nối đuôi theo cảm giác này khởi sinh lên. Để rồi thiền sinh có thể ghi nhận những thay đổi xảy ra trong ý thức của mình. Trong khi quan sát những hiện tượng này, thiền giả phải lưu ý những nét tượng trưng về những gì mình đang thấy. Cái khái niệm ban đầu đó sẽ làm phát sinh nét dễ chịu, khó chịu, hay trung tính, đây là tính chất chung của mọi hiện tượng. Nó xảy ra như nhau cho tất cả mọi người và thiền sinh nên thấy ra điều đó. Tiếp theo sau cảm giác đó, những phản ứng tùy thuộc sẽ phát sinh, thiền sinh có thể có cảm giác tham lam, khát khao, hay ganh tị; hoặc là cảm thấy sợ hãi, lo lắng, bồn chồn, hay nhạt tẻ; đây cũng là rất tự nhiên. Thiền sinh chỉ đơn giản ghi nhận chúng và nhận thức ra, đây là những phản kháng này luôn xảy ra cho mọi con người.
Tu tập theo đường lối so sánh này có thể tạo ra những áp lực và căng thẳng lúc ban đầu vì không quen. Theo thời gian, tiến trình này sẽ thay thế cho thói quen tự kỷ đang có của mình và trở thành tự nhiên hơn. Chúng ta sẽ thấu hiểu và cảm thông với mọi người hơn; không còn dễ nổi giận hay ngoảnh mặt đối với người khác. Chúng ta càng trở nên hòa nhập với đời sống hơn.
Khi chúng tôi đề cập đến mệnh đề này, trong lãnh vực trí tuệ tự chứng do kết quả thu được từ tu tập thiền, thì không có nghĩa là, thấy một cách hời hợt bên ngoài với đôi mắt bình thường, mà là thấy sự vật với tuệ giác ở nơi bản chất của nó. Nhìn sự vật bằng tuệ giác có nghĩa là, nhìn với trực giác mà không có xen lẫn những phán xét nảy sinh ra từ thành kiến, thiên vị của Tham, Sân, và Si. Thông thường, khi ngắm nhìn sự vận hành của thân-tâm, chúng ta có chiều hướng trốn tránh hay lơ là đối với những gì không dễ chịu và nắm bắt những thứ mà mình ưa thích hơn. Điều này xảy ra, vì bởi tâm của chúng ta thường hay bị ô nhiễm bởi sự ham muốn, sự phẫn uất và sự thiếu hiểu biết về sự thật. Cái ngã, tính ích kỷ, hay tư duy đầy ắp những khái niệm luôn nằm chắn ngang và tô màu sự phán xét của chúng ta.
Khi quan sát cảm xúc giác quan (Thọ) của mình trong chánh niệm, chúng ta đừng lầm lẫn những cảm thọ này với những chập tâm (Hành) cùng đang khởi sinh. Cảm thọ của thân có thể hình thành mà không cần có sự tác động nào của tâm cả. Cho một dẫn dụ: chúng ta đang ngồi thoải mái. Sau một lúc, bất chợt phát sinh cảm giác khó chịu ở lưng hay ở chân. Tâm của ta lập tức kinh nghiệm nổi khó chịu đó và tác động nên điều kiện làm khởi sinh lên biết bao tư tưởng về cảm giác khó chịu đó. Vào thời điểm đó, đừng để mình bị lẫn lộn cảm giác với hiện tượng tâm hành. Chúng ta nên cô lập cảm thọ như chỉ là cảm giác và quan sát nó trong chánh niệm. Thọ là một trong bảy Tâm sở hữu tợ tha biến hành (Xúc, Thọ, Tưởng, Tư hay Hành, Nhất hành hay Tập trung, Mạng quyền, và Tác ý).
Ở vào một khi khác, chúng ta có thể sẽ có những cảm giác như phẫn uất, lo sợ, hay thèm khát, thì ta nên quan sát những cảm giác đó một cách khách quan mà đừng để cho lẫn lộn với những gì khác. Nếu chúng ta gom lại Thọ, Tưởng, Hành, Thức vào nhau mà quan sát cùng một lúc, giống như là một cảm giác chung, thì sự xáo trộn sẽ làm cho ta không thể nào nhận ra nguồn gốc của cảm giác được. Nếu chỉ đơn thuần đeo đuổi theo cảm thọ mà bỏ qua những tâm sở biến hành khác, thì quá trình học hỏi về chân lý sẽ rất ư là khó khăn. Muốn có được trí tuệ về đặt tính Vô thường của các pháp để xuyên rọi sự phẫn uất; sự hiểu biết về tính Bất toại nguyện để phá vỡ tâm Tham; nhận diện tính Vô ngã để đã phá tự ngã; thì chúng ta nên thấy ra tâm và thân một cách riêng biệt trước. Khi hiểu thấu suốt thân-tâm từng phần riêng rẽ, chúng ta sẽ thấy ra sự liên hệ thiết yếu bên trong của chúng. Khi trí tuệ tự chứng được vững vàng, chúng ta trở nên bén nhạy hơn trong sự chú tâm về tính phối hợp của mọi sự kiện đang lúc nó vận hành. Cái này không thể hiện hữu nếu không có những cái kia. Từ đó chúng ta thấy ra cái ý nghĩa thật của câu chuyện ngụ ngôn về một người mạnh khỏe mà bị mù có thể đi bình thường khi cỏng trên lưng một người tàn phế hai chân nhưng mắt vẫn còn sáng. Thiếu đi một trong hai người thì sự di chuyển của họ sẽ bị trở ngại ngay; còn khi hợp tác chặt chẽ thì họ hoạt động và làm việc họ muốn dễ dàng hơn. Cũng tương tự như thế, tự cơ thể không thể làm được điều gì cả. Nó giống như là một khúc gỗ không làm được một điều gì ngoại trừ nằm lăn ra để chờ bị biến dạng, hư nát, và chết đi theo thời gian. Còn tâm cũng không thể nào làm được điều gì khác cả ngoài trừ một việc duy nhất là hợp tác với thân thể. Khi có chánh niệm chúng ta quan sát cả hai — thân và tâm — thì sẽ thấy ra những điều kỳ diệu mà thân-tâm có thể làm khi hòa điệu với nhau.
Chỉ khi nào ngồi một nơi, thì chúng ta có thể đạt được một chừng mực chánh niệm nào đó — dù là rất nhỏ. Dự khóa tu học để có cơ hội quan sát cảm giác, tri giác, trăm ngàn tư tưởng, và những trạng thái khác nhau của Ý thức một cách chặt chẽ hơn trong vài ngày hay vài tháng, có thể mang lại cho ta sự điềm tĩnh và bình an. Thông thường, chúng ta không có nhiều thời gian để tọa thiền ở một nơi chốn nào đó. Cho nên, chúng ta nên tìm một phương pháp áp dụng chánh niệm vào sinh hoạt hàng ngày, để giúp cho mình có thể đối diện và hành xử tốt hơn với những sự việc sẽ xảy ra mà không thể nào nhìn thấy trước được. Những gì ta phải va chạm mỗi ngày thì không ai có thể nào đoán trước được. Sự việc xảy ra do nhiều nguyên nhân và điều kiện, bởi vì chúng ta đang sống trong thế giới của điều kiện và luôn thay đổi. Chánh niệm là một trang bị khẩn cấp luôn luôn sẵn sàng giúp cho ta trong mọi thời. Khi gặp những cảnh ngộ làm cho ta phẫn nộ, nếu có được chánh niệm hiện hữu, ta sẽ khám phá ra nhiều chân lý đang diễn ra trong tâm mình. Chúng ta sẽ thấy ra tính ích kỷ, tự ngã, chấp chặt, bảo thủ, tự cho mình là đúng và người khác thì sai, có thành kiến, thiên vị. Nói tóm lại, từ tất cả những thứ trên chỉ ra là, ta không thật sự biết yêu thương lấy chính mình. Khám phá ra sự thật đau lòng này, là bạn kinh nghiệm được một phần thưởng quí giá nhất, để rồi theo thời gian, sự khám phá này mang đến cho bạn trí tuệ hiểu biết thấu suốt về nguồn gốc của khổ đau tâm sinh lý.
Tu tập chánh niệm là rèn luyện cho thiền sinh phải hoàn toàn thành thật và trung thực với chính mình. Khi quán sát thân-tâm, chúng ta nhận biết ra nhiều điều không dễ chịu chút nào cả. Thông thường, chúng ta hay phản kháng, tránh xa những gì mà mình không thích. Vậy con người thường hay không thích những gì? Loài người luôn không muốn rời xa những gì họ yêu thích và không muốn sống chung với những người họ không thương yêu. Đó không chỉ ám thị vào con người, nơi chốn, vật chất, mà còn bao gồm luôn những thứ khác như là: quan niệm, ý tưởng, niềm tin, và những quyết định mà mình phải đối mặt trong đời. Những gì xảy đến một cách tự nhiên thì thường là những điều chúng ta không thích (vì ngoài ý muốn của con người). Ví như, bị già cỗi theo tuổi, bị bệnh hoạn, trở nên yếu đuối hơn khi lớn tuổi, là những gì ta không thích; ngược lại chúng ta có ước muốn bảo tồn cái tuổi thanh xuân của mình mãi mãi. Hay là, không muốn ai chỉ ra những lầm lỗi của mình, vì nó sẽ làm tổn thương niềm tự hào bản thân. Hoặc là, tự lừa dối lấy mình bằng cách không chấp nhận bất cứ ai khác thông minh hơn mình. Đây là vài dạng của cá tính Tham, Sân, và Si.
Khi Tham, Sân, và Si biểu lộ trong đời sống hàng ngày, chúng ta nên dùng chánh niệm theo dõi và tìm hiểu thấu suốt tường tận cái cội nguồn của chúng. Căn nguyên của chúng không ở đâu xa cả, mà là ngay bên trong tâm ta. Nếu không có nguồn gốc Sân hiện hữu bên trong, thì không bất kỳ ai có thể làm cho ta giận dữ lên được; bởi vì có, nên nó mới nhảy ra, phản kháng lại những hành động, lời nói, hay thái độ của kẻ khác. Nếu có chánh niệm, chúng ta sẽ siêng năng dùng trí tuệ của mình để nhìn vào tâm; nếu không có sự căm hờn từ bên trong, ta sẽ không xem nặng vấn đề về những phê phán của người khác về mình. Thay vào đó, chúng ta còn cảm ơn người đã giúp ta nhận ra những khuyết điểm của chính mình. Chỉ khi nào có được trí tuệ và chánh niệm vững mạnh, ta mới cảm ơn được người đã lý giải ra lầm lỗi của mình, từ đó ta mới có thể thăng tiến trên con đường tu tập. Tất cả chúng ta đều có khuyết điểm. Đối với người có trí tuệ thì người khác là tấm gương phản chiếu những khuyết điểm của mình. Do đó, hãy nên xem người nói lời chỉ trích như là ân nhân của mình, vì họ đã chỉ ra những nét cao thượng đang tiềm ẩn mà ta đã bỏ quên. Chỉ khi nào ta nhận ra mình còn thiếu xót, thì ta mới có thể thăng tiến lên hơn. Trở nên tốt hơn là phương pháp bất biến để đi đến sự hoàn thiện mà cũng là mục đích của chúng ta trong kiếp sống kia mà, phải không? Chỉ khi nào vượt qua những yếu điểm, chúng ta mới có thể vun đắp những chất lượng cao quý luôn ẩn tàng trong tiềm thức của tâm. Muốn khắc phục những sai sót, thì trước tiên ta phải biết chúng là gì.
Nếu khi mắc bệnh, chúng ta phải biết nguồn gốc và nguyên nhân của căn bệnh rồi mới có thể trị liệu đúng mức. Cho nên, nếu cứ khăng khăng cho là mình không bị bệnh trong khi ta luôn luôn đau khổ, thì chúng ta sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tìm cách chạy chữa. Tương tự như thế, nếu nghĩ là mình không có sai lầm, thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ hiểu thấu được tâm mình. Vì mù quáng về những khuyết điểm tự thân, cho nên cần phải có ai đó chỉ ra cho ta. Và nếu họ giúp đỡ cho ta, thì chúng cần nên cảm ơn họ giống như ngài Xá-lợi-phất đã nói: “Dù cho một vị thầy còn trẻ đã chỉ ra khuyết điểm của tôi, tôi sẽ chấp nhận và cảm ơn người ấy tột cùng.” Ngài Xá-lợi-phất đã là một vị A-la-hán, luôn luôn có chánh niệm và đã siêu thoát tự ngã, thế mà còn có phong thái như thế. Mặc dù chưa chứng đắc quả vị A-la-hán, chúng ta cũng nên noi theo gương của ngài, hầu mong đạt đến những gì mà ngài đã đạt tới.
Dĩ nhiên người chỉ ra được khuyết điểm của kẻ khác, chưa hẵn là người ấy siêu thoát được vấn đề này. Nhưng người ấy có thể thấy ra cũng như chúng ta cũng thấy ra khuyết điểm của người đó, mà họ không nhận ra cho đến khi nào ta chỉ ra cho họ.
Sự phản ảnh hai chiều này nên diễn ra trong chánh niệm. Nếu nêu ra khuyết điểm của người khác khi mình không có chánh niệm, người này dễ dàng tạo ra những điều phản tác dụng, rồi không gây nên lợi ích gì cho cả đôi bên. Bởi vì người không có chánh niệm thường hay dùng ngôn từ và cử chỉ lầm lạc, nên không diễn đạt được ý nghĩ của mình một cách chính đáng và rõ ràng. Người nghe sẽ dễ bị đánh mất chánh niệm theo, khi đón nhận những ngôn từ chói tai, và không còn nhận biết cái ý thật của người nói nữa. Cho nên, dù nghe hay nói phải tiến hành trong chánh niệm thì mới có ích lợi, có thế thì tâm ta mới không bị kiềm chế bởi tham lam, sân hận, ích kỷ, và si mê.
Mục tiêu
Người tu thiền phải có một mục tiêu, bằng không chúng ta chỉ mò mẫm như là đi trong bóng đêm theo sự chỉ dẫn của người nào đó. Mục tiêu nào đó thì phải được chúng ta chọn một cách có ý thức và sẵn sàng. Mục tiêu của người tu thiền Minh Sát không phải là để giác ngộ trước hơn một người nào khác, hay là sẽ có được thần thông, hoặc là có quyền lợi gì đó. Tu tập chánh niệm vốn không phải là để ganh đua với ai cả.
Mục đích của thiền giả là trở nên hoàn hảo hơn, có được đời sống tâm linh lành mạnh hơn. Mục tiêu này bao gồm năm yếu tố: 1) Tâm được trong sáng. 2) Siêu thoát cơn đau buồn và thương tiếc. 3) Siêu thoát nỗi đau và phiền não. 4) Bước đúng theo con đường dẫn đến sự bình an tuyệt đối. 5) Có được hạnh phúc trong lúc tu tập và sống theo con đường này. Hãy giữ lấy năm phần này trong tâm thì chúng ta có thể vững bước tiến dần đến mục đích của mình với niềm hy vọng và tự tin.
Phương pháp Tu tập
Một khi đã ngồi, thì đừng thay đổi tư thế cho đến khi hết khoảng thời gian đã được ấn định trước. Giả sử, bạn thay đổi tư thế này bởi vì nó đang có cơn khó chịu, qua một tư thế khác. Nhưng rồi sau một lúc, tư thế kia rồi cũng phát sinh cơn khó chịu giống như lúc trước. Thế là bạn lại tiếp tục thay đổi, rồi thay đổi.. thì bạn sẽ không bao giờ có được tầng mức tập trung sâu hơn trong chánh niệm. Do đó, đừng bao giờ thay đổi tư thế ban đầu dù cho cơn đau có khốc liệt đến đâu.
Để tránh thay đổi tư thế ngồi trong giờ tọa thiền, hãy lập quyết định “không thay đổi” từ lúc bắt đầu và ấn định thời gian cho buổi ngồi. Nếu bạn là người mới tập ngồi thì chỉ nên ngồi bất động không hơn hai mươi phút. Rồi theo thời gian, bạn có thể tăng dần lâu hơn. Khoảng thời gian ngồi còn tùy thuộc vào hai yếu tố: bao nhiêu thời gian bạn có được để cho buổi tọa thiền hôm nay, và bạn ngồi được bao lâu trong trầm mặc trước khi cơn đau hành hạ bạn.
Bạn không nên ấn định thời gian phấn đấu (bao lâu ta sẽ phải giác ngộ?) để đạt đến mục đích của mình. Thành quả có được luôn tùy thuộc vào sự tiến triển trong khi tu tập và khả năng hiểu biết xuyên suốt, cũng như mức độ trưởng thành của tâm. Chúng ta phải tu tập chuyên cần trong chánh niệm, tiến dần đến mục tiêu mà không có lòng mong mõi hay vội vã. Bao giờ sẵn sàng thì chúng ta tự nhiên sẽ đến. Việc cần phải làm là trang bị cho mình đầy đủ khả năng để khi đón nhận mà không bị chao đảo hay choáng ngợp.
Sau khi ngồi ổn định, hãy nhắm mắt lại. Tâm cũng tương tự như một ly nước đục. Nếu giữ được ly nước yên lặng càng lâu thì những tinh thể bẩn sẽ lắng đọng xuống đáy ly nhiều hơn; những tinh thể bẩn thô thì lắng mau hơn những tinh thể vi tế. Cùng diễn tiến như thế, nếu bạn giữ thân yên tịnh, chú tâm trọn vẹn vào đề mục, thì tâm sẽ lắng đọng dần cho đến lúc bạn có thể kinh nghiệm được trạng thái tĩnh lặng của thiền định.
Để chuẩn bị cho trạng thái này, chúng ta nên giữ cho tâm của mình luôn sống với phút giây hiện tại. Phút giây hiện tại thì luôn luôn thay đổi thật nhanh, làm cho người quan sát sơ cơ không thể nào nhận thấy sự hiện hữu của nó được. Mỗi phút giây là đời sống của mỗi sự kiện; nó luôn có điểm khởi đầu, thời gian biến đổi, tồn tại, và hoại diệt — Sinh, Trụ, Hoại, Diệt. Cho nên, chúng ta cố gắng tỉnh giác đối với phút giây hiện tại. Tâm ta quan sát dòng sự kiện như xem một đoạn phim trên màn ảnh, chiếu rọi những viễn ảnh của quá khứ qua từ kinh nghiệm và một số hình ảnh trong tương lai do sự tưởng tượng về những gì ta dự tính sẽ làm sau này.
Tâm không thể nào tập trung nếu không có đối tượng tâm. Do đó, chúng ta phải chọn một đề mục để nó có thể bám lấy trong mọi thời. Hơi thở thì luôn luôn ở hiện tại và cũng là một đề mục tốt. Tâm có thể nhận ra hơi thở ở trong bất kỳ sát na thời gian nào trong lúc trôi chảy vào và ra nơi mũi. Tu tập tuệ giác thì phải liên tục trong mọi lúc và mọi nơi, cho nên hơi thở là một đối tượng tốt nhất vì nó luôn luôn dính liền với bạn.
Sau khi đã ngồi như sự chỉ dẫn trên, hãy trang trải lòng Từ của bạn cho mọi người và hít thở ba hơi thật dài. Sau khi thở ba hơi dài rồi, thì thở lại một cách bình thường, cứ để hơi thở ra vào một cách thật tự nhiên mà không có bất cứ gì kiềm hãm hay điều khiển nó, và đặt chú tâm vào ở viền mũi nơi hơi thở va chạm. Chỉ đơn thuần cảm nhận hơi thở ra vào mà thôi. Ban đầu bạn chưa có đủ chú tâm thì sẽ không thấy có gì. Nhưng khi chánh niệm tăng dần, bạn sẽ nhận ra, từ trạng thái hít vào chuyển sang thở ra, có một khoãng thời gian ngắn của sự dừng lại. Khi nhận ra được sự kiện ấy và chánh niệm sâu xa hơn thì bạn cũng bắt được điểm chấm dứt, ngừng nghĩ, và khởi sinh của từng chu kỳ hơi thở.
Đừng bao giờ diễn đạt thành lời hay khái niệm hóa bất cứ điều gì trong lúc tọa thiền. Chỉ đơn giản nhận biết hơi thở ra vào mà không cần phải thầm nói “hít”, hay “thở”. Khi bạn chú tâm vào hơi thở thì hãy gác lại những tư tưởng, kỷ niệm, âm thanh, mùi vị… mà chỉ chú tâm dành riêng cho hơi thở mà thôi, không cho bất cứ gì khác cả.
Vào lúc ban đầu, hơi thở thì ngắn và gấp, vì bởi thân và tâm chưa được thư giãn và trầm ổn. Chỉ cảm nhận cái trạng thái này mà không cần phải thầm nói “hít ngắn” hay “thở ngắn”. Nếu tiếp tục nhận thức hơi thở, thì thân và tâm dần dần ổn định lại. Sau một lúc thì hơi thở sẽ trở nên dài ra. Hãy nhận biết hơi trở một cách trọn vẹn từ đầu cho đến cuối từng chu kỳ. Cho đến khi hơi thở vi tế dần và thân-tâm cũng tĩnh lặng hơn nữa. Nhận biết sự tĩnh lặng và trạng thái an bình này.
Những phương pháp đối trị tâm xao lãng
Bất chấp sự trù tính giữ cho tâm dán chặt vào hơi thở mạnh mẽ ra sao, thì vẫn có lúc tâm bị trôi dạt. Những dĩ vãng, nơi chốn, con người, bạn cũ lâu ngày không gặp, quyển sách đã đọc qua, hương vị một món ăn, vv.. là những gì tâm hay lai vãng đến. Khi bất chợt biết ra tâm không còn ở với hơi thở nữa, một cách chánh niệm hãy mang nó về và cột nó vào lại. Tuy nhiên, vài phút giây sau, bạn lại nghĩ đến làm sao trả những phiếu chi tiêu, cú điện thoại quên gọi, một điện thư chưa trả lời, quần áo đang chờ giặt, thức ăn cần phải mua, dạ tiệc sẽ phải dự sắp đến, kế trình cho lần nghĩ hè tới… khi nhận ra tâm lại lang thang, mang nó trở về với hơi thở trong chánh niệm. Những lời khuyên sau đây có thể giúp bạn tái lập lại được mức tập trung cần thiết trong sự tu tập chánh niệm.
1. Đếm
Trong hoàn cảnh như thế, đếm số có thể làm cho tâm bớt trôi dạt. Mục đích của đếm số là làm đơn giản hóa vấn đề cho việc tập trung tâm vào hơi thở. Cho đến khi nào tâm đã an định vào hơi thở thì không còn cần phải đếm số tiếp nữa.
Trong khi hít vào thì đếm “một, một, một…” cho đến khi phổi đầy. Trong khi thở ra đếm “hai, hai, hai..” cho đến lúc phổi xẹp. Rồi tiếp đến đếm “ba, ba, ba..” khi hít vào, và “bốn, bốn, bốn…” khi thở ra. Đếm cho đến “mười” và lập lại nếu cần cho đến khi nào tâm hoàn toàn an định vào hơi thở.
Cách đếm thứ hai là đếm nhanh tới “mười.” Hít vào trong lúc đếm “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, và mười.” Rồi lại đếm giống như thế trong khi thở ra. Và cứ lập lại như thế nhiều lần cho đến khi nào tâm an ổn với hơi thở.
Lối thứ ba là đếm tiếp nối tới mười. Trong khi hít vào thì đếm “một, hai, ba, bốn, năm” (chỉ tới năm) và thở ra trong lúc đếm “một, hai, ba, bốn, năm, sáu” (tới sáu). Rồi đếm tới “bảy” khi hít vào, và đếm tới “tám” khi thở ra. Và cứ thế cho đến “mười” rồi bắt đầu lại.
Phương pháp thứ tư là hít thở dài. Khi hít vào đếm “một” và thở hết ra thì đếm “hai”. Và cứ thế cho đến “mười” rồi đếm ngược trở lại cho tới “một”. Lập lại cho đến khi nào tâm ở vững bền với hơi thở.
Cách thứ năm là đếm gập chung. Khi xong một chu kỳ hít vào và thở ra thì đếm “một”. Rồi một chu kỳ tiếp thì đếm “hai”. Đếm cho đến “năm” rồi ngược lại cho đến “một”. Lập lại cho đến khi hơi thở thật điều hòa và êm dịu.
Nên nhớ rằng bạn không cần phải đếm trong mọi thời. Cho đến bao giờ tâm của bạn dán chặt vào viền mũi nơi mà hơi thở va chạm khi ra-vào, và cảm thấy hơi thở điều hòa và mỏng manh đến nỗi bạn không thể phân biệt hít vào hay là thở ra thì bạn nên dừng đếm. Đếm chỉ dùng vào mục đích huấn luyện tâm tập trung ở lại một điểm mà thôi.
2. Liên tục
Sau giai đoạn hít vào, đừng bao giờ gắng công nín thở để nhận diện ra điểm chuyển tiếp trước khi thở ra, mà hãy để cho hít và thở đi liên tục. Bạn có thể cảm nhận hít và thở như là một dòng liên tục.
3. Bám chặt
Sau khi liên tục hít và thở, đặt chắc tâm vào điểm nơi hơi thở va chạm trong lúc ra vào. Hít và thở như một dòng hơi đi ra vào, va chạm hay cọ xát nơi viền của cánh mũi.
4. Chú tâm giống như người thợ mộc
Vẽ một đường thẳng trên tấm ván mình muốn cắt, người thợ mộc cưa theo lằn đã vẽ. Anh không nhìn vào những răng của lưỡi cưa khi cưa, mà người thợ chỉ chú tâm vào lằn vẽ để cắt. Giống như thế, hãy giữ tâm nơi cái điểm mà bạn cảm thấy hơi thở va chạm.
5. Xem tâm như người gác cửa
Một người canh gác cửa thì không bao giờ để ý đến những chi tiết về kẻ đi vào nhà, mà anh chỉ nhận ra có những ai đi vào và ra khỏi nhà mà thôi. Cũng tương tự như thế, trong khi tập trung, bạn không nên đặt nặng về những chi tiết của kinh nghiệm, mà chỉ đơn thuần nhận biết cái cảm xúc hơi thở va chạm ở viền mũi khi nó ra vào.
Sự tu tập đều đặn và đúng đắn dần dần sẽ làm cho thân và tâm trở nên nhẹ nhàng đến nỗi bạn có thể có cảm giác như là mình đang bay bổng trong không khí hay bềnh bồng trên mặt nước. Bạn cũng có thể có cảm tưởng như thân của mình đang bật tung lên cao. Khi hơi thở càng lúc càng trở nên vi tế hơn, và hơi thở vi tế này chính là đối tượng tâm mà bạn cần phải tập trung vào. Đây là dấu hiệu của tâm tập trung. Sự xuất hiện dấu hiệu này sẽ càng trở nên vi tế hơn giống như tiếng của cái chuông, lúc ban đầu thì thật lớn và rõ ràng, rồi dần dần nhỏ đi và tan biến vào trong hư không vô tận. Hơi thở thì cũng tương tự như vậy, lúc đầu thì rất thô, nếu chú tâm đủ lâu thì nó sẽ êm dịu dần và càng vi tế hơn, nhưng ý thức thì vẫn luôn luôn chú tâm nơi viền mũi. Những đối tượng tâm khác cũng sẽ trở nên rõ ràng hơn khi khả năng tập trung này phát triển mạnh hơn, trong khi hơi thở thì càng lúc càng trở nên tan biến dần. Chính vì sự vi tế này, mà đôi khi bạn có cảm giác là hơi thở có lúc có, có lúc không. Đừng có lo âu hay hoảng sợ, chỉ chánh niệm và mang tâm về nơi viền mũi dù có cảm giác được sự xúc chạm của hơi thở hay không. Lúc này là lúc sự tu tập của bạn đang ở trạng thái nghiêm túc, năng lực được bền vững, có Chánh tín, có Chánh niệm, có Chánh định, và có Chánh kiến.
Dụ ngôn về người nông phu
Giả sử có một người nông dân dùng những con trâu để cày đất cho cánh đồng lúa. Vào lúc ban trưa, anh nghĩ ngơi dưới bóng cây trong khi các con trâu thì cũng quanh quẩn nhai cỏ gần đấy. Khi anh thức giấc thì không còn thấy trâu của mình ở đâu nữa cả. Anh thật lo lắng, chạy đến bờ sông gần đấy thì thấy những con vật ấy đang uống nước dưới khí hậu oi bức lúc ban trưa. Không có vấn đề gì cả, anh kéo nài dẫn chúng về, rồi tiếp tục cày đất tiếp.
Một cách tương tự trong lúc tu tập, hơi thở trở nên vi tế và nhuần nhuyễn đến nỗi bạn không còn cảm giác ra nó hiện hữu nữa hay không. Khi hiện tượng này xảy ra thì bạn cũng không nên lo lắng. Thật ra thì nó lúc nào cũng ở đó, ngay nơi chóp mũi; chỉ cần thở mạnh vài cái là bạn sẽ nhận ra nó ngay. Hãy tiếp tục chú tâm vào nơi va chạm của hơi thở.
Trong khi giữ tâm nơi viền mũi, bạn có thể nhận ra sự hình thành của đối tượng thiền định (mà theo thiền ngữ còn gọi là Cận tướng.) Những “Cận tướng” do tu thiền mang lại, còn tùy thuộc vào mỗi thiền giả và có những tác động, sự cảm nhận khác nhau. Có người thấy một vì sao, một then cửa, một sợi dây dài, những đốm hoa, những đợt khói, hay những màng nhện, hay là những đám mây, bông hoa nở, hay mặt trăng, mặt trời v.v…
Ở vào giai đoạn ban đầu của sự tu tập, bạn xem hơi thở ra vào là đề mục tu thiền. Cho đến lúc này thì bạn thấy ra Cận tướng như là một đề mục thứ ba (hít vào là một; thở ra là hai). Khi nào chú tâm vào đề mục thứ ba này, thì cũng là lúc tâm của bạn đang ở trạng thái tập trung thích hợp cho giai đoạn tu tập Tuệ giác. Đề mục này hiện bày rõ ràng ở ngay viền mũi của bạn. Hãy thuần thục và tập sự nắm bắt nó một cách vững vàng, để bất cứ khi nào bạn cần đến nó thì có bắt nó dễ dàng. Kết hợp tâm và Cận tướng đang hiện có trong lúc ấy và để cho tâm hòa nhập theo dòng vận hành của thời gian. Trong khi chỉ chú tâm vào nó, bạn sẽ thấy Cận tướng thì đang luôn luôn thay đổi không ngừng. Sự kết hợp của tâm vào phút giây hiện tại thì được gọi là “Sát-na Định”. Trong khi dòng thời gian liên tục trôi qua từ sát-na này sang sát-na kế tiếp thì tâm cũng hòa nhập theo như một thể mà cùng thay đổi, cùng xuất hiện và cùng tan biến, nhưng không có sự chấp thủ vào bất cứ hiện trạng nào cả. Nếu cố gắng dừng tâm lại ở một khoảng thời điểm nào, thì chúng ta sẽ phải thất vọng bởi vì tâm sinh diệt quá nhanh. Nó phải dính liền với những gì đang xảy ra trong từng sát-na mới. Chỉ có phút giây hiện tại thật sự hiện hữu, cho nên chúng ta chỉ có thể thật sự sống nếu hòa nhập vào phút giây hiện tiền.
Kết hợp tâm vào với phút giây hiện tại, chúng ta phải tìm thấy một điểm tựa đang xảy ra trong phút giây này. Nhưng bạn không thể nào chú tâm vào dòng thay đổi khi không có một mức tập trung cần thiết để bắt kịp nó. Chừng bao giờ có được khả năng tập trung đủ mạnh, bạn sẽ có thể tận dụng nó trong sự chú tâm vào bất kỳ những sự việc nào mà bạn muốn kinh nghiệm — sự phồng xẹp của bụng, sự căng giãn của ngực, sự sinh diệt của cảm giác, hay sự bắt đầu và đoạn cuối của hơi thở, tư tưởng, vv…
Để đạt được một chừng mực tiến bộ trong quá trình tự chứng, bạn rất cần loại “Sát-na Định” này. Đó là tất cả những gì bạn cần trong quá trình tu tập Tuệ giác, bởi vì mọi thứ chỉ có thể kinh nghiệm trong một sát-na. Khi tập trung để mang trạng thái Định này vào dòng thay đổi đang xảy ra trong thân-tâm, bạn sẽ nhận ra rằng hơi thở là phần sinh lý (sắc) và cảm giác về hơi thở qua Ý thức nhận biết là phần tâm lý (danh). Trong lúc nhận diện chúng, bạn cũng thấy ra chúng luôn thay đổi không ngừng. Có rất nhiều loại cảm xúc cùng xảy ra ngoài cảm giác về hơi thở nữa trong thân. Hãy quan sát tất cả ở từng phần trong thân. Đừng bao giờ thử tạo ra bất kỳ một cảm giác nào không tự nhiên lên thân. Khi có tư tưởng phát sinh thì hãy ghi nhận chúng. Bạn nên nhận ra những hiện tượng này đều có tính vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã, dù cho kinh nghiệm chúng ở lãnh vực nào — tâm hay sinh lý — thì cũng thế.
Trong khi Chánh niệm tăng trưởng thì sự khó tính của bạn cũng dần thay đổi, tính phản kháng lại những gì mình không thích, bám víu vào những gì mình ưa thích, và quan niệm về tự ngã, sẽ dần dần bị thay thế đi bởi sự hiểu biết thấu suốt về vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Kinh nghiệm được chân lý này, nó giúp bạn vun bồi thêm sự trầm tĩnh, an bình, và tư thế vững vàng đối với cuộc đời. Những gì trong quá khứ mà bạn cho là thường hằng, giờ đây bạn thấy ra chúng đã và đang thay đổi ở một tốc độ khó mà tin được, ngay cả tâm của mình cũng còn không thể bắt kịp. Vì một lý do nào đó, dần dần bạn nhận ra được nhiều sự đổi thay, sẽ thấy ra tính vô thường và vô ngã luôn tiềm ẩn của chúng. Khả năng thấu hiểu sự thật ẩn dấu bên trong này, sẽ chỉ ra cho bạn con đường đi đến bình an, hạnh phúc và cho bạn trí tuệ để đối diện với mọi vấn đề hàng ngày trong đời sống.
Khi tâm kết hợp với hơi thở và vận hành như một thể trong mọi sát-na, chúng ta sẽ có thể tập trung tâm vào giây phút hiện tại một cách tự nhiên. Chúng ta nhận thấy cảm giác phát sinh từ sự va chạm của hơi thở vào viền mũi. Nguyên tố đất của hơi khi đi ra-vào, xúc chạm vào nguyên tố đất của viền mũi, cho nên tâm cảm nhận ra luồng gió vào ra. Cảm giác ấm trổi dậy ở viền mũi hay ở bất cứ nơi nào trên thân do sự xúc chạm của nguyên tố lửa tạo nên do quá trình thở. Cảm giác vô thường của hơi thở sinh khởi khi yếu tố đất của hơi thở chạm vào viền mũi. Mặc dù yếu tố nước cũng có mặt trong hơi thở nhưng tâm không thể nào cảm giác ra.
Chúng ta cũng cảm nhận ra sự căng và co thắt của phổi, bụng, đan điền khi không khí mới được bơm vào và ép ra khỏi lồng phổi. Sự căng và co thắt của bụng, đan điền, và ngực là những phần chu kỳ chung của vũ trụ. Mọi hiện tượng trong vũ trụ có cùng chung chu kỳ của sự căng ra và co thắt cũng giống như hơi thở và thân của chúng ta. Tất cả đều có sinh và diệt. Dù thế nào đi nữa, mối quan tâm chính của chúng ta là hiện tượng sinh diệt của hơi thở cùng với thân-tâm của chúng ta ở vào thời điểm đó.
Trong tiến trình của sự hít vào, nếu có đủ định lực chúng ta có thể kinh nghiệm được ít nhiều sự bình thản. Sự bình thản không có nét căng thẳng này lập tức biến thành sự căng thẳng nếu chúng ta không thở ra trong vài sát-na kế. Rồi khi thở ra, sự căng thẳng kia bị tan biến đi. Sau khi thở ra, chúng ta sẽ kinh nghiệm sự khó chịu nếu đợi chờ hơi lâu trước khi hít vào hơi thở mới. Điều này có nghĩa là mỗi khi phổi đầy thì phải thở ra và phổi xẹp thì bắt buộc phải hít vào. Và trong lúc hít thở, chúng ta kinh nghiệm được một chút sự bình thản. Chúng ta luôn có chiều hướng ham muốn sự bình thản và trút đi áp lực; và lại càng không thích áp lực tạo ra từ sức ép thiếu hơi. Chúng ta mong muốn sự bình thản ở lâu hơn và sức ép biến mất mau hơn, nhưng điều đó không thể nào xảy ra được theo ý muốn của mình. Để rồi, chúng ta trở nên dao động, cáu bẳn do cái tính ham muốn phi lý của mình. Ở điểm này, chúng ta thấy ra tính tham lam vi tế về “cầu bất đắc” — muốn hiện tượng vô thường trở nên vĩnh thường — tạo ra khổ đau và bất toại nguyện. Vì không ai có thể khống chế được hiện trạng này, cho nên chúng ta càng trở nên thất vọng hơn.
Tuy thế, nếu quan sát hơi thở mà không có lòng ham muốn sự bình thản và cũng không bực bội về sức ép trổi dậy do quá trình thở, mà chỉ kinh nghiệm tính vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã của hơi thở, tâm của chúng ta dần dần trở nên bình an và tĩnh lặng.
Dĩ nhiên, tâm không bao giờ ở mãi với cảm xúc của hơi thở, nó còn đón nhận âm thanh, ý tưởng trong quá khứ, tình cảm, quan niệm, tri thức, và các tâm sở biến hành nữa. Khi chúng ta kinh nghiệm những trạng thái này, chúng ta nên quên đi cảm xúc hơi thở mà lập tức tập trung tâm ý vào trạng thái hiện đang có — từng trạng thái cho mỗi lần, không phải là tất cả trong một lần. Khi chúng tan biến đi, chúng ta mang tâm mình về lại hơi thở vốn là điểm căn bản mà ta luôn luôn trở về sau những cuộc hành trình xa nhà. Cũng cần nhắc lại, tất cả những cuộc hành trình vượt không gian này luôn luôn được diễn ra không ngoài tâm.
Mỗi khi tâm trở về lại hơi thở, nó trở lại với sự hiểu biết một chút sâu xa hơn về ba đặc tính của sự thật — vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Tâm trở nên thấu suốt hơn ra, từ quan điểm khách quan, không thiên vị, về những sự cố này. Nó sẽ có được sự hiểu biết bên trong về sự thật là, thân này, cảm giác, muôn ngàn ý tưởng và tâm hành, đều dùng để dạy cho ta sự thật rốt ráo về mối kết hợp đa dạng của tâm và thân này.
-o000o-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét