Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - Mục lục & Giới Thiệu - Mahasi

Lời tựa
Ðối với người hành thiền Phật Giáo, danh tiếng của Ngài Mahasi Sayadaw không cần phải được giới thiệu. Những lời dạy về phương pháp hành thiền của Ngài đã được lãnh nhận và hấp thụ cùng khắp thế giới. Hôm nay Hội Buddhadhamma Foundation xin được vinh dự giới thiệu quyển "Kinh Vô Ngã Tướng", như quyển sách đầu tiên trong loạt sách về giáo huấn của vị thiền sư nổi tiếng nầy.
Bản dịch sơ khởi (từ Miến sang Anh) của U Ko Lay, đã được Hội Buddha Sasana Nuggaha Foundation tại Rangoon, Myanmar, sửa chửa và ấn hành. Trong bản nầy vài đoạn lặp đi lặp lại đã được loại bỏ và có thêm những danh từ Pāli được chuyển dịch sang tiếng Anh. Tuy nhiên giáo huấn nguyên thủy vẫn được giữ với đầy đủ chi tiết và vẫn còn những đoạn lặp lại: bài giảng nầy cốt dành cho những thiền sinh đang dự một khóa thiền tích cực.
Chúng tôi hy vọng rằng những ấn bản nầy sẽ giúp đọc giả thích thú quan tâm đến pháp hành thiền và những lời dạy của Phật Giáo.

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - SẮC THÂN - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THỌ - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - TƯỞNG và HÀNH - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THỨC - Mahasi

 Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THẤY VÔ NGÃ - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - PHÂN TÁCH ÐẶC TÁNH VÔ THƯỜNG - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - MƯỜI MỘT PHƯƠNG THỨC PHÂN TÁCH NGŨ UẨN - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THUẦN HÓA TUỆ MINH SÁT - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - Thuật ngữ - Mahasi


Buddhadhamma Foundation
Bangkok - Thailand

 

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - SẮC THÂN - Mahasi

Phần nhập đề bài kinh
Lời dạy của Ðức Phật: bắt đầu bài kinh
Lầm tưởng thân là tự ngã
Tại sao thân nầy không phải là tự ngã
Jīva attā và parama attā
Căn nguyên của niềm tin có tạo hóa
Luyến ái bám vào tự ngã
Bốn loại luyến ái bám vào tự ngã
Thân quán niệm xứ

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THỌ - Mahasi

Một khác biệt giữa tạng Luận và tạng Kinh
Hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã
Thọ gây đau khổ như thế nào
Thế nào là không thể điều khiển thọ
Thọ quán niệm xứ
Ngài Sārīputta (Xá Lợi Phất) tìm con đường dẫn đến tuệ giác cao siêu nhất
Kinh Dīghanaka Sutta
Ðạo và Quả phát sanh do nhàm chán
Ðạo Quả A La Hán của Ngài Sārīputta

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - TƯỞNG và HÀNH - Mahasi

Hành không phải là tự ngã
Ý nghĩa của saṅkhāra (hành) theo bài kinh nầy
Hành uẩn cưỡng chế bằng cách nào
Câu chuyện một ngạ quỉ bị nhiều mũi nhọn đâm chích
Sự chứng nghiệm lý vô ngã đến với ta như thế nào

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THỨC - Mahasi

Thức cưỡng chế ta như thế nào
Nguyên nhân sanh khởi
Câu chuyện Tỳ Khưu Sāti
Tóm lược chánh pháp
Sắc pháp giống như khối bọt
Thọ giống như bong bóng nước
Tưởng giống như ảo cảnh
Hành, saṅkhāra, giống như cây không lỏi
Thức giống như trò ảo thuật
Tóm lược

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THẤY VÔ NGÃ - Mahasi

Khó thấu hiểu đặc tướng vô ngã
Thấy vô ngã qua đặc tướng vô thường
Thấy vô ngã xuyên qua đặc tướng đau khổ
Thấy vô ngã xuyên qua cả hai đặc tướng, vô thường và khổ
Cuộc thảo luận với Ðạo Sĩ Saccaka
Biện luận về một tự ngã độc lập
Ðặc tướng vô thường
Hai loại đau khổ
Phát triển tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng khổ
Chấp thủ với tham ái "đây là của tôi"
Chấp thủ với tâm ngã mạn "đây là tôi"
Chấp thủ với tà kiến "đây là tự ngã của tôi"

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - PHÂN TÁCH ÐẶC TÁNH VÔ THƯỜNG - Mahasi

Ðặc tướng vô thường
Thấy những thọ cảm đúng như nó thật sự là vậy
Bản chất vô thường của tưởng uẩn
Bản chất vô thường của hành uẩn
Bản chất vô thường của thức uẩn
Mười một phương cách phân tách sắc pháp
Quán chiếu về Netaṁ mama và Anicca
Các vị Tu Ðà Huờn được dạy về đặc tướng vô ngã
Mười một phương cách quán niệm
Quán chiếu các sắc pháp bên trong và bên ngoài
Quán chiếu các sắc pháp thô kịch và vi tế
Quán chiếu theo đặc tính thấp hèn hay cao thượng
Quán chiếu theo đặc tính xa và gần

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - MƯỜI MỘT PHƯƠNG THỨC PHÂN TÁCH NGŨ UẨN - Mahasi

Phân tách ngũ uẩn
Thọ kinh nghiệm trong ba thời
Những cảm thọ bên trong và bên ngoài
Thọ cảm thô kịch và vi tế
Thọ cảm thấp hèn và cao thượng
Thọ cảm xa và thọ cảm gần
Mười một cách phân tách tưởng uẩn
Mười một cách phân tách hành uẩn
Mười một cách phân tách thức uẩn
Tiến trình tái sanh
Ðịnh luật phát sanh tùy thuộc
Thức uẩn trong ba thời kỳ
Quán chiếu tâm theo kinh Tứ Niệm Xứ

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THUẦN HÓA TUỆ MINH SÁT - Mahasi

Làm thế nào phát triển Tuệ minh sát
Tuệ chán nản phát triển khi thấy khổ
Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô ngã
Ðịnh nghĩa Nibbinda ñāṇa
Thật sự mong muốn Niết Bàn
Ức đoán Niết Bàn
Sáu đặc điểm của tuệ xả hành
Phát triển tuệ đưa vượt lên
Từ nhàm chán tiến đến Thánh Ðạo và Thánh Quả
Sự mô tả trùng hợp với thực nghiệm của hành giả như thế nào
Suy tư của vị A La Hán
Tóm lược
Hết lòng thành kính đảnh lễ sáu vị A La Hán

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - Thuật ngữ - Mahasi

-ooOoo-
Lời nói đầu
Vị Ðộc Giác Phật nhập Niết Bàn đơn độc một mình. Ngài không phải là bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác và không thể truyền dạy Giáo Pháp cho người khác.
Chư vị Chánh Ðẳng Chánh Giác, bậc Toàn Giác, có những khả năng tinh thần quang minh sâu sắc hơn các vị Ðộc Giác Phật, Paccekabuddhas. Vị Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác cũng chứng ngộ Tứ Diệu Ðế như chư vị Phật Ðộc Giác, mà hơn nữa, còn có thể dạy dỗ, giúp người khác thấu triệt tận tường bốn chân lý thâm diệu nầy. Vì thế ấy Ngài là Chánh Ðẳng Chánh Giác, Sammā Sambuddha.
Ðức Thế Tôn thuyết giảng thời Pháp Ðầu Tiên đề cập đến Tứ Diệu Ðế, cho năm vị đạo sĩ. Thời Pháp ấy được gọi là Dhammacakkappavattana Sutta, Kinh Chuyển Pháp Luân, vận chuyển Bánh Xe Của Giáo Pháp. Ðây là Giáo Pháp đầu tiên mà Ðức Phật ban truyền. Ngài giảng bài kinh nầy vào buổi chiều thứ Bảy, đêm trăng tròn tháng Bảy DL. đúng hai tháng sau khi Thành Ðạo.

Khi Ðức Phật chấm dứt thời Pháp Ðầu Tiên, vị đạo sĩ trưởng đoàn, Koṇḍañña, Kiều Trần Như, đắc Quả Tu Ðà Huờn (Sotāpanna, Nhập Lưu). Chứng đắc Ðạo Quả nầy vị Thánh Tu Ðà Huờn đã loại trừ mọi hoài nghi về Giáo Pháp và mọi khái niệm sai lầm về sakkāya, cơ thể vật chất, xem thân nầy là "tự ngã" hay một thực thể sống. Dầu sao Ngài vẫn còn māna, ngã mạn [*]. Bốn vị kia chưa chứng ngộ Giáo Pháp đặc biệt, śự thức tỉnh đến siêu trí, hay mức độ tâm cao siêu".


[*] Lời người dịch: Danh từ ngã mạn dùng ở đây được phiên dịch từ Phạn ngữ Māna, không chỉ có nghĩa tự cao tự đại như thường được hiểu. Nơi đây là chấp vào cái "ngã" nầy và đem so sánh với những cái "ngã" khác. Xem mình hơn người, bằng người, hay thua người là ba hình thức của māna, ngã mạn.

Vì tính ngã mạn, hay chấp vào tự ngã, đã ăn sâu vào luồng nghiệp của Koṇḍañña, và vì Vappa cũng như ba vị kia trong nhóm năm anh em đạo sĩ chưa thành đạt "Pháp Nhãn thanh tịnh và vô nhiễm", nên Ðức Phật tiếp tục khuyến dạy và khích lệ các Ngài nên duy trì chánh niệm và quán chiếu đúng theo pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā). Sau khi tích cực hành thiền, tất cả năm vị đều thành tựu tầng Thánh Tu Ðà Huờn, do đó loại trừ mọi dính mắc chấp rằng thân nầy là chính mình, tự ngã (sakkāyadiṭṭhi, thân kiến). Ngài Vappa chứng đắc tuệ Minh Sát vào ngày đầu tiên sau đêm trăng tròn, Ngài Bhaddhiya vào ngày thứ nhì, Ngài Mahānāma ngày thứ ba, và Ngài Assaji vào ngày thứ tư.
Chừng đó Ðức Thế Tôn tập hợp toàn thể Nhóm Năm Vị lại và thuyết giảng bài Pháp thứ nhì, trình bày học thuyết anattā (vô ngã). Lúc bấy giờ là ngày thứ Năm, năm ngày sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL. Khi nghe xong bài Anattalakkhaṇa Sutta (Kinh Vô Ngã Tướng) tất cả năm vị đều chứng đắc Ðạo Quả A La Hán, do đó tất cả năm vị hoàn toàn tận diệt mọi hình thức ái dục, bao gồm tính ngã mạn, māna. Như danh từ Anattalakkhaṇa Sutta hàm xúc ý nghĩa (anattā = vô ngã, lakkhaṇa = đặc tướng) bài kinh nầy rõ ràng trình bày lý "vô ngã", đối nghịch với tà kiến chấp thủ "tự ngã".
Anattalakkhaṇa Sutta không phải là một bài kinh dài. Trong bổn nguyên thủy do cuộc Kết Hợp Phật Giáo Thế Giới Kỳ Sáu phát hành, bài kinh nầy chỉ vỏn vẹn chiếm một trang giấy. Bài kinh không có đề cập đến phương pháp hành thiền hoặc kỷ thuật quán chiếu. Giáo huấn nầy chú trọng đến chân lý thiên nhiên nhiều hơn là những phương pháp thực hành. Do đó đối với người không quen thuộc với pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā meditation) ắt khó thông hiểu thực tướng vô ngã được mô tả trong bài kinh. Sở dĩ năm vị đạo sĩ nhanh chóng lãnh hội giáo lý có thể là vì thời Pháp do chính Ðức Bổn Sư thuyết giảng và cũng vì thính giả may mắn là bậc đã có kiến thức sâu sắc bén nhạy. Cả năm vị chẳng những đã được thuần thục chứng nghiệm từ khi nghe thời Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta), mà còn đã vượt đến giai đoạn Nhập Lưu. Nhờ vậy các Ngài nhanh chóng thành tựu Ðạo Quả A La Hán.
Vào thời Ðức Phật còn tại thế có những vị kiến thức bén nhạy và ba-la-mật (pāramitā) tròn đầy như nhóm năm vị đạo sĩ, vừa khi được nghe Ðức Bổn Sư thuyết giảng thì nhanh chóng thành tựu Ðạo Quả (magga-phala). Dĩ nhiên, đó là nhờ nghe chính Ðức Bổn Sư thuyết giảng, nhưng các vị ấy cũng phải dành rất nhiều công phu để tích cực chuyên cần trau giồi thiền Minh Sát (vipassanā). Giáo Pháp Ðặc Biệt chỉ được thành tựu vì những vị ấy đã thành tâm cố gắng tích cực hành thiền, đã nhập định vững chắc, thâm sâu và quán chiếu bén nhạy, và chỉ một ít người có đủ trí tuệ hay đủ ba-la-mật để được như vậy. Nhiều người không thể quán chiếu và ghi nhận nhanh chóng dường thế ấy.
Mặc dầu vậy cũng có những người lười biếng sẽ làm ra vẻ thông thạo nói: Nếu nhờ đọc sách mình hiểu biết bản chất thiên nhiên của lý vô ngã thì cần gì phải thực hành. Ta có thể thành tựu Ðạo Quả bằng cách chỉ nghe suông lời dạy." Với loại suy tư mong muốn như vậy họ tự đặt họ ngang hàng với các bậc Thánh Nhân. Những khái niệm tương tợ làm vừa lòng hạng người chỉ ăn không ngồi rồi, những người tự nhận, tự phong mình là Thánh Nhân vì chỉ giản dị được nghe Giáo Pháp. Hạng người nầy không phải ít. Loại hiểu biết lý vô ngã bằng cách lượm lặt đó đây xuyên qua những thời Pháp không phải là thật sự chứng ngộ cá nhân, mà chỉ là hiểu biết qua sách vở. Nếu Ðạo và Quả có thể được chứng ngộ bằng cách ấy, hầu hết những người Phật tử hiểu biết lý vô ngã đều có thể được xem là A La Hán. Tuy nhiên, vì người như vậy không có những phẩm hạnh (paramittā) của một vị A La Hán, hiển nhiên họ không phải thật sự là A La Hán. Quan tâm đến tình trạng sai lầm của những ý kiến tương tợ Ngài Mahasi Sayadaw nêu lên những lời dạy rõ ràng và chính xác trong bài Kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, đem những người ấy về con đường chân chánh.
Bài Kinh Anattalakkhaṇa mô tả bản chất và đặc tính của lý vô ngã, nhưng không chỉ giản dị dạy phương pháp hành thiền hoặc kỷ thuật quán chiếu và ghi nhận, niệm và giác tỉnh. Trong sách nầy Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệm và giải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
Bài kinh được trình bày đúng theo kinh điển, dựa trên kinh nghiệm cá nhân trong khi thực hành thiền Minh Sát (vipassanā), và được giải thích sau khi đã thâu thập những kinh nghiệm và những hiểu biết cá nhân trong lúc thực hành dưới sự hướng dẫn của một vị minh sư, và sau khi tham khảo những Kinh Ðiển Pāli và những Chú Giải thích ứng.
Trong những thời dạy giáo lý Ngài Sayadaw từ bi giảng rộng với đầy đù chi tiết bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta, vốn được Ðức Phật giáo truyền một cách ngắn gọn. Khi những thời Pháp ghi âm nầy được vị thẩm phán hồi hưu, U Thein Han, chép và đánh máy lại đầy đủ, bản thảo dài 420 trang. U Thein Han trình lên Ngài Sayadaw và xin phép cho ấn hành. Ngài vui lòng chấp nhận sau khi tóm lược, chỉ giữ lại những giáo lý cương yếu gồm 152 trang. Một phần cũng vì vào lúc bấy giờ giấy in sách còn khan hiếm.
Lẽ dĩ nhiên Ngài Sayadaw rất khéo léo giảng rộng những điểm quá giản lược và thâu ngắn gọn những đoạn quá dài dòng. Chẳng những Ngài tóm lược những bản dài dòng bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng và "Phương Pháp Hành Thiền Minh Sát" mà còn giảng giải rành mạch bài Dhammacakka Sutta, Kinh Chuyển Pháp Luân, giúp cho những ai muốn đọc và nghe Giáo Pháp một cách tường tận, vắn tắt mà rõ ràng, và như thế là một phước lành cho tất cả.
Mỗi khi thuyết giảng hoặc viết, Ngài Sayadaw chú trọng đến ý nghĩa nhiều hơn là những nguyên tắc văn phạm. Thí dụ như Phạn ngữ "Bārāṇasiyaṁ", thường được dịch là "tại Benares", thì không có gì sai. Nhưng để sát gần với thực tại hơn, Ngài Mahasi Sayadaw viết là "trong vùng Benares" hoặc "gần Thành Benares" vì lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn tạm ngự tại vườn nai (Lộc Uyển) gần Thành Phố Benares (thay vì trong tĩnh Benares).
Mặc dầu quan tâm nhiều đến ý nghĩa của câu văn, Ngài Sayadaw không vì quá chú trọng đến ý mà bỏ quên không giữ đúng văn phạm. Nói cách khác, Ngài chú tâm đầy đủ đến phần văn phạm nhưng đặc biệt chú trọng đến ý nghĩa, không để vì muốn theo đúng văn phạm mà làm sai ý nghĩa của câu văn. Do đó bản dịch của Ngài không chính xác theo đúng phương pháp cổ truyền. Sau khi đắn đo suy xét câu văn Ngài bám sát theo ý nghĩa thật sự và diễn đạt ra thành lời, viết hay nói.
Giáo huấn về ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha, anattā) nghe rất quen thuộc, và luôn luôn ở đầu môi chót lưỡi người Phật tử. Mỗi khi có một diễn biến ít nhiều quan trọng xảy ra ta liền nghe nhắc đến những danh từ nầy, gợi ý nên nhớ lại Giáo Pháp. Ðiều nầy chứng tỏ rằng giáo huấn về ba đặc tướng rất là phổ thông và được hiểu biết rộng rãi trong giới Phật tử. Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là sự hiểu biết xuyên qua sách vở hay vì thường được nghe lặp đi lặp lại, nhưng trong thực tế đây là một giáo lý khó thấu đạt đầy đủ, mặc dầu nhìn từ bên ngoài thấy hình như dễ hiểu. Trong ba đặc tướng, lý vô ngã, "anattā", là thâm diệu và khó thông suốt nhất. Cũng vì lý do ấy mà chính Ðức Thế Tôn đã gặp sự phản đối nghiêm trọng của những nhân vật như Ðạo Sĩ Du Phương Saccaka, và Phạm Thiên Baka vì những vị nầy có quan kiến đối nghịch về "tự ngã".
Trước khi có những lời dạy của Ðức Phật người ta hiểu rằng cái "ta" cố hữu chằn chịt dính liền với cơ thể vật chất (rūpa, sắc) và phần tâm linh (nāma, danh). Ðối nghịch với tà kiến nầy Ðức Phật tuyên ngôn rằng danh và sắc không phải là "ta", không phải là "tự ngã" của ta. Trong thực tế, rất khó làm cho người ta thấu triệt lý "vô ngã" vì trong vô lượng kiếp khái niệm sai lầm về cái "ta" nầy đã ăn sâu, châm gốc rễ vững chắc. Nếu giáo lý về "tự ngã" nầy có thể dễ dàng được hiểu biết thì không cần phải có một vị Phật thị hiện trong thế gian. Cũng không cần một vị đệ tử của Ðức Phật, như Ngài Mahasi Sayadaw, phải dành nhiều công phu để giảng giải rõ ràng và viết ra tường tận phần chú giải Kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta. Sự cố gắng không biết mệt của Ngài Sayadaw để làm sáng tỏ giáo lý nầy cho thấy mức độ thâm sâu của lời dạy. Chí đến trong giới không-phải-Phật-tử rất hiếm người hiểu biết cái "ta", tự ngã, hay "attā" là gì, càng ít hiểu biết lý "vô ngã". Những lời dạy thích đáng của Ngài Mahasi Sayadaw giải thích rõ ràng và rành mạch bài Kinh Vô Ngã Tướng Anattalakkhaṇa Sutta, có tác dụng đem những người lạc nẻo, có quan kiến sai lầm, trở về con đường chân chánh.
Một lần nọ, khi tôi đến ngôi chùa Wetlet Masoyein Monastery thì có dịp yết kiến Ngài Sayadaw, lúc ấy đến thành phố Wetlet để thuyết Pháp. Tôi bạch hỏi Ngài, "Có thể nào hiểu rằng thuyết uccheda (đoạn kiến, chủ trương chết là hết, tức sau khi chết thì tất cả đều chấm dứt) và Nibbāna, Niết Bàn, được phân giải là giống y như nhau không? vì cả hai đều có đặc tánh chấm dứt giống nhau." Ngài Sayadaw đáp, "Lẽ dĩ nhiên là có sự khác biệt. Niết Bàn có những đặc tính và phẩm cách cá biệt của nó. Làm thế nào Niết Bàn không phải là đặc biệt." Vì lúc ấy cuộc đàm thoại bị đứt ngang giữa chừng nên tôi không có dịp hỏi thêm, "Vậy chớ đặc tính và phẩm cách đặc biệt của Niết Bàn là gì?" Ngài Sayadaw có lẽ đã không còn nhớ câu chuyện không quan trọng ấy. Tuy nhiên, lúc đọc qua bản thảo nầy, khi tới đoạn giải thích liên quan đến uccheda và Nibbāna tôi hồi nhớ cuộc nói chuyện. Những lời giải thích của quyển sách nầy, trang , làm sáng tỏ sự khác biệt giữa uccheda-diṭṭhi, chủ thuyết đoạn kiến, tức loại tà kiến chủ trương rằng sau khi kiếp sống của một chúng sanh chấm dứt thì chúng sanh ấy hoàn toàn tuyệt diệt, và Nibbāna, Niết Bàn. Những người tin theo tà kiến nầy lầm lạc nghĩ rằng sự chấm dứt cuộc sống và Niết Bàn là như nhau, nhưng hiểu biết như thế hoàn toàn sai lầm. Trong thực tế cả hai khác biệt nhau hẳn.
Về khái niệm đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi), vào khoảng năm 1971 có lần tôi mời cộng đồng tập trung lại để nghe giảng kinh Satipaṭṭhāna Sutta, Niệm Xứ, và cung thỉnh Ngài Mahasi Dhammakatthikas U Samvara và U Zawtika giúp cho thân bằng quyến thuộc tôi trong làng được cơ hội nghe Giáo Pháp. Tôi sắp xếp cho thời Pháp được giảng tại làng Inchaung nơi mà có đông họ hàng quyến thuộc tôi cư ngụ. Vào hôm ấy, trong nhóm thính giả có một người tên Maung Kyi, vốn là một lãnh tụ Ðảng Cộng Sản Cờ Ðỏ, một người tin tưởng nhiệt thành nơi lý thuyết chủ trương không có đời sống sau kiếp sống hiện tại. Anh ta là một người trong nhóm họ hàng với tôi nên cũng đến để chung vui trong cuộc hợp mặt. Hôm ấy Ngài U Samvara và vị Pháp Sư kia tận tình thuyết giảng Giáo Pháp và mọi người rất hoan hỷ chú tâm lắng nghe.
Maung Kyi được mời và sẵn sàng giúp một tay trong cuộc lễ, trước sự ngạc nhiên của mọi người, vì ai cũng biết rằng anh ta chỉ tin tưởng vào thuyết chủ trương "không có đời sống nào sau kiếp nầy".
Vào sáng sớm ngày hôm sau anh lại có mặt tại nhà một người mời tôi đến dùng bửa. Trong dịp nầy Maung Kyi nói với tôi, "Thưa Ông, tôi chấp nhận quan điểm về Giáo Pháp mà Ngài U Samvara đề cập đến đêm hôm qua, nhưng xin Ông chớ hiểu lầm rằng tôi đã theo đạo, trở thành người tin tưởng chủ thuyết tâm linh (nāma). Bởi vì quý vị là Phật tử, quý vị tin có một kiếp sống trong tương lai, sau kiếp nầy, nên quý vị cố gắng tạo phước để thỏa mãn tham vọng cho kiếp sau. Phần chúng tôi, chúng tôi không tin như thế, chúng tôi không có lòng tham. Trong đời chúng tôi không tham bất luận gì. Chúng tôi đã dập tắt mọi bám níu và mọi luyến ái vào cuộc sống." Nghe như vậy tôi suy nghĩ, "Ðiều nầy tùy thuộc nơi quan điểm của mình. Theo Phật Giáo, lòng ham muốn và luyến ái bám vào sự sống chỉ chấm dứt, hay chỉ được tận diệt, khi ta trở thành A La Hán. Nếu chưa giải thoát ra khỏi bản năng tham ái đeo níu vào kiếp sinh tồn, nếu còn tin tưởng mãnh liệt rằng cuộc sống nầy sẽ tuyệt diệt sau khi chết, ta sẽ sa đọa địa ngục, cảnh giới Niraya, khổ cảnh. Ðiều đó đúng theo lời dạy của Ðức Phật."
Mặc dầu Maung Kyi cắt đứt mọi trói buộc và tự tách rời ra khỏi "kiếp sinh tồn", người vợ của ông không thể làm được như vậy. Bà bắt đầu chuẩn bị cho các con vừa lớn lên của ông bà làm lễ xuất gia sa di (sāmaṇera).
Say đắm trong niềm tin cuồng tín, Maung Kyi nói với vợ, "Em không cần thực hành bất luận nghi lễ gì để cầu phước cho anh được hưởng trong kiếp sau [*]. Nếu em muốn thì tự ý làm gì cũng được để cầu phước cho chính em nhưng phần anh, khi hành lễ xuất gia cho các con, anh không thể đóng vai trò người chủ lễ, ôm bình bát và cầm quạt, đưa mấy sa-di đến chùa".
Bà vợ đáp lời, "Không có một người đứng ra làm chủ lễ ắt tôi không thể hướng dẫn mấy sa-di. Nếu anh không chịu, tôi sẽ thuê một người đóng vai chủ lễ và thực hành những nghi lễ cần thiết." Nghe vậy Maung Kyi rất bàng hoàng bực bội, sốt ruột ngồi đứng không yên, không thể chịu đựng hay chấp nhận sự hiện diện của một người được thuê để đóng vai trò chủ lễ thế mình. Lúc bấy giờ ông ở trong tình trạng tấn thối lưỡng nan, rất khó giải quyết. Về sau tôi có nghe một người trong làng thuật lại câu chuyện nầy.
Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng những lời dạy cao quý về kinh Anattalakkhaṇa Sutta sẽ làm tăng trưởng vững chắc kho báu niềm tin của tất cả quý vị độc giả và đem nhiều lợi ích đến quý vị.

U Teiktha,
(Wetlet Masoyein Sayadaw)
Do U Min Swe (Min Kyaw Thu) dịch.

[*] Theo phong tục, con nhỏ xuất gia, sống đời tu sĩ để hồi hướng phước báu cho cha mẹ.

-ooOoo-
Hồi hướng công đức
Chư Phật tử bốn phương, kẻ công người của, chung cùng ấn tống quyển kinh nầy để tạo phần công đức thanh cao và thành tâm kính dâng đến:
* Tất cả chư Thiên, chư Phạm Thiên và chư Long Vương cùng khắp mười phương thế giới;
* Các bậc Thầy Tổ, từ ngàn xưa đã bước theo dấu chân của Ðức Bổn Sư, đã gìn giữ Giáo Pháp, và đã trao truyền nguyên vẹn đến chúng ta;
* Các vị cư sĩ tiền bối, đã dày công hộ trì Tam Bảo, giúp cho Giáo Pháp được truyền thừa đến ngày nay;
* Các đấng ông bà cha mẹ, cữu huyền thất tổ nhiều đời, còn tại tiền hay đã quá vãng; và
* Tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài.
Ngưỡng nguyện Giáo Pháp trường tồn, tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc trong Chánh Pháp.
-ooOoo-


Tương Ưng Bộ, III, 66

Kinh Vô Ngã Tướng

Anattalakkhana sutta


Giới thiệu: Ðây là bài Pháp thứ hai mà Ðức Phật giảng cho các vị đệ tử đầu tiên, 5 anh em Kiều Trần Như. Sau khi nghe xong bài Pháp nầy, anh em Kiều Trần Như giác ngộ và đắc quả A la hán. [1]
Bài dịch nầy trích từ quyển "Ðức Phật và Phật Pháp", Phạm Kim Khánh dịch từ quyển "The Buddha and His Teachings" của Hòa Thượng Narada.
--oOo--

Một thời nọ, lúc Ðức Thế Tôn ngự tại vường Lộc Uyển, xứ Chư Thiên Ðọa Xứ (Isipatana), gần Ba La Nại (Benares), Ngài dạy nhóm năm vị tỳ khưu như sau:
-- Này hỡi các Tỳ Khưu!
-- Bạch hóa Ðức Thế Tôn, năm vị trả lời.
Rồi Ðức Phật truyền dạy:
-- Này hỡi các Tỳ Khưu, sắc (rũpa, thể chất, xác thân nầy) là vô ngã (anattã, không có một linh hồn [2]). Nầy hỡi các Tỳ Khưu, nếu trong sắc có ngã, như vậy sắc không phải chịu đau khổ. Sắc này phải như vầy hay phải như thế kia, tường hợp tương tự có thể xảy ra. Nhưng vì sắc không có ngã nên sắc này còn phải chịu khổ đau và không thể có trường hợp (ra lịnh): Sắc này phải như vầy, hay phải như thế kia [3].
Cùng một cách ấy, thọ (vedana), tưởng (sanna), hành (samkhara) và thức (vinnana) đều vô ngã [4].
Vậy như Tỳ Khưu nghĩ thế nào, thân này thường còn hay vô thường?
-- Bạch Thế tôn, là vô thường (anicca).
-- Cái gì vô thường là khổ não hay hạnh phúc?
-- Bạch Thế tôn là khổ não.
-- Vậy, có hợp lý chăng nếu nghĩ đến cái gì vô thường, khổ não và tạm bợ với ý tưởng: Cái này của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi?
-- Bạch Ðức Thế Tôn, chắc chắn là không hợp lý.
-- Cùng một thể ấy, nầy hỡi các Tỳ Khưu, thọ, tưởng, hành, thức, đều là vô thường và khổ não. Vậy, có hợp lý chăng nếu nghĩ đến cái gì vô thường, khổ não và tạm bợ với ý tưởng: Cái này của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi [5]?
-- Bạch đức Thế tôn, chắc chắn là không hợp lý.
-- Như vậy, này hỡi các Tỳ Khưu:
Tất cả các sắc, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong hay ở ngoại cảnh, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được nhận thức theo thực tướng của nó ---- Cái này không phải của tôi, đây không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi.
Tất cả các thọ, tưởng, hành, thức, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong hay ở ngoại cảnh, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được nhận thức theo thực tướng của nó ---- Cái này không phải của tôi, đây không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi.
Bậc Thánh đệ tử đã thông suốt pháp học thấy vậy thì nhàm chán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, dứt bỏ, không luyến ái những gì không đáng ưa thích và do sự dứt bỏ ấy, được giải thoát. Rồi tri kiến trở nên sáng tỏ ---- "Ta đã được giải thoát". Vị ấy thấu hiểu rằng dòng sanh tử đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được thành tựu, những điều phải làm đã được hoàn tất viên mãn, không còn trở lại trạng thái này nữa.
Ðức Thế Tôn giảng giải như vậy và các Tỳ Khưu lấy làm hoan hỉ, tán dương lời dạy của Ngài.
Khi Ðức Phật thuyết xong thời Pháp, tâm của năm vị tỳ khưu đều trở nên hoàn toàn trong sạch, không còn chút ô nhiễm [6].
Bản Anh ngữ: HT Narada (The Buddha and His Teachings)
Bản dịch Việt ngữ: Phạm Kim Khánh (Ðức Phật và Phật Pháp)

Chú thích:
  1. Mahavagga tr. 13; Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ) phần III, tr. 66. Ðây là bài Pháp thứ hai Ðức Phật giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như sau khi Ngài đắc đạo (bài Pháp đầu tiên là bài Chuyển Pháp Luân).
  2. Một thực thể không biến đổi tạo nên do một Thần Linh hay phát ra từ một đại hồn (Paramama, tinh hoa của Thần Linh)
  3. Cái được gọi là chúng sanh gồm năm uẩn. Ngoài năm uẩn ấy không có chúng sanh. Nếu bỏ năm uẩn ra sẽ không còn gì tồn tại. Không có linh hồn hay bản ngã trong một uẩn riêng rẻ, không có linh hồn trong năm uẩn hợp lại mà linh hồn cũng không có ngoài năm uẩn ấy.
  4. Ðức Phật giảng giải giống như đoạn trên với thọ, tưởng, hành, thức, và cho thấy rằng không có một linh hồn hay bản ngã trong uẩn nào. Ở đây bản dịch thâu gọn lại.
  5. Vì bị ái dục (tanha) che lấp ta suy tưởng sai lầm: -- đây là của tôi. Bị ngã mạn (mãna) che lấp ta suy tưởng: -- đây là tôi. Bị tà kiến (miccha dithi) che lấp ta suy tưởng: -- đây là tự ngã của tôi. Ðó là ba quan niệm sai lầm (mannana)
  6. Ðó là đắc quả A La Hán.

Chân thành cảm ơn anh TABTT đã có thiện tâm giúp đánh máy lại bài kinh nầy


Bản dịch Việt của HT Thích Minh Châu:


Vô ngã tướng


(Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66)



1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"
4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"
5) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được thọ như sau: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"
6) Và này các Tỷ-kheo, vì thọ là vô ngã. Do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"
7) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu tưởng là ngã, thời tưởng không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được tưởng như sau: "Mong rằng tưởng của tôi như thế này! Mong rằng ưởng của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỷ-kheo, vì tưởng là vô ngã. Do vậy, tưởng đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các tưởng: "Mong rằng tưởng của tôi như thế này! Mong rằng tưởng của tôi chẳng phải như thế này!"
8) Các hành là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!"
9) Và này các Tỷ-kheo, vì các hành là vô ngã. Do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!"
10) Thức là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được thức như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"
11) Và này các Tỷ-kheo, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"
12) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
13) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Thọ là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tưởng là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? các Hành là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
16) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
17) -- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
18) Phàm thọ gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
19) Phàm tưởng gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
20) Phàm các hành gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
21) Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
22) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm y đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
23) Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.


English version:

Samyutta Nikaya, III-66

The Characteristic of Non-self


translated by Bhikkhu Bodhi




Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was dwelling at Benares in the Deer Park at Isipatana. There the Blessed One addressed the bhikkhus of the group of five thus: "Bhikkhus!"
"Venerable sir!" those bhikkhus replied. The Blessed One said this:
"Bhikkhus, form is non-self. For if, bhikkhus, form were self, this form would not lead to affliction, and it would be possible to decree to form: 'Let my form be thus; let my form not be thus.' But because form is non-self, form leads to affliction, and it is not possible to decree to form: 'Let my form be thus; let my form not be thus.'
"Feeling is non-self. For if, bhikkhus, feeling were self, this feeling would not lead to affliction, and it would be possible to decree to feeling: 'Let my feeling be thus; let my feeling not be thus.' But because feeling is non-self, feeling leads to affliction, and it is not possible to decree to feeling: 'Let my feeling be thus; let my feeling not be thus.'
"Perception is non-self. For if, bhikkhus, perception were self, this perception would not lead to affliction, and it would be possible to decree to perception: 'Let my perception be thus; let my perception not be thus.' But because perception is non-self, perception leads to affliction, and it is not possible to decree to perception: 'Let my perception be thus; let my perception not be thus.'
"Volitional constructions are non-self. For if, bhikkhus,volitional constructions were self, these volitional constructions would not lead to affliction, and it would be possible to decree to volitional constructions: 'Let my volitional constructions be thus; let my volitional constructions not be thus.' But because volitional constructions are non-self, volitional constructions lead to affliction, and it is not possible to decree to volitional constructions: 'Let my volitional constructions be thus; let my volitional constructions not be thus.'
"Consciousness is non-self. For if, bhikkhus, consciousness were self, this consciousness would not lead to affliction, and it would be possible to decree to consciousness: 'Let my consciousness be thus; let my consciousness not be thus.' But because consciousness is non-self, consciousness leads to affliction, and it is not possible to decree to consciousness: 'Let my consciousness be thus; let my consciousness not be thus.'
"What do you think, bhikkhus, is form permanent or impermanent? "Impermanent, venerable sir." "Is what is impermanent suffering or happiness?" "Suffering, venerable sir." "Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: 'This is mine, this I am, this is my self'?" "No, venerable sir."
"Is feeling permanent or impermanent? "Impermanent, venerable sir." "Is what is impermanent suffering or happiness?" "Suffering, venerable sir." "Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: 'This is mine, this I am, this is my self'?" "No, venerable sir."
Is perception permanent or impermanent? "Impermanent, venerable sir." "Is what is impermanent suffering or happiness?" "Suffering, venerable sir." "Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: 'This is mine, this I am, this is my self'?" "No, venerable sir."
Are volitional constructions permanent or impermanent? "Impermanent, venerable sir." "Is what is impermanent suffering or happiness?" "Suffering, venerable sir." "Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: 'This is mine, this I am, this is my self'?" "No, venerable sir."
"Is consciousness permanent or impermanent?" "Impermanent, venerable sir." "Is what is impermanent suffering or happiness?" "Suffering, venerable sir." "Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: 'This is mine, this I am, this is my self'?" "No, venerable sir."
"Therefore, bhikkhus, any kind of form whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all form should be seen as it really is with correct wisdom thus: 'This is not mine, this I am not, this is not my self.'
"Any kind of feeling whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all feeling should be seen as it really is with correct wisdom thus: 'This is not mine, this I am not, this is not my self.'
"Any kind of perception whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all perception should be seen as it really is with correct wisdom thus: 'This is not mine, this I am not, this is not my self.'
"Any kind of volitional constructions whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all volitional constructions should be seen as it really is with correct wisdom thus: 'This is not mine, this I am not, this is not my self.'
"Any kind of consciousness whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all consciousness should be seen as it really is with correct wisdom thus: 'This is not mine, this I am not, this is not my self.'
"Seeing thus, bhikkhus, the instructed noble disciple becomes disenchanted with form, disenchanted with feeling, disenchanted with perception, disenchanted with volitional constructions, disenchanted with consciousness. Being disenchanted, he becomes dispassionate. Through dispassion (his mind) is liberated. When it is liberated there comes the knowledge: 'It is liberated.' He understands: 'Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this world.' "
That is what the Blessed One said. Being pleased, those bhikkhus delighted in the Blessed One's statement. And while this discourse was being spoken, the minds of the bhikkhus of the group of five were liberated from the taints by non-clinging.

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - SẮC THÂN - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THỌ - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - TƯỞNG và HÀNH - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THỨC - Mahasi

 Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THẤY VÔ NGÃ - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - PHÂN TÁCH ÐẶC TÁNH VÔ THƯỜNG - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - MƯỜI MỘT PHƯƠNG THỨC PHÂN TÁCH NGŨ UẨN - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - THUẦN HÓA TUỆ MINH SÁT - Mahasi

Thiền Minh Sát - Kinh Vô Ngã Tướng - Thuật ngữ - Mahasi

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét