Duyên khởi và Tính không      được đồ giải qua phương trình E=MC2 
của nhà bác học Albert Enstein
Khải Thiên & Nguyễn Chung Tú
I. Tổng quan về Duyên khởi và tính      Không
Triết lý Duyên khởi      (Paticcasamuppàda) và tính Không (Sunyàta) là hai điểm giáo lý then      chốt của Phật giáo được trình bày xuyên suốt trong các kinh điển, từ      Nikaya, Agama cho đến các kinh điển thuộc văn hệ Ðại thừa      (Mahayàna). Ðây cũng là phần giáo lý độc nhất vô nhị của Phật giáo,      mà không hề tìm thấy trong bất kỳ hệ thống giáo lý nào khác trong      lịch sử của tôn giáo và triết học, trước cũng như sau thời Ðức      Phật. Ðứng trên góc độ lịch sử-tư tưởng, Duyên khởi được xem như là      phần triết lý nền tảng của cả hai hệ thống Nam tạng và Bắc      tạng, từ thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy (Theravàda) đến Phật giáo Phát      triển sau này. Riêng về triết học tính Không, sự phát triển      của nó bắt nguồn từ khởi điểm của Phật giáo Mahayàna (Phật giáo Phát      triển) và nội dung như đã được trình bày cụ thể trong kinh Bát Nhã      (Prajanaparamita Sùtra), một bộ kinh đầu tiên thuộc văn hệ Ðại thừa. Mặc      dầu vậy, về nội dung triết lý, giữa Duyên khởi và tính Không      không có sự khác biệt về bản chất. Trên phương diện logic      học, mối quan hệ giữa Duyên khởi và tính Không được xem như là      "một dòng vận hành tất yếu", như nước trăm sông cùng đổ      về biển cả; nó vừa là nguyên nhân, lại vừa là kết quả sinh khởi      nên vạn hữu trong vũ trụ vô biên này. Sự thể như thế nào sẽ được      trình bày ở phần nội dung.
II. Nội dung của Duyên khởi và tính      Không
1- Duyên khởi: Nếu như thế giới bao      la mênh mông này được chia thành hai loại: hữu tình chúng sinh (tức những      loài có tri giác như động vật, con người) và vô tình chúng sinh (tức những      loài vô tri như cỏ cây hoa lá, sông suối, đá đồi v.v...), thì Duyên khởi,      ở một góc độ nào đó, cũng có thể chia thành hai loại: một loại tập      chú vào sự hiện hữu của con người được Ðức Phật dạy qua 12 Nhân      duyên, và một loại khác chỉ đến sự tương duyên, tương tác trong sự      hình thành và hiện hữu của thế giới khách quan, tự nhiên được dạy      qua định thức tổng quát về Duyên khởi. Tuy nhiên, cả hai đều trình      bày về sự thật Duyên khởi - nguyên lý tương tác, sinh khởi và vận      hành của vũ trụ nhân sinh. Ở đây, phạm vi của bài viết chỉ đề      cập đến Duyên khởi qua định thức tổng quát.
Kinh Phật Tự Thuyết (Tiểu Bộ I, tr.291), Ðức      Phật đã trình bày tóm tắt về nguyên lý Duyên khởi như sau:
"Do A hiện hữu nên B hiện hữu
Do A sinh khởi nên B sinh khởi
Do A không hiện hữu nên B không hiện hữu
Do A đoạn diệt nên B đoạn diệt"
Nguyên lý này bảo rằng, tất cả hiện hữu trong      thế giới bao la mênh mông này, không một hiện hữu (sự vật, hiện      tượng) nào có thể tồn tại một cách độc lập mà không nương tựa vào      nhau. Sự nương tựa và tùy thuộc nhau để hình thành và tồn tại v.v... là      nguyên lý vận hành của vũ trụ nhân sinh này; tương tự như thế đối      với hằng hà sa thế giới. Do đó, Ðức Phật bảo rằng: "Do A hiện      hữu nên B hiện hữu... Do A đoạn diệt nên B đoạn diệt". Có      thể lấy tỷ dụ như nước và sóng gió, do có nước và gió nên mới có      sóng cuộn nhấp nhô. Nếu không có nước thì sẽ không bao giờ có sóng.      Sóng có mặt là do nương vào nước và gió v.v... Rồi tiếp tục suy luận      như thế, bản thân của nước cũng không phải do đơn độc hình thành, mà      cơ cấu của nước là H2O. Vì thế, qua đôi mắt bình thường,      nước là nước; nhưng qua lăng kính khoa học, nước không phải là nước,      mà nước là hợp chất của hydro và oxy v.v... Tương tự như thế đối với      tất cả hiện tượng, sự vật, cả hữu tình (động vật) và vô tình (thực      vật - hay vật vô tri). Sự có mặt của mỗi hiện hữu luôn luôn bao gồm      trong nó hàng loạt các giá trị của nhân và duyên. Ðây là nội      dung cơ bản của định thức tổng quát về Duyên khởi.
2- Tính Không: Tính Không (Sunyàta) không      phải là một khái niệm đối lập với Có, mà Không ở đây là thực tính      của các pháp (những gì có mặt trong cuộc đời). Tính Không cũng không phải      là chủ nghĩa hư vô không tận; nó vốn thoát ly mọi đối ngẫu phân      biệt giữa hữu-vô, sanh-diệt, thường-đoạn, khứ-lai, siêu việt lên      trên tất cả mọi phạm trù đối lập của thế giới nhị nguyên. Do đó,      mọi khái niệm về Không được xây cất trên tư duy logic đều      không phải là thực tại - tính Không; trái lại, ở đây đòi hỏi một sự      thể nhập trực tiếp vào thế giới thực tại sau khi mọi ý      niệm tự ngã được buông bỏ. Như thế, khi con người còn đầy ắp      những tập khí, cảm nhiễm, những khát vọng, mong cầu được thiết lập      trên cơ sở của ý niệm về tự ngã, thì sự bàn bạc về tính      Không chẳng khác nào dã tràng xe cát.
Tuy nhiên, trên mặt hiện tượng, tính Không được      nhận thức như một hệ quả tất yếu trong tiến trình Duyên khởi mà      ngài Nàgàrjuna, qua Trung Quán luận, gọi là "Duyên khởi tức      Không". Ðiều đó cho thấy rằng, nếu thế giới vũ trụ này      được hình thành theo cơ cấu trật tự của Duyên khởi, thì đương nhiên nó      cũng hoại diệt theo cơ cấu hoàn diệt của Duyên khởi. Vì lẽ, một sự      thể nếu được hình thành từ nhiều nhân duyên (theo như định      lý Duyên khởi nói) thì chính sự thể ấy đã loại trừ cái mà gọi      là thực thể (entity) đơn nhất ngay nơi tự thân của nó. Do đó, trên bình      diện công ước, tính Không đã khước từ và phủ định hoàn toàn mọi      ngã thể, nếu ngã thể ấy được xem như là một thực thể độc      lập bất biến hay thường tại vĩnh hằng. Ở đây, cần ghi nhận rằng      tính Không không phải là sự đồng hóa hay đánh mất mọi bản sắc cá      biệt của hiện tượng giới (the world of phenomena). Mà trái lại, cội      nguồn của "Duyên khởi tức Không" giải trình hiện tượng giới qua      ba tính chất đặc thù của một sự thể, đó là: Giả danh, Không và Trung      đạo.
a)- Giả danh: Thông thường, tất cả sự vật, hiện      tượng đều được định danh bởi một tên gọi khác nhau, như nước,      mây, mưa, hơi nước v.v... Nhưng các tên gọi đó chỉ là giả danh,      vì chúng tạm thời mà có. Như nước gặp sức nóng-hút của ánh sáng mặt trời      thì gọi là hơi, hơi ngưng tụ thì gọi là mây, mây rơi xuống thì      gọi là mưa, mưa đọng lại thì gọi là nước v.v... Vì thế, các      tên gọi mây, mưa, hơi nước... đều là tên gọi tạm thời được      hình thành trên bề mặt của mỗi mỗi sự vật, hiện tượng. Và      cái mà gọi là bản sắc cá biệt của hiện tượng giới chính là      hiện thân của tác dụng và tên gọi tạm thời đó.
b)- Không: Một sự thể, như đã đề cập, xuất      hiện là do các nhân duyên hình thành, và các nhân duyên đó luôn luôn      điều kiện hóa lẫn nhau. Trong khi đó, thực tính của các nhân duyên      đều là Duyên khởi; và, như đã nói, Duyên khởi tức Không, thế có      nghĩa Không là tự tính vô tính của Duyên khởi và là thực tính như tính      của Duyên khởi. Tỷ dụ, nếu phân tích bản chất của nước, hơi nước,      mây, mưa, ta sẽ không nắm bắt được gì ngoài hydro và oxy - công thức là H2O.      Và nếu tiếp tục phân tích cho đến độ không thể phân tích      được nữa, thì tự thân của hydro và oxy cũng là Duyên khởi của một dạng      thức năng lượng không hình thù, không màu sắc và không biên giới. Năng      lượng là vô biên, hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay tại      đây, chính năng lượng hiển thị bản tính Không; nó xóa nhòa mọi      khuôn khổ, chiều kích trong từng mỗi bản sắc cá biệt của hiện      tượng giới. Do vậy, sự thể vốn không.
c)- Trung đạo: Trung đạo, trên mặt triết lý, là      lối dẫn vào thực tại tính Không - Niết bàn vô thượng; trên mặt nhận      thức, là sự phủ dẫm mọi định kiến về hữu-vô, sinh-diệt,      thường-đoạn, khứ-lai... Do đó, có thể nói Trung đạo là con đường dắt      dẫn mọi sinh linh một phen đi vào "đô thị tính Không", một cảnh      giới Niết bàn vô thượng hiển hiện ngay trên mặt đất gồ ghề      của trần thế này. Trung luận viết rằng: "Nếu không y vào chân      lý công ước (chân lý của kẻ còn vô minh) thì không thể đạt      đến chân lý tuyệt đối; nếu không đạt đến chân lý      tuyệt đối (chân đế), thì không thể hiểu được Phật      pháp". Như thế, với Trung đạo, một sự thể không thể nói là      có hay là không, mà chỉ có thể nói nó là Duyên khởi.
III. Duyên khởi và tính Không qua      phương trình: E = MC2
Trước năm 1905, Einstein đã phát biểu công thức E =      MC2 trong thuyết Tương đối hẹp. Mặc dầu công thức này không      được in thành sách, nhưng Paul Langeoin đã giảng dạy nó cho sinh viên. Công      thức E = MC2 nói lên một sự thật Duyên khởi trong thế giới sự      vật, hiện tượng qua lăng kính của vật lý học. Ở đây, E      biểu thị cho năng lượng, M biểu thị cho khối lượng vật chất và C      biểu thị cho vận tốc ánh sáng trong chân không.
Về năng lượng (E), được ví như những làn sóng      vô hình mà con người không thể thấy, nghe hay sờ mó được. Năng lượng E      là cội nguồn của tất cả hiện hữu (thế giới thực tại khách quan và      con người); vì thiếu nó, thì mỗi mỗi sự thể M (hay khối lượng      vật chất) không thể hình thành. Cho đến sự vận hành của tâm thức      cũng được xem là một dòng năng lượng đặc biệt (năng lượng tâm thức).      Thông qua công thức E = MC2, ta có thể thấy rằng vật chất chính      là năng lượng được cô đọng lại, và năng lượng chính là vật chất      được phân tỏa đến độ tan biến vào hư không vô biên, như hạt muối      được bỏ vào dòng sông. Từ chi tiết này cho thấy rằng, thế giới sum      la vạn tượng này, mỗi hiện hữu, sự thể đều được tạo nên      bởi một bản sắc cá biệt, như: cây, củi, than, tro..., nhưng bản chất của      nó thật sự là chân không - Duyên khởi. Và, mỗi mỗi bản sắc cá      biệt đó luôn luôn mang tính cách lâm thời mà không phải là vĩnh hằng.
Cũng từ công thức E = MC2, thí nghiệm cho      biết rằng khi một điện tử âm mà khối lượng là M = 0,90 x 10-30      kg gặp một điện tử dương mà khối lượng cũng là M, thì cả hai đều      biến mất, để cho một tia gama mà năng lượng E = 1,01 mega-electron-volt.      Ðổi năng lượng này ra joule rồi chia cho 2M để được C2 , trong      đó C là vận tốc ánh sáng trong chân không (300.000km/s). Và nếu đảo lại,      một tia gama mà năng lượng E = 1,10 mega-electron-volt có thể biến đi      để cho hai điện tử: một âm, một dương. Ðây là sự trao đổi năng      lượng hai chiều giữa bức xạ và vật chất. Công thức E = MC2 trong      vật lý vi mô, như vừa trình bày, cũng tương tự với công thức W = MC2      trong ngành vật lý vĩ mô (thiên văn).
Từ một vài dữ kiện được trưng dẫn qua phương      trình E = MC2, hiện hữu chung quanh con người - tức thế giới      thực tại khách quan của vô số sự vật, hiện tượng - được nhìn nhận      không gì khác / ngoài nguyên lý Duyên khởi. Và tất nhiên, chân lý      đằng sau Duyên khởi chính là thế giới thực tại - tính Không, mà Bồ tát      Mã Minh, trong Mahàyàna-sradhotspàda-Sàstra, gọi là Chân như - Duyên      khởi.
Công thức: Chân như = Duyên khởi;
và đảo ngược: Duyên khởi = Chân như.
Công thức này sẽ trả lời cho người trần một câu hỏi      vĩ đại, rằng tại sao Chân như lại Duyên khởi? Và nó cũng hiển      thị cho thấy tính chất bất khả phân ly của thực tại - hiện hữu:
Sóng về xóa dấu chân không
Bỗng dưng thuyền đã bên dòng chân như"
-- (Sakya T.Th)
-oOo-
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét