Những hiểu lầm về Niết Bàn
Vấn đề Niết Bàn đã có nhiều tranh cãi. Biết bao nhiêu sách vở đã nói về vấn đề này. Một số người nghĩ rằng hạnh phúc của Niết Bàn liên quan đến một loại thân tâm đặc biệt. Nhiều người tin rằng Niết Bàn nằm ngay trong thân thể. Một số khác lại cho rằng khi thân tâm bị hủy diệt hoàn toàn, cái gì còn lại sau đó là những cốt tủy tinh túy của một hạnh phúc miên viễn.
1.Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Giới Luật Căn Bản và Hướng Dẫn Cách Hành Thiền
2. Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Nguyên Nhân giúp Ngũ Căn Bén Nhạy
3. Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Mười Ðạo Binh Ma
4. Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Bảy Pháp Trợ Bồ Ðề
5. Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Các Tầng Thiền Minh Sát
6. Ngay Trong Kiếp Sống Này - Sadadaw U - Niết Bàn
7. Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Bảy Pháp Trợ Bồ Đề Chướng Ngại và Pháp Đối Trị Tóm Lược Cách Trình Pháp
Thật vậy, chỉ những người nào tự thân thưởng thức được hương vị của Niết Bàn mới có thể nói đến Niết Bàn một cách xác tín. Tuy nhiên, cũng có những cách suy đoán, diễn dịch về vấn đề Niết Bàn một cách rõ ràng đối với những người đã đạt được nhiều kinh nghiệm sâu xa trong việc hành thiền và đang vững tiến trên con đường đi đến Niết Bàn.
Những người nghĩ rằng Niết Bàn là một loại thân và tâm đặc biệt, sự suy nghĩ này cũng không vững và vô căn cứ. Có bốn loại chân đế mà chúng ta có thể kinh nghiệm một cách trực tiếp, không qua khái niệm, suy nghĩ, lý luận. Bốn loại chân đế này là: Sắc pháp, tâm vương, tâm sở và Niết Bàn . Như vậy, Niết Bàn không phải là danh, không phải là sắc, không phải vừa danh vừa sắc.
Ý niệm sai lầm thứ hai cho rằng Niết Bàn là phần còn lại sau khi thân tâm bị hủy diệt. Ðiều này cũng không đúng. Niết Bàn là chân đế, và được xếp loại là hiện tượng bên ngoài danh sắc chớ không phải là hiện tượng bên trong danh sắc. Như vậy, không có gì tồn tại trong cơ thể sau khi thân và tâm đã bị hủy diệt.
Niết Bàn cũng không thể kinh nghiệm qua các giác quan. Không thể dùng mắt để thấy, dùng tai để nghe, dùng mũi để ngửi, dùng thân để xúc chạm. Niết Bàn không phải là đối tượng của giác quan. Thế nên, không thể ghép vào một trong những lạc thú do giác quan đem lại dầu cho những lạc thú này có đặc biệt đến đâu chăng nữa. Niết Bàn là một hạnh phúc không liên quan gì đến ngũ căn, ngũ trần.
Ngay từ thời Ðức Phật đã có nhiều bàn cãi về bản chất của Niết Bàn. Một lần nọ một vị trưởng lão bàn cãi về hạnh phúc của Niết Bàn với một số các tỳ kheo khác trong chùa. Một thầy tỳ kheo đứng dậy thưa: "Bạch hòa thượng, nếu Niết Bàn không thể dùng ngũ quan để nhận biết thì có gì là hạnh phúc?"
Vị trưởng lão trả lời: "Chính vì không có cảm giác trong Niết Bàn cho nên nó mới là hạnh phúc thật sự." Câu trả lời này chẳng khác nào một câu đố. Tôi không biết có ai trong các bạn trả lời được câu đố này không. Nếu bạn không tìm được câu trả lời, tôi sẽ lấy làm hoan hỉ trả lời cho bạn điều này.
Các Tai Hại Của Dục Lạc Ngũ Trần
Trước tiên, chúng ta hãy nói về dục lạc ngũ trần. Dục lạc ngũ trần thật là phù du và hư ảo, chợt đến rồi chợt đi. Phải chăng đó là hạnh phúc thật sự khi cứ mải săn đuổi một cái gì mong manh, chóng tàn, thay đổi luôn luôn.
Hãy nhìn xem biết bao nhiêu phiền toái khó khăn mà bạn gặp phải khi bạn cứ mãi đi tìm những cảm giác mới mẻ, lạ lùng mà bạn nghĩ rằng sẽ đem lại hạnh phúc cho bạn. Nhiều người quá ham muốn hưởng lạc thú nên đã có những hành vi phạm pháp, gây ra những tội ác tày trời khiến người khác phải đau khổ. Họ chỉ nghĩ đến lạc thú tạm bợ của giác quan mà quên đi sự đau khổ của người khác. Họ không hiểu được những hậu quả tai hại, những kết quả thảm khốc họ phải gặt hái sau này do những tội ác họ đã gây ra. Một số khác, khôn ngoan hơn, biết so sánh giữa những lạc thú phù du thoáng qua trong chốc lát với những hậu quả tai hại phải gặt hái sau này nên không chạy theo những cái tạm bợ hư ảo như thế.
Một người tinh tấn hành thiền sẽ thực sự nếm được hương vị của một thứ hạnh phúc ngọt ngào hơn hẳn mọi lạc thú do ngũ dục đem lại. Như chúng ta đã biết, mỗi tầng Thiền Minh Sát đều có sự an lạc hạnh phúc riêng. Tầng Thiền Minh Sát thứ nhất đem lại hạnh phúc của sự ẩn cư. Tầng thiền thứ hai đem lại hạnh phúc của sự định tâm. ở tầng thiền này, thiền sinh có nhiều hỉ. Tầng thiền thứ ba đem lại một sự vừa lòng, vi tế, nhẹ nhàng, tâm không còn dính mắc nhiều vào hỉ mà có lạc, đạt được sự an lạc, nhẹ nhàng, êm dịu hơn. Tầng thiền thứ tư là tầng thiền thâm sâu nhất. Ðó là hạnh phúc xả thọ. Bản chất của tầng thiền này là sự bình an tĩnh lặng. Tất cả bốn loại hạnh phúc này được gọi là hạnh phúc khước từ. Hạnh phúc trong sự xa rời các pháp bất thiện và phiền não.
Tuy nhiên, hạnh phúc bình an tĩnh lặng của Niết Bàn còn cao hơn hai loại hạnh phúc khước từ và hạnh phúc do ngũ dục đem lại. Bản chất của Niết Bàn hoàn toàn khác hẳn với hai loại hạnh phúc trên. Hạnh phúc của Niết Bàn chỉ thật sự đến khi thân tâm dừng nghỉ hoạt động. Ðó là hạnh phúc của sự diệt tắt đau khổ. Ðây cũng là một hạnh phúc độc lập không liên quan gì đến các đối tượng của giác quan. Thật vậy, Niết Bàn chỉ đến khi không còn sự tiếp xúc với mọi đối tượng của giác quan.
Nhiều người nghĩ rằng hạnh phúc là sự hưởng thụ những cái gì về vật chất chẳng hạn như: vào những dịp nghỉ, tổ chức một bữa ăn ngoài trời, hoặc đi tắm hồ, hay đi dự tiệc, dự những buổi khiêu vũ, những buổi hoà nhạc. Họ làm sao hiểu được những hạnh phúc phi vật chất, những hạnh phúc vượt lên trên các loại hạnh phúc tầm thường cảm nhận từ giác quan. Ðối với họ, sự đẹp đẽ chỉ có ý nghĩa thật sự khi có mắt, có vật đẹp để ngắm. Họ cũng có thể nghĩ rằng nếu có mùi thơm mà không có mũi, không có thức nhận biết mùi, làm sao có thể hưởng được hương vị đó? Họ có thể băn khoăn, thắc mắc tại sao có người bày đặt ra cảnh Niết Bàn kỳ dị đến thế! Họ có thể lý luận rằng Niết Bàn là một cái chết thật kỳ bí, một điều thật kinh khủng. Con người rất sợ viễn ảnh về sự trống rỗng hư vô.
Một số khác nghi ngờ sự hiện hữu của Niết Bàn. Họ cho rằng Niết Bàn chỉ là giấc mơ của chàng thi sĩ, hoặc Niết Bàn chẳng là gì cả thì làm sao có thể tốt đẹp hơn những hạnh phúc của trần gian.
Niềm vui khó tả - Giấc ngủ của nhà triệu phú
Chúng ta hãy tưởng tượng rằng có một nhà triệu phú. Ông ta có thể hưởng được mọi lạc thú trần gian mà ông ta muốn. Một hôm, vị triệu phú đang ngủ say. Trong khi đó, người đầu bếp nấu xong thức ăn ngon lành và bày biện trên bàn. Thức ăn đã dọn sẵn và đã đến giờ ăn, nhưng vị chủ nhân còn ngủ say. E rằng đồ ăn sẽ nguội lạnh mất ngon nên người đầu bếp nhờ một người giúp việc vào đánh thức nhà triệu phú dậy. Bạn hãy thử đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra? Liệu rằng nhà triệu phú vui vẻ bước xuống giường để ngồi vào bàn ăn, hay người giúp việc vắt giò lên cổ chạy để tránh cơn thịnh nộ của ông chủ sắp giáng xuống đầu?
Khi người triệu phú đang say giấc nồng thì chẳng còn biết gì đến hoàn cảnh chung quanh. Dầu cho phòng ngủ có được trang hoàng đẹp đẽ và nên thơ đến đâu thì ông ta cũng chẳng thấy được gì. Dầu tiếng nhạc lời ca có vang lừng đến tậng tầng mây; ông ta cũng như người điếc. Dầu hương thơm có ngào ngạt đến đâu chăng nữa thì ông ta cũng chẳng nhận ngửi thấy gì. Rõ ràng là khi ngủ ngon, thì dầu cho chiếc giường có êm ấm đẹp đẽ đến đâu, ông ta cũng chẳng hề biết đến. Khi ngủ ngon ông ta cũng chẳng có cảm giác hay biết mình nằm ở đâu.
Qua thí dụ trên, bạn có thể thấy rằng hạnh phúc của sự ngủ say chẳng liên quan gì đến các đối tượng của giác quan, hay pháp trần. Mọi người dù giàu hay nghèo đều cảm thấy thích thú sau khi thức dậy từ một giấc ngủ say. Chúng ta, ai cũng có thể có một số hạnh phúc an lạc nào đó khi ngủ ngon. Mặc dầu hạnh phúc an lạc này thật khó có thể diễn tả hay so sánh; tuy vậy, chúng ta cũng không thể nào phủ nhận cái hạnh phúc an lạc trong giấc ngủ say này. Cũng vậy, Ðức Phật hay những vị Thánh đã thấy rõ giáo pháp thì họ sẽ hiểu rõ một loại hạnh phúc khó diễn tả nhưng không thể phủ nhận được, và chúng ta có thể đoán chắc rằng nó có thật.
Nếu có được một giấc ngủ say, ngon triền miên, bạn có thích không? Những ai không thích một loại hạnh phúc đến từ giấc ngủ say như vậy thì khó có thể có gì để so sánh với Niết Bàn. Những ai không muốn cái hạnh phúc vượt ngoài kinh nghiệm của giác quan thì họ sẽ bị dính mắc vào lạc thú của ngũ trần. Sự dính mắc này do ở lòng tham ái, mà lòng tham ái là cội rễ của các đối tượng giác quan.
Gốc rễ của mọi rắc rối
Nếu chúng ta chịu khó để ý xem xét những điều xảy ra trên hành tinh này thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra rằng mọi vấn đề trên thế gian có gốc rễ từ những ham muốn dục lạc ngũ trần. Vì con người muốn tiếp tục hưởng thụ hạnh phúc của dục lạc ngũ trần lâu dài nên gia đình thành hình. Gia đình thành hình thì mọi thành viên trong gia đình phải ra ngoài xã hội và phải làm quần quật suốt ngày để kiếm ăn chớ không thể ngồi uống nước lã nhìn nhau. Cũng vì nhu cầu hưởng thụ dục lạc mà gây ra những mối bất hoà trong gia đình. Cũng vì nhu cầu hưởng thụ dục lạc mà bạn bè hàng xóm không thể cư xử tốt đẹp, hoà thuận với nhau. Cũng vì dục lạc ngũ trần mà thị trấn này, thành phố nọ bất đồng ý kiến với nhau. Cũng vì dục lạc ngũ trần mà xứ này chống lại xứ kia, quốc gia này gây hấn, tranh chấp, tương tàn với quốc gia khác. Cũng vì dục lạc ngũ trần mà biết bao nhiêu điều khó khăn, đau khổ, xáo trộn, rối rắm, phiền toái xảy ra trên thế giới, rồi con người trở nên dã man, tàn ác, độc dữ và mất hẳn nhân tính.
Hát lên bài ca tán dương sự không cảm thọ
Nhiều người nói chúng ta được sanh làm người, những gì chúng ta có được là những lạc thú trên thế gian. Tại sao chúng ta đi hành thiền rồi đạt đến chỗ hư vô, chẳng có chút lạc thú trần gian nào cả? Ðối với những người như vậy, bạn có thể đặt cho họ một câu hỏi đơn giản: Anh hay chị có thể ngồi, ngồi hoài, ngồi mãi để xem một cuốn phim chiếu đi chiếu lại suốt ngày không? Anh hay chị có thể nghe hoài, nghe mãi giọng nói của người mình thương không? Nếu bạn nghe mãi cái giọng nói du dương êm ái đó, thì điều gì sẽ xảy ra? Bộ anh chị không chán sao? Dục lạc ngũ trần không phải là một cái gì đặc biệt đến nỗi bạn say mê hưởng thụ mà không cần một chút nghỉ ngơi, cứ tận hưởng, tận hưởng mãi không thôi?
Hạnh phúc vượt ra ngoài kinh nghiệm, vượt ra ngoài dục lạc vật chất thì cao thượng, tốt đẹp, êm đềm, tinh tế hơn mọi dục lạc ngũ trần khác. Trên đây, ta đã so sánh hạnh phúc của giấc ngủ ngon với hạnh phúc của Niết Bàn. Giấc ngủ chỉ là trạng thái tâm tiềm thức, hay luồng hộ kiếp. Lúc ngủ tâm rất nhẹ nhàng, vi tế. Bởi vì đối tượng của tâm lúc ngủ cũng nhỏ xíu, vi tế, nên khi ngủ dường như chúng ta không nhận biết được gì cả. Nhưng thật ra, hạnh phúc của Niết Bàn, hạnh phúc không tùy thuộc vào ngũ dục còn trăm ngàn lần tuyệt diệu hơn hạnh phúc có được trong lúc ngủ say.
Ðối với những vị A Na Hàm và A La Hán, những vị đã có kinh nghiệm thâm sâu về Niết Bàn, khi nhập vào diệt thọ tưởng định, họ đạt được sự dừng nghỉ lớn lao. ở đó không có thân hay tâm; không có tâm vương cũng không có tâm sở. Những hình thức vi tế nhất của thân cũng không hiện khởi. Khi vị A Na Hàm hay vị A La Hán bước ra khỏi trạng thái này, họ sẽ tán thán những hạnh phúc vượt ngoài kinh nghiệm giác quan.
Ðây là một phần của lời tán thán, "Kỳ diệu thay, Niết Bàn, nơi mà mọi đau khổ của thân tâm này hoàn toàn diệt hẳn. Khi mọi đau khổ vắng bóng, tâm ta an lạc thanh tịnh làm sao."
Niết Bàn của chư Phật
Ðức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường đến nơi hạnh phúc tối thượng. Hạnh phúc tối thượng này là Niết Bàn. Tất cả Chư Phật đã và sẽ xuất hiện trên thế gian này đều nhằm mục đích chỉ cho chúng ta thấy rõ con đường đến Niết Bàn. Một trong những danh hiệu của Ðức Phật là Chánh Biến Tri (Samma sambuddha) Samma có nghĩa là hoàn hảo, đúng đắn, và Ðức Phật là kẻ độc nhất hiểu được bản chất thật sự của mọi vật, nghĩa là hiểu rõ thực tướng của tất cả mọi vật. Chân lý luôn luôn đúng. Con người không hiểu chân lý hay hiểu sai về chân lý, nhưng Ðức Phật không bao giờ sai lầm. Tiếp vĩ ngữ sam- có nghĩa là cá nhân, tự thân hay bởi chính mình, và buddha có nghĩa là giác ngộ. Ðức Phật giác ngộ bằng sự cố gắng của chính mình. Ngài không nhận lãnh sự giác ngộ từ một đấng quyền uy nào, và cũng không lệ thuộc vào bất kỳ một ai. Bởi thế, Niết Bàn mà chúng ta nói đến là Niết Bàn đã được Ðấng Chánh Biến Tri, Ðấng Ðại Giác công bố.
Thoát Khỏi Lo Âu Phiền Muộn
Một đặc tính khác của Niết Bàn là thoát khỏi lo âu phiền muộn. Phần lớn con người thường lo âu phiền muộn. Hãy tưởng tượng xem nếu không có phiền muộn lo âu thì tuyệt diệu biết mấy. Niết Bàn còn được gọi là viraga. Viraga có nghĩa là thoát khỏi bụi bặm và ô nhiễm. Như chúng ta biết, bụi bặm khiến mọi vật dơ bẩn và làm hại sức khỏe của chúng ta. Mối nguy hại lớn lao hơn nữa, đó chính là sự ô nhiễm của phiền não. Tâm ta luôn luôn bị đủ các loại phiền não quấy nhiễu. Tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, ngã mạn, tật đố, bỏn xẻn... Bị tràn ngập bởi những bụi bặm ô nhiễm như vậy thì tâm ta làm sao trong sạch thanh tịnh? Chỉ có Niết Bàn mới thật sự thoát khỏi mọi phiền não ô nhiễm.
An toàn tuyệt đối
Một đặc tính khác của Niết Bàn là khema hay an toàn, an ninh. Chúng ta phải luôn luôn đối đầu với muôn ngàn nguy hiểm. Tai nạn thảm khốc, kẻ thù chực chờ cơ hội làm hại, thuốc độc nguy hiểm, v.v... Trong thời đại khoa học siêu tối tân hiện nay, chúng ta luôn luôn sống trong nỗi lo âu sợ hãi về những mối hiểm nguy do các phát minh mới, những vũ khí hiện đại, tối tân đem lại. Nếu chẳng may chiến tranh xảy ra và vũ khí nguyên tử được đem ra xử dụng thì chúng ta sẽ chẳng có cơ hội sống còn. Không nơi nào chúng ta có thể trốn khỏi mọi hiểm nguy và bất an. Chỉ có Niết Bàn là nơi hoàn toàn thoát khỏi mọi mối hiểm nguy, nơi an toàn duy nhất.
Theo kinh điển, hạnh phúc của Niết Bàn là một loại hạnh phúc không pha lẫn phiền não. Trong hạnh phúc của ngũ dục luôn luôn chất chứa tham ái. Giống như khi nấu một món ăn, bạn phải nêm thêm gia vị, không có gia vị thì món ăn sẽ nhạt nhẽo vô duyên. Cũng vậy, hạnh phúc ngũ dục nếu không có tham ái, ước muốn, mong mỏi thì chẳng có ý nghĩa gì. Dầu có thức ăn ngon, có áo quần đẹp và có mọi khoái lạc trần gian khác, nhưng ta không muốn ăn, không muốn mặc, không muốn thưởng thức, thì những cái đó cũng trở thành vô dụng mà thôi. Tóm lại, chỉ có Niết Bàn là nơi hạnh phúc tuyệt diệu. Vì không còn trộn lẫn với các loại tạp nham khác nên Niết Bàn được gọi là parisuddhi sukha, có nghĩa là hạnh phúc trong sạch, tinh khiết.
Muốn có được hạnh phúc trong sạch tinh khiết này, chúng ta phải tu trì giới, định, huệ. Liên tục cố gắng giữ thân, khẩu, ý trong sạch, chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc Niết Bàn .
Mong rằng các bạn sẽ luôn luôn nỗ lực tinh tấn hành thiền để đạt đến Niết Bàn, một hạnh phúc thanh khiết, trong sáng, an toàn, thoát khỏi mọi lo âu phiền muộn.
Một lần nọ Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Kỳ Viên gần thành Xá Vệ. Vào lúc nửa đêm, một vị trời và đoàn tùy tùng vào khoảng một ngàn vị đến gặp Ðức Phật. Mặc dầu ánh sáng của chư thiên tràn ngập chùa Kỳ Viên, nhưng những người thường không thấy được họ. Sau khi đảnh lễ Ðức Thế Tôn, vị trời khóc lóc bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn, cõi trời thật ồn ào. Các vị tiên nữ luôn luôn huyên náo ầm ĩ. Họ nhảy tung tăng đùa cỡn chẳng khác nào lũ ngạ quỷ. Thật là khổ sở và phiền não khi phải sống một nơi như vậy. Xin Ngài chỉ cho con cách thoát ly."
Ðó là một lời nói bất thường phát ra từ một vị trời. Cõi trời được xem là một nơi đầy vui vẻ thích thú. Các vị trời chỉ ăn chơi đàn hát, chẳng biết đau khổ là gì. Làm sao lại có thể so sánh cõi an vui này với cõi ngạ quỷ, nơi đó chúng sanh sống trong đau khổ, lầm than. Nhiều con ngạ quỷ có bụng to như cái trống nhưng miệng nhỏ như cây kim nên bị đói khát triền miên.
Ðức Phật dùng huệ nhãn xem xét kiếp quá khứ của vị trời. Ngài biết rằng vừa mới đây, vị trời này là một thanh niên trẻ tuổi, một người thực hành giáo pháp. Thanh niên trẻ tuổi này có nhiều đức tin nơi những lời dạy dỗ của Ðức Phật nên chàng ta đã trở thành một vị sư. Sau thời gian ở cùng thầy trong năm năm, học xong giới luật và kinh điển, hiểu rõ cách hành thiền, vị Sư trẻ vào rừng sống độc cư để thực hành giáo pháp. Với nhiệt tâm trở thành một vị A La Hán nên Sư tận lực hành thiền. Sư nỗ lực thực hành suốt ngày đêm, bỏ cả ngủ và không còn thiết tha gì đến việc ăn uống. Vì thế mà sức khỏe của vị Sư trẻ suy yếu. Hơi tích tụ trong bụng nhà Sư làm nhà Sư đau nhức như dao cắt. Thế nhưng vị Sư vẫn bền chí thực hành không thay đổi. Bịnh ngày một trầm trọng cho đến nỗi một ngày nọ, trong lúc đang kinh hành, vị Sư ngã ra chết.
Vị Sư tức khắc tái sinh vào cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Thình lình như tỉnh từ một giấc mộng, vị Sư trong một bộ áo quần đẹp đẽ đang đứng trước cổng một dinh thự lộng lẫy. Bên trong tòa lâu đài, một ngàn tiên nữ dung nhan diễm lệ đang đón chờ. Các nàng tiên vui vẻ khi thấy chủ mình xuất hiện ở cổng. Họ reo to và đem nhạc cụ ra đón mừng. Trong khi đó, vị Sư không biết rằng mình đã chết và đã tái sinh. Nghĩ rằng tất cả các vị trời chỉ là thiện tín đến thăm viếng, nhà Sư cúi đầu nhìn xuống đất, và trong một cử chỉ khiêm cung, kéo vạt áo che vai.
Thấy cử chỉ của vị chủ nhân mới, các cô tiên nữ hiểu ra mọi lẽ và nói lớn: "Bây giờ ngài đang ở cõi trời rồi, không phải là lúc tham thiền nữa. Hãy vui chơi, đàn hát, nhảy múa đi thôi". Vị trời mới nghe mà không để tâm gì đến ý nghĩa của lời nói vì ông ta đang Chánh Niệm trong sự thu thúc lục căn. Ông ta chỉ biết có âm thanh đến rồi đi mà chẳng biết âm thanh gì. Một nàng tiên bèn đi vào trong tòa lâu đài, mang ra một tấm gương lớn. Vị trời mới hoảng kinh khi thấy mình không còn là một vị Sư nữa. Không một nơi nào trên cõi trời có đủ yên tĩnh để hành thiền. Vị trời mới tự nhủ: "Ta bị mắc bẫy rồi. Lúc ta rời xa gia đình, đắp y mang bát là mong đạt được sự an lạc cao thượng, A La Hán. Bây giờ ta ở chốn này. Ta chẳng khác nào một võ sĩ thượng đài mong được huy chương vàng mà cuối cùng chỉ nhận được một bó rau muống. Vị cựu tỳ khưu sợ hãi đến nỗi không dám bước chân vào cổng lâu đài vì ông ta biết rằng tâm mình không đủ mạnh để thắng các lạc thú ở cõi trời. Các lạc thú ở cõi trời có sức hấp dẫn gấp trăm ngàn lần cõi người. Bỗng nhiên vị trời mới nghĩ ra rằng, là một vị trời thì ông ta có đủ năng lực để thăm viếng cõi người, nơi Ðức Phật đang giảng dạy. Ý nghĩ này khiến vị trời mới vui mừng và nghĩ: "Ta có thể sinh lên cõi trời một cách dễ dàng, nhưng cơ hội để gặp được Ðức Phật thật hiếm hoi".
Ý nghĩ vừa mới thoáng qua, vị trời mới và cả ngàn tiên nữ đã có mặt tại nơi Ðức Phật ngự. Vị trời đến gần Ðức Phật cầu xin Ngài giúp đỡ. Ðức Phật biết vị trời mới thiết tha với việc hành thiền nên Ngài dạy như sau: "Này vị trời, hãy đi thẳng trên con đường mà ngươi đã bước. Con đường này sẽ dẫn ngươi đến chỗ an toàn, thoát khỏi mọi sợ hãi. Ðó là mục tiêu của ngươi. Ngươi sẽ ngồi trên một chiếc xe hoàn toàn yên tịnh. Hai bánh xe là Tinh tấn thể chất và Tinh tấn tinh thần. Hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi là chỗ tựa lưng. Chánh Niệm là vỏ xe bọc sắt. Chánh Kiến là người đánh xe. Bất kỳ người nào, nam hay nữ, có được chiếc xe như vậy và khéo điều khiển chắc chắn sẽ đến Niết Bàn ".
Sinh về cõi Trời có gì là sai?
Câu chuyện của thầy tỳ khưu chư thiên được rút ra từ Samyutta Nikaya, một bộ kinh đề cập nhiều đến việc hành thiền. Chúng ta sẽ nghiên cứu từng bước một. Câu thắc mắc đầu tiên của bạn là tại sao người ta than phiền về việc tái sanh ở cõi trời? Dù sao cõi trời cũng là nơi mà tiệc vui không tàn, đời sống hoan lạc, tuổi thọ lâu dài, cơ thể tuyệt hảo và bao quanh là các dục lạc tràn đầy.
Chẳng cần phải chết và tái sanh để hiểu rõ cõi trời. Cõi trời nằm ngay ở thế gian này. Ðâu phải cõi trời là nơi có hạnh phúc vĩnh viễn! Hoa Kỳ chẳng hạn. Là một nước tiên tiến, các phương tiện vật chất đầy đủ, bạn có thể hưởng thụ đầy đủ các dục lạc tại đó. Bạn có thể thấy những người đang say sưa và chết chìm trong xa hoa và dục lạc, bạn tự hỏi xem những người như thế có bao giờ nghĩ đến việc tìm kiếm cái gì sâu xa hơn không? Có bao giờ cố gắng tìm kiếm chân lý của cuộc sống này không? Họ có thật sự hạnh phúc chăng?
Khi còn là một con người, vị trời mới này có đức tin trọn vẹn vào những lời dạy của Ðức Phật, và biết rằng hạnh phúc cao nhất là hạnh phúc giải thoát do sự thực hành giáo pháp đem lại, thế nên vị trời này đã từ bỏ những lạc thú tạm bợ của thế gian để trở thành vị tỳ khưu. Ông ta đã tận lực cố gắng để trở thành một vị A La Hán. Thật vậy, ông ta đã nỗ lực cố gắng đến nỗi phải bỏ thân mạng vào lúc tuổi còn trẻ trung. Bỗng nhiên ông thấy mình lại trở về nơi tràn đầy dục lạc mà mình đã cố gắng tránh xa. Bạn có thể thông cảm được nỗi thất vọng của ông chăng?
Chết thì chẳng có gì lạ. Ðó chỉ là sự thay đổi của thức. Không có một thức nào giữa hai thức tử và sinh. Không phải như ở cõi người, sự sinh ở cõi trời xảy ra tức thời và không đau đớn gì cả. Bởi thế, thiền sinh không bị mất sự liên tục thiền, không mất đà khi từ một đời sống này chuyển sang một đời sống khác, và do đó, chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy vị trời mới than phiền về sự ồn ào của cõi trời. Khi bạn đang hành thiền và tâm đang tập trung vào đề mục một cách sâu xa, bạn sẽ khổ sở biết bao khi tiếng động phát sinh. Thử tưởng tượng xem, bạn đang ngồi thiền và đang đạt đến tình trạng thật bình an tĩnh lặng, bỗng nhiên điện thoại reo vang. Ngay lúc đó, toàn giờ định tâm của bạn bị tan tành. Nếu bạn đã từng trải qua điều này, bạn sẽ hiểu rõ nỗi khổ tâm của vị trời mới. Thảo nào, vị trời mới so sánh cõi trời với chốn ngạ quỷ. Khi điện thoại reo, dầu đó là điện thoại của một người bạn thân, không biết bạn có bực mình và nguyền rủa không. Dĩ nhiên, khi bạn tiến bộ đến một mức cao hơn, bạn sẽ không còn bị quấy động bởi những đối tượng bên ngoài như tiếng động chẳng hạn.
Trong bản kinh Pali, có một sự lý thú trong việc dùng chữ. Vị trời mới của chúng ta đang ở trong một khu vườn đặc biệt tại cung trời có tên là Nandana Vana, nơi nổi tiếng vui và đẹp. Nhưng khi hầu Phật, vị trời của chúng ta lại đặt cho nó một tên mới là mohana. Chữ mohana rút ra từ chữ moha là si mê, một nơi làm cho tâm bị hỗn loạn và bối rối.
Đường lối khước từ
Là một thiền sinh, chắc các bạn hiểu rõ rằng càng nhiều dục lạc bao nhiêu càng khiến bạn khó tập trung tâm ý bấy nhiêu. Dĩ nhiên, không phải mục đích của tất cả thiền sinh đều giống nhau. Có thể bạn muốn trở thành một vị A La Hán, cũng có thể bạn muốn các mục tiêu thấp hơn. Dầu cho mục tiêu hướng đến của bạn là gì, bạn cũng đánh giá cao sự định tâm và sự bình an tĩnh lặng do việc hành thiền đem lại. Ðể đạt được những thành quả này, bạn cần phải có một số khước từ. Mỗi giờ ngồi thiền là bạn đã khước từ một giờ truy tầm lạc thú trần gian. Nhưng bạn dám làm như vậy vì bạn thấy rõ giá trị của sự khước từ, cũng như thấy rõ nỗi đau khổ trong việc truy tầm lạc thú thế gian. Nếu tham dự những khóa thiền lâu hơn, bạn đã bỏ lại sau lưng nhà cửa, tài sản, những người thương yêu và thì giờ nhàn rỗi. Thật vậy, bạn đã hy sinh tất cả cho việc hành thiền.
Mặc dầu vị trời mới của chúng ta than phiền về những điều kiện ở cõi trời, nhưng vị trời này không đánh giá thấp đời sống ở cõi trời. Ông ta chỉ thất vọng vì không đạt được mục tiêu mong muốn, giống như một người làm một công việc với kỳ vọng thâu được một ngàn đồng. Người này tận lực cố gắng bỏ ăn quên ngủ để làm nhưng cuối cùng chỉ thâu về năm mươi đồng. Không phải người này xem nhẹ năm mươi đồng, nhưng ông ta thất vọng vì mục đích lớn lao của mình không đạt được.
Cũng vậy, người thiền sinh này tự giận mình và so sánh mình với một võ sĩ, sau khi thượng đài mong nhận được huy chương vàng nhưng chẳng nhận được gì. Những nàng tiên trong lâu đài của vị trời mới cũng cảm thông với hoàn cảnh của chủ mình, và họ cũng cảm thấy ích lợi lớn lao khi theo vị trời mới xuống trần gian. Và khi gặp Ðức Phật, nghe những lời giáo huấn của Ngài, tất cả đều đã được hưởng lợi lạc.
Khi bạn vững chãi trên giáo pháp của Ðức Phật, thì sự ưa thích hành thiền sẽ theo bạn tới bất cứ nơi nào bạn đến, ngay cả cõi trời. Nếu bạn không có đức tin vững chãi vào Giáo Pháp thì chẳng bao lâu sau những lạc thú của những nơi bạn mới đến sẽ trói buộc bạn. Và như thế là sự nghiệp hành thiền của bạn chấm dứt.
Vững chãi trong việc hành thiền
Chúng ta thử tìm hiểu tại sao vị thiền sinh này trở nên vững chải trong việc hành thiền. Trước khi sống độc cư trong rừng, thầy tỳ khưu này đã ở với thầy trong năm năm và sống trong cộng đồng tăng chúng. Nhà Sư đã làm tròn phận sự của mình trong các công việc nhỏ lớn đối với thầy; đã được chỉ dẫn cách hành thiền và giữ gìn trọn vẹn giới luật. Mỗi năm nhà Sư nhập hạ ba tháng và sau đó đã dự một buổi họp mặt truyền thống, trong đó các nhà Sư nêu lên và sửa chữa cho nhau các khuyết điểm đã phạm trong tinh thần từ bi để mỗi người có thể thấy được lỗi lầm của mình hầu bổ khuyết để trở thành một nhà Sư hoàn hảo trong tư cách và phẩm hạnh.
Quãng đời quá khứ của nhà Sư là một gương sáng cho các thiền sinh. Mọi thiền sinh phải cố gắng theo gương nhà Sư này để giữ giới luật cho đến khi giới hạnh hoàn toàn trong sạch và trở thành một phần của đời sống mình. Chúng ta cũng phải biết trách nhiệm của cá nhân đối với mọi người khi chúng ta sống chung đụng trong xã hội này. Chúng ta phải biết làm thế nào để giao tiếp với người khác trong tinh thần hòa ái và hỗ trợ. Là một thiền sinh, chúng ta phải nương vào thiền Sư cho đến khi hoàn toàn đạt được các tuệ minh sát.
Phân biệt cốt tủy và sự hời hợt bề mặt
Vị tỳ khưu này có đức hạnh cao quí: Hoàn toàn nhiệt thành và ủy thác mình cho giáo pháp, nỗ lực để đạt cho kỳ được chân lý tối hậu. Các chuyện khác đối với thầy đều là thứ yếu. Hiểu rõ những gì là tinh túy và những gì là giả tạo, hời hợt bề ngoài nên thầy tránh những hoạt động bên ngoài và dành thật nhiều thời giờ để Chánh Niệm.
Ðể có nhiều thời giờ hành thiền, ta nên hạn chế bớt trách nhiệm của mình. Vào những lúc phải đảm nhận các công việc khác, ta có thể nhớ đến chuyện Con Bò Mẹ sau đây. Như ta biết, bò luôn luôn bận rộn nhai cỏ. Chúng ăn suốt ngày. Một con bò mẹ có một con bê thật dễ thương. Bò con hay nhảy nhót tinh nghịch. Nếu bò mẹ nhai cỏ mà không nghĩ đến bê con, bê con sẽ chạy đi xa và gặp nhiều rắc rối. Nhưng nếu bò mẹ bỏ việc nhai cỏ mà chỉ lo chăm sóc bê con thì bò mẹ phải nhai cỏ suốt đêm. Thế nên bò mẹ vừa nhai cỏ vừa để ý đến con. Một thiền sinh khi phải làm một việc gì thì nên bắt chước thái độ của bò mẹ. Hãy làm việc nhưng lưu ý đến giáo pháp một chút, đừng để tâm chạy đi quá xa.
Bạn biết rằng thầy tỳ khưu này là thiền sinh chăm chỉ và tinh cần. Trừ giờ ngủ ra, lúc nào thầy cũng cố gắng Chánh Niệm. Ðức Phật cho phép các thầy tỳ khưu ngủ bốn tiếng vào canh hai mỗi đêm, nghĩa là được ngủ từ mười giờ tối đến hai giờ sáng. Nhưng thầy tỳ khưu của chúng ta không nghĩ gì đến chuyện ngủ. Thêm vào đó, thầy bỏ ăn uống, nỗ lực hành thiền ngày đêm không thối chuyển.
Tôi không đề nghị các bạn nên bỏ ăn, bỏ ngủ. Tôi chỉ muốn các bạn học hỏi đức nhiệt thành Tinh tấn của thầy tỳ khưu. Trong lúc hành thiền tích cực, nếu có thể, bạn nên ngủ bốn tiếng theo lời dạy của Ðức Phật. Ngủ nhiều sẽ làm bạn mụ người đi. Về thực phẩm, bạn phải ăn đầy đủ để có sức khỏe làm việc hằng ngày và hành thiền, nhưng đừng ăn quá nhiều đến nỗi sanh ra buồn ngủ. Câu chuyện của thầy tỳ khưu này cho ta thấy cần phải ăn uống đầy đủ để có sức khỏe.
Một người chết trong lúc hành thiền hay trong lúc đang thuyết pháp có thể xem như một vị anh hùng, chết dũng cảm ngoài chiến địa. Thầy tỳ khưu của chúng ta đã chết trong lúc đang Tinh tấn kinh hành. Lúc tỉnh dậy thì thầy đang ở cõi trời. Cũng vậy, bạn sẽ sanh về cõi trời nếu chết trong lúc đang hành thiền dầu bạn chưa đắc quả.
Ngay cả khi được tái sanh một cách thuận lợi, bạn vẫn ước muốn một con đường thoát ly, con đường hoàn toàn giải thoát và an toàn. Thấy mình đang ở cõi trời, thầy tỳ khưu lo sợ vì biết mình khó có thể thắng được các dục lạc ở đây. Nếu thầy bước chân vào cổng lâu đài, giới luật của thầy có thể sẽ bắt đầu rạn nứt. Giác ngộ đạo quả vẫn là mục đích ưu tiên nên thầy vẫn giữ gìn giới luật và đến chùa Kỳ Viên để gặp Phật và nghe lời chỉ giáo của Ngài.
Những lời dạy thiết thực và hữu ích của Đức Phật
Ðức Phật trả lời câu hỏi của vị trời mới một cách ngắn gọn hơn bình thường. Mỗi lần Ðức Phật dạy cho ai, Ngài thường dạy từng bước một. Bắt đầu với Giới, sau đó là Ðịnh và Chánh Kiến về nghiệp quả trước khi nói đến Thiền Minh Sát. Ngài rất khéo léo và thiện xảo trong việc giảng dạy. Như một họa sĩ dạy cho người học trò mới, vị thầy không thể bảo người học trò cầm bút lên vẽ ngay. Bài học đầu tiên mà người học trò phải học là cách căng khung vải để vẽ vì không thể vẽ vào khoảng trống không. Cũng như trước khi hành Thiền Minh Sát phải hiểu giới luật và giáo lý, đặc biệt là luật nhân quả. Một vài trường thiền không chú trọng đến giới luật và giáo lý căn bản, nhất là luật nhân quả, nên chỉ một số ít, đã có căn bản trước, đạt được kết quả.
Ðức Phật cũng đưa ra lời chỉ dẫn tùy theo xu hướng, nghề nghiệp và quá khứ của thiền sinh. Ngài biết rằng vị trời mới này đã là một nhà Sư thuần thục và là một thiền sinh trước đây đã giữ gìn giới luật tinh nghiêm. Ngay cả lúc sinh về cõi trời Tam Thập Tam Thiên, vị trời mới vẫn giữ gìn giới luật tỳ khưu một cách chặt chẽ.
Tiếng Pali gọi những người lo tròn bổn phận và chăm chỉ là karaka. Thầy tỳ khưu của chúng ta cũng là một karaka đúng nghĩa. Thầy không phải là một thiền sinh theo danh hiệu mà thôi, cũng không phải là một học giả hay một người mơ mộng và đầy tưởng tượng, một người lười biếng, ngơ ngáo trước những gì đang diễn ra. Thầy là một người đầy đủ sự tinh cần và nghiêm túc, đi trên đường giải thoát với lòng nhiệt thành. Ðức tin sâu xa và sự nhiệt thành tin tưởng vào việc thực hành đã hỗ trợ cho khả năng kiên trì Tinh tấn của thầy. Từng sát na một, thầy cố gắng thực hành những gì thầy đã được thụ huấn từ trước. Ta có thể xem thầy là một cựu chiến binh.
Con đường trực tiếp giải thoát
Ðức Phật đã dạy cho thầy tỳ khưu nhiệt thành này một lời nhắn nhủ cho cựu chiến binh: "Hãy thẳng tiến trên con đường ngươi đã bước. Con đường này sẽ dẫn ngươi đến chốn an vui, thoát khỏi mọi sợ hãi. Ðó mục tiêu của ngươi." Con đường ở đây chính là Bát Chánh Ðạo. Vị trời mới này đã bắt đầu đi trên đó, và Ðức Phật chỉ khuyên thầy tiếp tục tiến bước. Nên nhớ là thầy tỳ khưu của chúng ta muốn trở thành một vị A La Hán ngay trong kiếp sống này.
Ðức Phật đã chỉ cho thầy con đường thẳng, trực tiếp hành Thiền Minh Sát. Bát Chánh Ðạo là một con đường rất thẳng, không có lối rẽ, không cong quẹo, không uốn khúc, dẫn thẳng chúng ta đến Niết Bàn.
Mười pháp bất thiện
Chúng ta có thể hiểu được thế nào là một thiện pháp khi tìm hiểu bất thiện pháp. Có mười bất thiện pháp. Người không được đào luyện theo thập thiện sẽ bị các bậc thiện trí xem là người bất thiện: Không thành thật, không thẳng thắn, thiếu giới hạnh và tư cách.
Có ba bất thiện pháp về thân . Bất thiện pháp đầu tiên liên quan đến sân hận, bất bình. Một người thiếu lòng từ ái và bi mẫn sẽ dễ dàng nỗi tâm sân hận và chuyển sang hành động. Họ có thể hiếp đáp, làm hại hoặc giết chết người và chúng sanh khác. Bất thiện pháp thứ hai phát xuất từ tham lam. Nếu không được kiểm soát sẽ dẫn đến cướp đoạt, bội tín, lường gạt để làm chủ tài sản của người khác. Tà hạnh là một hành động bất thiện thứ ba thuộc về thân. Một người bị tham dục chi phối chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn dục vọng của mình, không nghĩ đến người khác sẽ dễ dàng phạm tội tà dâm.
Có bốn bất thiện pháp về khẩu . Thứ nhất là nói lời không thật. Chuyện không nói có, chuyện có nói không. Thứ hai là lời nói đâm thọc. Ðó là những lời nói gây ra sự bất hòa, làm gẫy đổ tình thân thiện của bạn bè hay đoàn thể. Thứ ba là nói lời độc ác, thô lỗ, mắng nhiếc, chửi rủa, hạ nhục người khác. Thứ tư là nói lời vô ích, tầm phào, ngồi lê đôi mách.
Có ba bất thiện pháp về tâm . Thứ nhất là suy nghĩ đến cách làm hại người khác. Tâm giận dữ, hung bạo. Thứ hai là suy nghĩ, âm mưu chiếm đoạt sở hữu của người khác. Thứ ba là hiểu sai lầm luật nhân quả, không chấp nhận luật nhân quả, không tin rằng hành động tốt hay xấu sẽ trả quả tương ứng. Trong Phật giáo, tư tưởng hay suy nghĩ được xem là một hình thức của phạm hạnh. Tư tưởng hay sự suy nghĩ đóng vai trò quan trọng vì hành động phát xuất từ suy nghĩ. Không tin tưởng vào nghiệp báo nhân quả sẽ khiến ta có những hành vi thiếu trách nhiệm, tạo điều kiện để gây ra đau khổ cho mình và người khác. Cũng có những loại tâm bất thiện khác, mặc dầu không được xếp loại vào thập ác. Ðó là dã dượi buồn ngủ, bất an, và vô số các phiền não vi tế khác. Người bị các bất thiện tâm này chi phối cũng bị xem là người có tâm bất thiện.
Mối hiểm nguy khi đi trên đường bất thiện
Người nào không thoát khỏi mười bất thiện pháp thể hiện qua thân, khẩu, ý thì không thể đến nơi an toàn và sẽ gặp phải nhiều loại đau khổ phiền lụy.
Tự đánh giá, hối hận, đau khổ, nuối tiếc cũng là những điều nguy hiểm. Nhiều bất thiện pháp được ta đánh giá là thiện pháp. Hoặc vào lúc đầu ta tưởng đó là điều thiện. Về sau mới biết đó là điều ác. Sự sai lầm này khiến ta ân hận. Thế là ta tự trách mình: "Thiệt là ngu, tại sao ta có thể làm như vậy." Ân hận, hối hận là một đau khổ. Ðau khổ này không phải do ai gây ra cho ta. Vì đi sai đường nên ta tự mang lấy đau khổ vào mình. Những sự kiện này chỉ là những nỗi lo sợ trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng nó sẽ trở nên hãi hùng trước lúc ta lâm chung. Ngay trước lúc chết, một luồng tâm thức không thể kiểm soát được sẽ phát sanh. Tâm sẽ hồi tưởng lại những hành động đã làm trong cuộc sống. Nếu nhớ được những đức hạnh và điều thiện đã làm trước đây, thì lúc bấy giờ, tâm ta sẽ tràn đầy sự ấm áp và an tịnh, và ta sẽ chết trong bình an. Nếu ta không thận trọng giữ giới luật, hối hận và tiếc nuối sẽ tràn ngập tâm ta. Lúc ấy ta sẽ nghĩ: "Ðời sống thật ngắn ngủi. Ta đã xử dụng sai lầm cuộc sống của ta. Ta đã bỏ mất cơ hội để làm cho mình lên đến điểm cao tột, tốt đẹp của kiếp người. Nhưng đã quá trễ để sửa chữa. Cái chết của ta sẽ đau đớn". Nhiều người trước lúc chết đau khổ tận cùng đến nỗi rơi nước mắt hay khóc òa trước khi từ giã cõi đời.
Tự đánh giá mình cũng không phải là sự nguy hiểm độc nhất mà người chọn lầm đường bất thiện phải chịu. Thêm vào đó, họ bị các bậc thiện trí thức khiển trách. Những người có thiện tâm sẽ không chịu làm bạn với những người không đáng tin cậy hay người hung bạo, và cũng không xem trọng họ. Người bất thiện, cuối cùng, sẽ trở thành người không thích hợp để sống trong xã hội này.
Nếu bạn đi trên đường bất thiện, bạn sẽ phạm pháp. Nếu phạm pháp, bạn sẽ bị trừng trị tùy theo mức độ nặng nhẹ. Tội nhẹ có thể bị phạt vi cảnh, phạt tiền hay bị giam một thời gian ngắn. Tội nặng sẽ bị trừng phạt nặng hơn. ở thời đại này có thật nhiều vụ phạm pháp trầm trọng. Nhiều người phạm pháp vì quá tham lam, sân hận hay si mê. Không phải chỉ phạm pháp một lần, mà họ tái phạm nhiều lần. Hố sâu tội lỗi dường như không có đáy. Hàng ngày có biết bao nhiêu vụ giết người cuồng bạo xảy ra và những hung thủ cuối cùng đã trả giá bằng cái chết. Ði trên đường bất thiện thật đầy nguy hiểm. Trước sau cũng sẽ bị trừng phạt đích đáng.
Dĩ nhiên, có những vụ phạm pháp không tìm ra thủ phạm. Có những kẻ thông minh tìm cách trốn tránh luật pháp. Họ có thể thoát khỏi sự trừng trị của luật pháp bên ngoài, nhưng họ không tránh được sự trừng phạt bên trong. Sự trừng phạt bên trong thật nặng nề và đau đớn. Bạn luôn luôn là nhân chứng chính xác của chính mình. Bạn không thể nào dấu diếm được chính bạn. Bạn cũng không thể thoát khỏi tái sinh vào bốn cảnh khổ: Súc sanh, Ngạ Quỷ, A-Tu-La, Ðịa Ngục. Mỗi khi làm một hành động gì, nghiệp sẽ trổ quả. Nếu nghiệp không trả ngay trong kiếp này thì nó sẽ theo bạn trong các kiếp vị lai. Con đường bất thiện đưa đến những loại nguy hiểm này.
Bát Chánh Đạo
Không có bất thiện trên Bát Chánh Ðạo. Với nhóm Giới-Ðịnh-Huệ, Bát Chánh Ðạo mang lại cho cuộc sống chúng ta sự hoàn chỉnh và chính trực.
Nhóm Giới trong Bát Chánh Ðạo
Nhóm Giới trong Bát Chánh Ðạo gồm có Chánh Ngữ, Chánh nghiệp, Chánh Mạng.
Chánh ngữ (Sammavaca) là lời nói thật, lời nói hoàn hảo, đầy đủ. Chánh Ngữ còn mang các đặc tính khác: đem đến sự hoà hợp; êm dịu, vui vẻ, không khiến người nghe khó chịu; đem lại lợi ích và không nhảm nhí, vô bổ. Thực hành Chánh Ngữ, chúng ta sẽ thoát khỏi bốn tà ngữ là nói láo, nói đâm thọc, nói lời hung dữ, nói lời vô ích.
Chánh Nghiệp (Samma kammanta) bao gồm việc thu thúc hay giữ gìn giới luật. Chúng ta phải tránh ba loại hành động bất thiện là sát sanh, trộm cắp và tà hạnh.
Chánh Mạng (Samma-ajiva), sự nuôi mạng chơn chánh, hợp pháp, không bị chê trách. Tránh xa các tà mạng: Không buôn bán rượu, không buôn bán thuốc độc, không buôn bán khí giới, không buôn bán thịt, không buôn bán người.
Loại bỏ được các bất thiện pháp trong ba lãnh vực trên thì ta sẽ tránh được các phiền não thô tướng. Phiền não là kẻ thù của chúng ta. Chúng phải được xem là kẻ thù nguy hiểm và được nhận diện ra như vậy. Thoát khỏi kẻ thù là thoát khỏi nguy hiểm.
Nhóm Ðịnh trong Bát Chánh Ðạo
Nhóm Ðịnh trong Bát Chánh Ðạo bao gồm: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh. Bạn sẽ quen thuộc với nhóm này nếu bạn theo lời chỉ dẫn hành thiền. Khi bạn cố gắng chú tâm vào bụng, đó gọi là Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn có năng lực gạt các loại phiền não sang một bên. Khi Chánh Tinh Tấn được đẩy mạnh, Chánh Niệm sẽ hoạt động hữu hiệu để quán sát đối tượng. Chánh Niệm lại hoạt động như một người bảo vệ. Tinh Tấn gạt phiền não ra khỏi đường và Chánh Niệm đóng cửa không cho chúng vào. Bây giờ tâm có thể tập trung sâu xa hơn từ sát na này sang sát na khác. Tâm nằm trên đề mục, tập trung, không tản mạn, an tịnh. Ðó là chánh định. Khi ba yếu tố này hiện diện thì nhóm định phát triển tốt đẹp. Vào lúc này, tâm phiền não và tâm bất thiện bị đẩy ra xa. Nhóm định trực tiếp đàn áp tâm bất thiện.
Nhóm Huệ trong Bát Chánh Ðạo
Từ sát na này sang sát na khác, tâm bạn trở nên trong sáng và an tịnh nhờ sự Tinh Tấn ở chính bạn. Trong một phút bạn có sáu mươi lần tâm thoát khỏi sự bất thiện. Trong hai phút bạn sẽ có một trăm hai mươi lần. Hãy nghĩ xem bao nhiêu lần an tịnh bạn sẽ có được trong một giờ hay trong một ngày. ( Ðó là chỉ tính mỗi giây một lần an tịnh thôi). Bởi vậy, hãy Tinh Tấn từng phút, từng giây.
Trong mỗi giây đó, bạn sẽ thấy tâm nằm ngay trên đối tượng. Ðó là Chánh Tư Duy (Samma sankappa) hay Chánh Hướng Tâm, một yếu tố của nhóm Huệ trong Bát Chánh Ðạo. Khi tâm đã hướng vào đề mục một cách chính xác, tâm sẽ thấy đề mục rõ ràng và Trí tuệ sẽ phát sinh. Trí tuệ thấy rõ hay biết rõ các hiện tượng đúng theo chân tướng của nó tạo nên Chánh Kiến (Samma ditthi), một yếu tố của nhóm Huệ trong Bát Chánh Ðạo. Nếu tâm rơi chính xác trên đối tượng, trí tuệ sẽ nẩy sinh, thấy rõ bộ máy nhân duyên, nhân quả tương quan, nối hiện tượng thân và tâm vào với nhau. Nếu tâm rơi trên Vô Thường, tâm sẽ thấy rõ ràng và hiểu rõ Vô Thường là thế nào. Như vậy, Chánh Tư Duy và Chánh Kiến liên kết với nhau.
Chánh Kiến này kết quả từ Chánh Tư Duy có năng lực hủy diệt hạt giống bất thiện tâm. Hạt giống bất thiện tâm là những phiền não cực kỳ vi tế và tiềm ẩn bên trong. Chúng chỉ bị hủy diệt khi trí tuệ có mặt. Và trí tuệ chỉ phát sinh do sự thực hành, không phải do tưởng tượng.
Có lẽ bây giờ bạn đã hiểu rõ tại sao Ðức Phật bảo rằng Bát Chánh Ðạo là con đường thẳng, con đường chân chánh. Những lời nói, hành động và việc làm bất thiện sẽ bị Giới, Ðịnh, Huệ trong Bát Chánh Ðạo chế ngự. Ði thẳng trên đường này, thiền sinh sẽ vượt qua mọi bất thiện pháp và thoát khỏi mọi hiểm nguy.
Niết Bàn là nơi An Trú và Đạo là nơi An Trú
Ðức Phật đoan chắc với vị trời mới rằng chánh đạo sẽ dẫn đến một nơi an trú. Chữ "nơi an trú" ở đây được giải thích rất dài trong chú giải, có nghĩa là Niết Bàn, nơi không còn một chút nguy hiểm, sợ hãi, già và chết được chế ngự, gánh nặng đau khổ được bỏ xuống. Một người đạt được Niết Bàn sẽ được bảo vệ hoàn toàn. Bởi thế được gọi là "người vô úy", người thoát khỏi mọi sự sợ hãi, mọi hiểm nguy.
Muốn đến được nơi An Trú Niết Bàn này phải đi trên phần siêu thế của Bát Chánh Ðạo. Siêu thế ở đây có nghĩa là vượt ra ngoài thế giới này. Bạn không thể đạt đến Niết Bàn mà không đi trên đường này. Niết Bàn là nơi an trú cao tột.
Chúng ta đã tìm hiểu giới, định, huệ. Khi giới được trong sạch, chúng ta không bị hối hận dày vò, không bị các bậc thiện trí chê trách, không bị luật pháp trừng phạt và không bị tái sanh vào các cảnh khổ. Khi định được hoàn thành, ta không còn bị các phiền não tư tưởng chi phối. Phiền não tư tưởng là phiền não nằm trong tâm và đàn áp tâm ta. Phiền não này nếu có dịp sẽ chuyển sang hành động và lời nói bất thiện. Trí tuệ nội quán khởi sinh do Chánh Niệm và Chánh Ðịnh có năng lực chế ngự các phiền não vi tế ngủ ngầm. Bởi thế, dầu chưa đạt được sự an toàn vĩnh viễn của Niết Bàn, người hành thiền cũng được bảo vệ, tránh khỏi mọi điều sợ hãi khi đi trên Bát Chánh Ðạo. Con đường này, chính nó là nơi trú ẩn an toàn.
Phiền não, nghiệp và quả: Vòng luân hồi
Phiền não chịu trách nhiệm về những mối hiểm nguy trên thế gian này. Mê muội, tham ái và dính mắc là phiền não. Do vô minh và tham ái, con người tạo nghiệp rồi nhận quả. Do tác động tạo nghiệp trong quá khứ, chúng ta tái sanh vào cõi đời này với thân và tâm như bây giờ. Nghĩa là đời sống hiện tại của chúng ta là kết quả của những nguyên nhân trước đây. Thân tâm này đến lượt lại trở thành đối tượng của tham ái và dính mắc. Tham ái và dính mắc tạo nên nghiệp. Nghiệp là điều kiện hay nhân để tái sinh lần nữa. Thế rồi, lại tham ái và dính mắc vào thân tâm rồi lại tái sanh. Cứ thế, chúng ta bị quay tròn mãi mãi. Phiền não, nghiệp và quả là ba yếu tố của vòng luân hồi. Ðó là luân hồi trong tam giới, không có điểm khởi đầu; và nếu không tham thiền thì cũng không có điểm chấm dứt.
Nếu không có vô minh thì vòng luân hồi này cũng không có. Chúng ta đau khổ trước kia từ sự si mê, không biết, không thấy rõ. Trên sự si mê này là tà kiến, ảo tưởng, thấy sai sự thật. Nếu không hành thiền một cách sâu xa, chúng ta không thấy được chân tướng của sự vật là Vô Thường , Khổ và Vô Ngã. Bản chất của thân và tâm chỉ là hiện tượng sanh diệt từ sát na này đến sát na khác, nhưng vì si mê nên chúng ta không thấy được điều này. Chúng ta cũng không biết rằng sự sinh diệt áp chế khiến ta phải đau khổ. Chúng ta không thấy rõ rằng chẳng có ai kiểm soát, điều khiển tiến trình này. Chẳng ai ở đằng sau nó. Nếu chúng ta hiểu một cách sâu xa ba đặc tính của thân và tâm này, chúng ta sẽ không tham ái hay dính mắc.
Rồi, bởi vì si mê, chúng ta thêm ảo tưởng vào thực tế. Chúng ta lại cho rằng thân và tâm là trường tồn, không thay đổi. Chúng ta sung sướng, vui vẻ khi có thân và tâm này, và chúng ta lại cho rằng có một tự ngã, hay "tôi" vĩnh viễn chịu trách nhiệm tiến trình thân tâm.
Hai loại si mê này, (không thấy rõ hay thấy sai) là nguyên nhân phát sanh tham ái và dính mắc. Dính mắc (upadana), chỉ là một hình thức kiên cố hơn của tham ái. Sự ham thích sắc tốt, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, nơi đụng chạm vừa lòng và sự suy nghĩ thích thú khiến ta tham luyến vào những đối tượng mới đến với chúng ta. Nếu chúng ta đạt được những gì chúng ta muốn, chúng ta sẽ dính mắc vào chúng và không muốn mất chúng. Ðiều này tạo nên nghiệp khiến ta bị luân hồi trong vòng tái sanh.
Phá vỡ vòng luân hồi
Dĩ nhiên, có nhiều loại nghiệp. Nghiệp ác đem lại quả ác và khiến ta luân lưu trong vòng tam giới. Trong khi đi trên phần tiên khởi của Bát Chánh Ðạo, chúng ta không cần phải lo lắng phải trả quả của các nghiệp bất thiện vì chúng ta đã tránh xa các hành động ác. Giới bảo vệ thiền sinh khỏi đau khổ trong tương lai. Nghiệp thiện mang lại kết quả hạnh phúc, tuy nhiên, cũng thúc đẩy ta luân lưu trong vòng luân hồi. Nhưng khi hành thiền, nghiệp trường tồn không còn phát sanh nữa. Ðơn thuần quán sát những gì đến và đi là thiện nghiệp và nó không khiến ta tiếp tục ở trong vòng luân hồi. Trong ý nghĩa tinh túy, thì việc hành thiền không tạo ra quả (Vipaka). Khi Chánh Niệm đủ chính xác, sẽ có khả năng ngăn cản tham ái phát sinh, do đó cũng ngăn cản sự phát sinh chuỗi hậu quả tiếp theo liên quan đến sự sanh tồn là nghiệp, sanh, già, đau và chết.
Từ sát na này sang sát na khác, Thiền Minh Sát phá vỡ vòng luân hồi của phiền não, nghiệp và quả. Khi Tinh tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh hoạt động thì Chánh Hướng Tâm sẽ khiến tâm xuyên thấu bản chất của các pháp, và ta sẽ thấy sự vật đúng theo thực trạng của chúng. Ánh sáng trí tuệ xoá tan sự tăm tối của si mê. Khi không còn si mê thì ái dục không sinh khởi. Nếu ta thấy một cách rõ ràng Vô Thường , Khổ và Vô Ngã thì tham ái sẽ không phát sinh, và sự dính mắc sẽ không nối chân theo được. Như vậy, ta có thể nói vì không biết nên dính mắc, nắm giữ. Khi biết rồi thì không còn dính mắc, nắm giữ nữa. Không dính mắc, nắm giữ thì không tạo nghiệp, và do đó, sẽ không gặt quả.
Vô minh dẫn đến tham ái, dính mắc và nắm giữ vào sự sinh tồn và tà kiến tự ngã. Ði trên Bát Chánh Ðạo, bạn sẽ giết chết nguyên nhân của vô minh. Nếu chúng vắng mặt dầu trong một sát na thì sẽ có giải thoát; vòng luân hồi bị phá tan. Ðó là nơi an trú mà Ðức Phật đã nói đến. Trong lúc giữ tâm Chánh Niệm, bạn được thoát khỏi vô minh, thoát khỏi các hiểm nguy của phiền não, thoát khỏi tác động của các nghiệp dẫn đến đau khổ trong tương lai, và vui hưởng sự an toàn bảo đảm.
Có lẽ bạn nghĩ rằng thân và tâm này thật đáng sợ, và bạn muốn loại bỏ nó. Ðược. Nhưng như vậy không có nghĩa là tự tử. Nếu muốn giải thoát, bạn phải thông minh hơn. Khi hậu quả được quán sát thì nguyên nhân sẽ bị tiêu diệt. Ðó không phải là sự hủy diệt trong nghĩa tích cực, mà nghĩa là sự vắng bóng của luật trường tồn. Chánh Niệm hủy diệt phiền não, nguyên nhân đem đến một thân tâm tương tự trong tương lai. Ðiều này có nghĩa là khi có Chánh Niệm, Chánh định và có sự Hướng Tâm đúng đắn để quán sát các đối tượng ngay khi chúng phát sinh tại sáu cửa giác quan, thì vào lúc ấy, phiền não không thể xâm nhập vào được. Bởi vì phiền não là nguyên nhân của nghiệp và tái sinh, nên khi phiền não không thể chỗi dậy được thì chuỗi tiếp nối sinh tồn trong tam giới bị đoạn tuyệt. Sẽ không có hậu quả trong tương lai nếu không có nhân trong hiện tại.
Hành theo Bát Chánh Ðạo, đạt các tuệ minh sát, cuối cùng, thiền sinh sẽ an trú Niết Bàn, thoát khỏi mọi đau khổ. Có bốn tầng Niết Bàn. Mỗi tầng, một số phiền não được tận diệt. Nơi an trú cao tột là tầng Niết Bàn cuối cùng, đó là A La Hán. Tâm vị A La Hán hoàn toàn thanh tịnh, trong sạch.
Nhập Lưu: Chứng Ngộ Niết Bàn Lần Ðầu
Vào lúc chứng ngộ Niết Bàn lần đầu là lúc đạt Tu Ðà Huờn đạo (Sotapatti magga), các nhân đưa đến tái sanh vào các cảnh khổ đều bị loại trừ. Vị Tu Ðà Huờn không bao giờ tái sinh vào bốn ác đạo: súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, địa ngục. Các loại phiền não gây ra sự tái sanh vào các cảnh khổ đều bị tận diệt. Vị đó sẽ không bao giờ tạo các nghiệp khiến tái sinh vào các cảnh này, và nghiệp quá khứ có thể dẫn đến việc tái sinh vào bốn cảnh khổ cũng bị vô hiệu.
Ở mức độ giác ngộ cao hơn, nhiều loại phiền não khác bị tận diệt. Cuối cùng, khi đạt A La Hán đạo thì mọi phiền não, nghiệp và quả, đều bị tận diệt. Vị A La Hán không còn bị tai họa của các phiền não này nữa. Khi vị A La Hán chết, Ngài sẽ an trú Niết Bàn. Từ đó, không còn trở lại vòng luân hồi tam giới nữa.
Ngay ở mức giác ngộ thấp nhất, bạn cũng loại trừ được một số tư tưởng hay hành động bất thiện. Theo Sách Thanh Tịnh Ðạo, thì khi đạt được quả Tu Ðà Huờn bạn sẽ không còn tự trách mình, không bị các bậc thiện trí chê trách, không còn bị hiểm nguy của các hình phạt và không bị rơi vào các cảnh khổ.
Chiếc xe hoàn toàn yên lặng
Người phàm phu chưa đạt quả Tu Ðà Huờn chẳng khác nào kẻ lữ hành theo một hành trình nguy hiểm. Nhiều hiểm nguy đang chờ đợi họ khi họ muốn vượt rừng rậm, sa mạc; bởi thế, họ phải chuẩn bị hành trang thật tốt và đầy đủ. Một trong những thứ cần thiết cho một cuộc hành trình gian nguy như thế là một chiếc xe tốt. Ðức Phật đã cấp cho vị trời tỳ khưu một chiếc xe an toàn, quí báu. Ngài nói: "Ngươi sẽ đi trên một chiếc xe hoàn toàn yên tịnh, tĩnh lặng."
Vừa mới chứng kiến cảnh ồn nào náo nhiệt của thiên cung, vị trời chắc chắn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng yên tĩnh khi đi trên chiếc xe mới mẻ vừa được Ðức Phật ban cho. Chúng ta tìm hiểu thêm ý nghĩa của lời dạy này.
Phần lớn các chiếc xe đều ồn ào. Những loại xe vào thời kỳ Ðức Phật đều ồn ào. Xe kêu ken két và cọc cạch vì không được bôi dầu mỡ đầy đủ, hoặc vì làm bằng các loại gỗ xấu, hoặc vì chở nặng, hay chở nhiều người. Những chiếc xe ngày nay cũng vẫn còn có tiếng động. Chiếc xe do Ðức Phật ban là một chiếc xe khác hẳn loại xe bình thường. Xe di chuyển không gây ra một tiếng động dầu có chở đến hàng ngàn hay hàng triệu người. Chiếc xe này chở tất cả mọi người đến nơi an toàn. Xe êm ả vượt qua núi đồi, xuyên qua rừng rậm, băng qua sa mạc, vượt qua bể khổ không chút trở ngại. Ðó là chiếc xe của sự thực hành Thiền Minh Sát, của Bát Chánh Ðạo.
Khi Ðức Phật còn tại tiền, hàng triệu chúng sanh đắc đạo chỉ đơn giản do nghe Ngài thuyết pháp. Nhiều vị chỉ nghe một lần mà giác ngộ. Tất cả các chúng sanh này đều cùng đi trên một chiếc xe. Chiếc xe không gây ra một tiếng động, nhưng hành giả thường huyên náo ồn ào, đặc biệt là những vị đã đến bến bờ giác ngộ, cõi An Trú Niết Bàn. Họ hết lời xưng tụng, tán thán: "Chiếc xe thật kỳ diệu làm sao. Nó đã chạy một cách êm thắm, tốt đẹp, và đã đưa tôi đến chỗ giải thoát."
Họ là những bậc thánh Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm và A La Hán. Họ ca tụng chiếc xe bằng nhiều cách. "Tâm tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tâm tôi tràn đầy đức tin trong sáng như pha lê và khoáng đạt bao la. Trí tuệ đã hiển bày trong tôi. Tâm tôi mạnh mẽ, ổn định, và bền bỉ, an nhiên, tự tại đối diện với những thăng trầm của cuộc đời."
Các bậc thánh nhân ca tụng chiếc xe này vì họ đã tự thân kinh nghiệm sự đình chỉ của tiến trình tâm, tâm sở và tất cả các hiện tượng phát sinh từ tâm. Ðạt được tình trạng này, thân tâm họ tràn đầy hỉ lạc, an vui và thanh tịnh kỳ diệu.
Khi có kẻ thân yêu rời bỏ cõi đời, người ta thường khóc lóc, than van, buồn khổ, thương tiếc. Ðối với các vị A La Hán, các Ngài đã nhổ tận gốc rễ các loại phiền não từ thô sơ cho đến vi tế nên cái chết đối với các Ngài là cái gì tự nhiên. Các Ngài sẵn sàng đón nhận khi nó đến. Các Ngài có thể nói: "Rốt cuộc, cái khối đau khổ này cũng bị tan rã. Ðây là kiếp sống cuối cùng của ta. Ta không còn bao giờ đối đầu với đau khổ nữa mà chỉ An Trú Niết Bàn."
Sự cao quí của một vị A La Hán có thể vượt ngoài khả năng hiểu biết của bạn, nhưng bạn có thể tự biết, tự cảm nhận một vị A La Hán sẽ cảm thấy như thế nào. Hãy xem việc thực hành của chính bạn. Bạn có thể đã từng chế ngự được các chướng ngại căn bản, tham lam, sân hận, dã dượi buồn ngủ, bất an và hoài nghi, và có thể thấy một cách rõ ràng bản chất của đối tượng. Bạn có thể đã từng thấy được sự khác biệt giữa thân và tâm hay thấy các hiện tượng sinh và diệt trong từng khoảnh khắc một. Thấy được sự sinh diệt là một sự giải thoát và an lạc vui tươi. Sự hỉ lạc, sự trong sáng của tâm này là kết quả của việc thực hành.
Ðức Phật dạy: "Những người chịu ẩn cư để tham thiền, những người đã đạt các tầng thiền sẽ có được một hỉ lạc lớn lao, vượt hẳn mọi hạnh phúc do các dục lạc giác quan đem lại, dầu đó là dục lạc cõi trời hay cõi người".
Các tầng thiền ở đây là các tầng thiền trong thiền chỉ hay sự định tâm trong từng sát na một của Thiền Minh Sát.
Hương vị tuyệt vời
Nếu thiền sinh có thể duy trì Chánh Niệm liên tục thì sẽ kinh nghiệm được niềm hỉ lạc sâu xa của việc hành thiền. Thiền sinh sẽ hưởng được hương vị của giáo pháp mà trước đây chưa từng nếm qua. Thiền sinh có thể tự cảm thán: "Giáo pháp kỳ diệu làm sao. Khó tưởng tượng được rằng mình có được những sự an tịnh, hỉ lạc như vầy." Thiền sinh sẽ tràn đầy đức tin, lòng tự tín, sự thỏa mãn và thành đạt. Thiền sinh sẽ bắt đầu nghĩ đến việc chia xẻ những kinh nghiệm mà mình đã có được cho người khác. Thiền sinh có thể tham vọng và đặt kế hoạch truyền bá giáo pháp. Ðó là âm thanh trong tâm bạn, một bài ca tán dương ca ngợi chiếc xe yên lặng mà bạn đã được đi.
Lại có những âm thanh khác kém hăng say, thích thú hơn. Ðó là tiếng kêu the thé của các thiền sinh ngồi trên chiếc xe mà không hứng thú hay vui vẻ gì cả. Họ là những thiền sinh không hành thiền tinh tấn. Trong việc hành Thiền Minh Sát, nếu ít tinh tấn thì chẳng có kết quả bao nhiêu. Thiền sinh lười biếng, buông thả sẽ không bao giờ nếm được hương vị của giáo pháp. Họ có thể nghe được sự thành công của người khác, họ có thể thấy người khác ngồi thẳng thắn tĩnh lặng dường như đang thích thú trong sự định tâm và phát triển trí tuệ. Riêng họ, họ bị tràn ngập bởi phóng tâm và chướng ngại. Hoài nghi sẽ bò vào tâm họ. Hoài nghi thiền sư, hoài nghi phương pháp hành thiền và hoài nghi cả chiếc xe. Họ phân vân và tự nhủ: "Ðây là chiếc xe thô kệch, vô dụng, gây ra nhiều tiếng ồn và không đưa ta đi đến đâu được."
Ðôi lúc người ta có thể nghe được những tiếng than van, rên rỉ vọng lại từ phía chiếc xe. Ðó là những tiếng nức nở của các thiền sinh có đức tin nhiệt thành vào việc hành thiền và đã nỗ lực Tinh tấn, nhưng vì lý do nào đó, họ chưa đạt được nhiều tiến bộ như họ mong mỏi. Họ bắt đầu mất lòng tin. Họ nghi ngờ không biết mình có thể đạt được mục tiêu không.
Càng Ði Lạc Ðường, Càng Ðược Nhiều Gạo
Ở Miến Ðiện có một câu nói để khuyến khích những người tận tâm hành thiền nhưng chưa đạt được kết quả mong mỏi: "Người hộ tăng càng đi lạc đường càng có được nhiều gạo." Ở các xứ Phật giáo có những người hộ tăng, hay anẻgẻrika, là những người giữ tám hay mười giới. Họ cạo đầu nhưng không xuất gia như các nhà sư. Họ giúp chư Sư mọi công việc trong chùa như những người đến làm công quả. Một trong những bổn phận của họ là đi quyên góp cho chùa. Ở Miến Ðiện, các vị hộ tăng này thường nhận được gạo từ những người có hảo tâm muốn giúp cho chùa. Vị hộ tăng dùng quang gánh để gánh gạo quyên góp. Có lúc các vị này, có lẽ là mới, nên bị lạc đường. Họ cố gắng đi trở lại con đường cũ để trở về. Các nhà hảo tâm tưởng rằng họ vẫn tiếp tục quyên góp nên tiếp tục ủng hộ. Thế là các vị hộ tăng lạc đường nhận thêm được nhiều gạo.
Những thiền sinh hành thiền Tinh tấn nhưng chưa tiến bộ như mình mong mỏi vì chưa theo đúng lời chỉ dẫn xin đừng thất vọng. Hãy nghĩ đến người hộ tăng lạc đường này. Cuối cùng rồi bạn cũng sẽ được một gánh giáo pháp lớn lao.
Hai bánh xe: Tinh tấn thể chất và Tinh tấn tinh thần
Như Ðức Phật đã diễn tả, chiếc xe giải thoát có hai bánh xe. Vào thời Ðức Phật xe được chế tạo như thế nên Ngài dùng thí dụ này để người nghe dễ lãnh hội. Ðức Phật giải thích rằng hai bánh xe là hai sự tinh tấn thể chất và tinh tấn tinh thần.
Trong việc hành thiền cũng như trong các công việc khác đòi hỏi phải có sự cố gắng, tinh tấn. Chúng ta phải cố gắng chăm chỉ chuyên cần để thành công. Nếu tinh tấn được duy trì bền bỉ, ta sẽ trở thành một vị anh hùng hay một người dũng cảm. Dũng cảm tinh tấn là điều tối cần thiết trong việc hành thiền.
Tinh tấn thể chất là tinh tấn để duy trì thân thể trong tư thế thích đáng trong lúc hành thiền như đi, đứng, ngồi, nằm, v.v... Tinh tấn tinh thần là tinh tấn trong việc chánh niệm và tập trung tâm ý để loại trừ phiền não. Hai bánh xe tinh tấn lăn đều để đưa chiếc xe thực hành chạy êm thắm đến đích. Trong khi kinh hành bạn phải dở, bước, rồi đặt chân xuống. Bạn tiếp tục làm đi làm lại dở, bước, đạp. Khi đi như vậy, tinh tấn thể chất giúp bạn di chuyển, trong khi đó tinh tấn tinh thần tạo nên một sự Chánh Niệm liên tục. Sự vận dụng thể chất với một số lượng điều hòa đóng góp vào sự tỉnh thức và năng lực của tâm.
Một điều quan trọng phải nhớ là tinh tấn là yếu tố căn bản trong việc họa kiểu chiếc xe giải thoát của Ðức Phật. Xe cần phải gắn chặt hai bánh. Cũng vậy, chiếc xe Bát Chánh Ðạo cũng cần phải gắn chặt hai bánh xe tinh tấn thể chất và tinh tấn tinh thần. Chúng ta không thể tiến bộ nếu không có tinh tấn thể chất trong lúc ngồi thiền, và cũng không thể có tiến bộ nếu trong khi ngồi thiền ta không tinh tấn ghi nhận đề mục một cách sáng suốt, chính xác và liên tục. Nếu hai bánh xe tinh tấn được duy trì chuyển động thì chiếc xe sẽ lăn bánh, tiến thẳng về phía trước.
Cần phải có tinh tấn để duy trì tư thế thể chất. Nếu bạn đang ngồi, bạn phải tinh tấn để giữ mình khỏi ngã. Nếu bạn đang đi, bạn cũng phải tinh tấn để di chuyển chân và giữ cơ thể thăng bằng. Chúng ta phải tập quân bình bốn tư thế chính. Quân bình năng lực và tạo điều kiện để có sức khỏe tốt. Ðặc biệt trong một khoá thiền, chúng ta phải có đủ thì giờ ngồi và đi. Thứ đến là giờ đứng, giờ nằm. Giờ ngủ phải hạn chế. Nếu tư thế không duy trì đúng, lười biếng sẽ phát sinh. Chẳng hạn, lúc ngồi nếu không tôn trọng duy trì việc giữ thẳng lưng, bạn sẽ tìm một nơi để dựa lưng. Hay bạn có thể cho rằng đi kinh hành quá mỏi mệt, hay cơ thể cần phải được thoải mái chút đỉnh mới thích hợp cho việc hành thiền... Tất cả những điều trên, như bạn biết, sẽ không được chấp nhận trong lúc hành thiền.
Tương tự như vậy, đối với tinh tấn tinh thần, không nên lười biếng. Ngay từ lúc đầu, bạn phải tâm niệm là phải cố gắng duy trì liên tục tinh tấn tinh thần. Hãy luôn luôn tự nhắc nhở: "Ta không bao giờ để một khoảng hở nào thiếu Chánh Niệm. Ta luôn luôn duy trì Chánh Niệm liên tục". Ðây là một thái độ rất cần thiết và ích lợi khiến tâm bạn khai mở để thành tựu mục đích mong ước. Nhiều thiền sinh rất chán ghét việc kinh hành. Họ cho rằng kinh hành làm mệt mỏi và mất thì giờ. Họ chỉ kinh hành vì miễn cưỡng vâng lời thiền sư mà thôi. Họ không biết rằng khi kinh hành cần phải dùng hai loại tinh tấn, và đây là điều rất ích lợi để giữ cho bánh xe tinh tấn lăn đều. Với sự Tinh tấn kinh hành, bạn có thể đạt đến mục tiêu một cách dễ dàng và thoải mái. Khi tinh tấn tinh thần luôn luôn có mặt trong từng sát na thì phiền não không thể nào len lỏi vào. Tâm Tinh tấn đẩy xa, hất ra ngoài và loại bỏ mọi phiền não.
Một số thiền sinh hành thiền từng hồi từng chặp. Sự tinh tấn rời rạc, thiếu liên tục. Cứ hành thiền được một lúc lại lơ là. Tinh tấn nổ bùng lên rồi lại tắt ngấm sau đó. Phiền não do đó cứ len lỏi vào mãi. Thiền sinh loại này cứ phải bắt đầu tinh tấn hành lại từ đầu. Cố gắng rồi lại nghỉ, cố gắng rồi lại nghỉ, nếu cứ mãi như thế thì thiền sinh sẽ không thể tạo được trớn trong việc hành thiền, vì vậy, không thể tiến bộ.
Bạn cần phải thành thật xem xét lại việc hành thiền của mình. Bạn đã thật sự Chánh Niệm chưa? Bạn có thật sự nghiêm túc kiên trì thực hành Chánh Niệm, nỗ lực Chánh Niệm từ phút này qua phút khác, chẳng lơ là, chẳng buông trôi chưa?
Hiệu Năng của Tinh tấn
Người nào giữ cho bánh xe Tinh tấn tinh thần tiếp tục quay đều thì người đó có nỗ lực tinh tấn. Ðức Phật khen ngợi người nỗ lực tinh tấn. Người có nỗ lực Tinh tấn sống trong an lạc. Tại sao vậy? Vì nỗ lực tinh tấn đẩy xa phiền não, tạo nên một sự mát mẻ, an tịnh, hoan hỉ, thoát khỏi tham dục, hung bạo và si mê.
Tinh tấn nỗ lực có hiệu năng vô lường. Ðức Phật dạy: "Thà sống một ngày mà nỗ lực tinh tấn còn hơn sống trăm năm mà thiếu tinh cần." Mong rằng các bạn sẽ có hoan hỉ, hứng khởi trong khi nghe phần giảng giải này để bánh xe Tinh tấn của bạn lăn đều.
Lương Tâm: Chỗ Tựa Lưng
Phần thứ hai của chiếc xe được Ðức Phật mô tả là chỗ tựa lưng. Chỗ tựa lưng ở đây ám chỉ lương tâm hay sự hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Ngày xưa xe có chỗ tựa lưng. Nếu không có chỗ tựa lưng, người đánh xe hay hành khách sẽ bị rơi khỏi xe hay ngã về đằng trước khi xe bất thần dừng lại. Chỗ tựa lưng có thể là một bộ phận rất đắt tiền. Hành khách tựa lưng vào ghế ngồi thoải mái như người ngồi trên chiếc ghế bành và để xe đưa tới nơi mình muốn. Trường hợp của chúng ta, chỗ đến là Niết Bàn.
Hổ Thẹn và Ghê Sợ Chánh Ðáng
Ðể hiểu rõ công năng của "chỗ tựa lưng" của chiếc xe minh sát, chúng ta phải hiểu thế nào là lương tâm. ở đây Ðức Phật chỉ dùng chữ hiri (hổ thẹn tội lỗi), nhưng ottappa (ghê sợ tội lỗi) thường đi kèm với hiri. Bởi vậy ta sẽ đề cập đến cả hai danh từ này mặc dầu trong kinh chỉ nói có một mà thôi. Nhưng hai chữ hổ thẹn và ghê sợ có nghĩa tiêu cực. Bởi vậy nên dùng chữ lương tâm đạo đức để có một nghĩa chính xác hơn. Hổ thẹn và ghê sợ ở đây không liên quan gì đến sự sân hận thông thường. Hổ thẹn tội lỗi không phát xuất từ sự từ bỏ đối tượng như bản chất của sân hận. Hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi ở đây là một thiện tâm. Hổ thẹn và ghê sợ các điều bất thiện. Hai đặc tính này phối hợp tạo nên lương tâm, sự chính trực, chân thành. Người có tâm chính trực, chân thật thì không phải hổ thẹn và ghê sợ về đức hạnh của mình.
Hổ thẹn là chán ngấy hay ghê tởm phiền não. Khi cố gắng Chánh Niệm, bạn thấy có những khoảng hở. Từ đó, phiền não có thể xen vào và biến bạn thành nạn nhân của chúng. Bạn cảm thấy hổ thẹn khi thấy mình không thể kiểm soát được lục căn.
Ghê sợ là sợ hậu quả của những điều bất thiện, chẳng hạn sợ rằng trong khi hành thiền, nếu tâm bạn bị tràn ngập bởi các tư tưởng bất thiện thì bạn sẽ chậm tiến bộ. Sợ rằng nếu bạn làm những hành vi bất thiện dưới ảnh hưởng của phiền não, bạn sẽ nhận chịu đau khổ. Các điều sợ hãi trên giúp bạn cẩn thận đề phòng, luôn luôn cảnh giác không để cho phiền não đợi chờ cơ hội nhảy vào. Nhờ thế, trong lúc ngồi thiền, bạn sẽ nỗ lực Chánh Niệm khắng khít với đề mục chính.
Hổ thẹn liên quan trực tiếp đến giới hạnh và sự chân chính thành thật của chính bạn. Trong khi đó, ghê sợ liên quan đến giới hạnh của mình và thanh danh của gia đình, thầy tổ, thân quyến, bằng hữu, v.v...
Hổ thẹn thể hiện dưới nhiều cách. Một người sinh trưởng trong gia đình gia giáo thì gặp hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, cha mẹ cũng cố gắng cho họ học hành để trở thành người hữu dụng sau này. Người được sanh trưởng và giáo dục trong gia đình như thế, trước khi làm một hành động ác, như giết người chẳng hạn, họ sẽ tự vấn nhiều lần: "Cha mẹ dạy là hãy sống trong tình thương và đối xử tốt với mọi người. Ta phải tự trọng, không để mất thanh danh vì những tư tưởng và cảm giác xấu xa, tệ hại như vậy. Ta có nên giết người vì một phút yếu lòng và thiếu từ tâm như thế chăng? Ta đành hy sinh đức hạnh của ta chăng?" Nếu có thể phản tỉnh bằng cách này và quyết định tránh xa sự giết hại thì ta đã có đức hổ thẹn.
Ðức hạnh của sự hiểu biết hay học thức cũng có thể giúp ta tránh xa các hành động bất thiện. Một người có học thức, có văn hoá cao, sẽ có một căn bản luân lý, đức hạnh cao; đó là luân lý, đức hạnh của người có học, người hiểu biết. Khi có ý định làm một hành vi bất thiện, người có học thức, hiểu biết sẽ biết xem xét, thẩm định những gì đang ẩn tàng bên trong họ và có thể dừng tay.
Cũng có thể nhờ tuổi tác cao mà có đức hổ thẹn. Khi trọng tuổi, ta có phẩm hạnh cao. Ðiều này do ở sự tự tỉnh tự nhiên của mình: "Ta là một người đứng tuổi, con cháu đầy đàn, ta đã biết đâu là trái, đâu là phải. Ta không nên làm những điều không thích đáng như vậy. Ta phải tôn trọng phẩm hạnh của chính mình".
Sự hổ thẹn cũng phát sinh nhờ lòng dũng cảm, xác tín. Ta có thể tự suy nghĩ, phản tỉnh rằng: "Hành động thiếu đạo đức là hành động của những kẻ vô lại, ươn hèn, những người sống không nguyên tắc." Một người có tâm dũng cảm và cương nghị sẽ sống theo nguyên tắc, chân chính, thành thật. Không chuyện gì, không áp lực nào có thể khiến họ đánh mất tư cách, phẩm hạnh của mình.
Ghê sợ tội lỗi là một khía cạnh khác của lương tâm. Do nghĩ đến uy tín, danh dự của cha mẹ, họ hàng, gia đình, bạn bè mà một người không dám làm điều bất thiện. Họ nghĩ rằng khi làm điều bất thiện là đã phản bội và làm tổn thương đến các người thân yêu của mình.
Bạn không thể nào dấu diếm được những hành vi bất thiện mình đã làm. Vì làm sao dấu diếm được chính bạn! Có những kẻ có thể đọc được tâm người khác, họ có thể nghe hay thấy chuyện người khác làm. Nếu ý thức được điều này, bạn sẽ do dự khi làm một hành vi bất thiện dầu bạn nghĩ rằng hành vi này kín đáo đến đâu.
Hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình. Nhờ có hai đức tánh này mà cha mẹ, con cái, anh chị em, có thể sống đời sống trong sạch an vui. Nếu không có hai đức tánh này thì sẽ không có hành vi đạo đức và những người trong gia đình sẽ đối xử với nhau như chó với mèo.
Thế giới ngày nay gặp nhiều tai họa vì con người đã thiếu mất hai đức tánh hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, hai yếu tố của lương tâm. Hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi này được gọi là "những người hộ trì thế giới". Hãy tưởng tượng xem, nếu mọi người trên mặt đất này đều có hai đức tính hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, thì thế giới này sẽ êm đẹp biết bao.
Hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi còn được gọi là tinh pháp (Sukka dhamma), pháp thanh tịnh, pháp trong sạch bởi vì chúng là những pháp thiết yếu để duy trì sự trong sạch, thanh tịnh của chúng sinh trên hành tinh này. Sukka dhamma có nghĩa là màu trắng, tượng trưng cho sự thanh tịnh, thanh khiết. Pháp ngược lại là không hổ thẹn và không ghê sợ tội lỗi, là pháp đen, kanha dhamma. Màu đen thì hấp thụ nhiệt, màu trắng phản xạ nhiệt. Pháp đen là pháp có đặc tính thu hút nhiều phiền não. Khi chúng hiện diện thì tâm bạn sẽ chìm đắm trong phiền não, trong khi pháp trắng hiện diện thì phiền não sẽ bị dội ngược.
Kinh điển có đưa ra thí dụ về hai hòn sắt. Một hòn bị trét đầy phân. Một hòn bị nung nóng đỏ. Một người từ chối hòn sắt thứ nhất vì sợ bẩn tay và không dám sờ vào hòn sắt thứ hai vì sợ phỏng tay. Không sờ vào hòn sắt bẩn cũng giống như tâm hổ thẹn tội lỗi. Người biết hổ thẹn khi làm điều xấu nhờ họ biết so sánh những điều xấu đó với điều tốt. Người không sờ tay vào hòn sắt nóng cũng như tâm ghê sợ tội lỗi. Người ghê sợ tội lỗi vì sợ phải gặp quả xấu do những hành động bất thiện của mình. Họ sợ phải sa vào khổ cảnh. Như vậy, người tránh xa mười bất thiện pháp cũng như người không dám sờ vào hai hòn sắt trên.
Những sự Hổ Thẹn và Ghê Sợ Vô ích
Có nhiều sự hổ thẹn và ghê sợ thật ra chẳng có ích tí nào. Tôi gọi đó là sự hổ thẹn và ghê sợ "không chính đáng." Chẳng hạn như bối rối hay mắc cỡ khi phải giữ năm giới. Mắc cỡ và sợ nghe giáo pháp. Mắc cỡ và e ngại khi đảnh lễ các bậc trưởng thượng. Nhiều người mắc cỡ và sợ hãi khi phải nói to hay đứng trước công chúng. Nhiều người sợ hãi những dư luận không tốt về mình, nhất là khi những dư luận nói về những hành động xấu xa của mình. Ðó là sự hổ thẹn không chính đáng.
Trong cuộc sống có những điều không nên mắc cỡ hay sợ hãi. Ðây là những điều lợi ích thực tiễn và thuộc về thế tục, không có trong kinh điển. Chẳng hạn như: Không mắc cỡ khi phải làm việc hay kiếm sống, vì nếu mắc cỡ như vậy thì lấy gì để mà ăn? Không mắc cỡ khi phải đến học hỏi với thầy về buôn bán hay về một nghề chuyên môn nào đó. Nếu mắc cỡ như vậy thì làm sao có kiến thức? Không mắc cỡ khi phải ăn, bởi vì nếu không ăn thì phải chết đói. Không sợ hãi khi phải gặp một nhân vật quan trọng khi điều đó cần thiết. Do những sợ hãi không chánh đáng mà nhiều việc không thành.
Nhiều người nhà quê rất sợ hãi khi phải đi xe lửa, xe buýt, qua phà. ở đây tôi muốn nói đến những người thật sự chưa từng thấy và xử dụng phương tiện giao thông công cộng. Những người đơn giản mộc mạc này họ cũng mắc cỡ khi dùng nhà vệ sinh công cộng. Những sự e dè mắc cỡ hay sợ hãi đó chẳng lợi ích gì. Có những người sợ cả chó, mèo, thằn lằn, gián, chuột hay sợ nơi lạ nước lạ cái. Nhiều người lại sợ người khác phái, nhiều người sợ cha mẹ, sợ thầy giáo, nên đứng trước mặt cha mẹ hoặc thầy giáo, họ ấp a ấp úng nói không nên lời, ngay cả đi đứng cũng trở nên mất tự nhiên. Nhiều thiền sinh sợ phải trình pháp với Thiền Sư nên họ cứ đứng lấp la lấp ló ngoài cửa như đợi vào phòng nha sĩ.
Tất cả những sự sợ hãi trên không phải là hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi liên quan đến thiện pháp. Người hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi sợ những nghiệp xấu do phiền não đem lại. Khi phiền não hiện diện thì những hành động bất thiện dễ phát sinh.
Suy nghĩ đến hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi là một điều tốt đẹp. Hai yếu tố này càng mạnh bao nhiêu thì thiền sinh càng tinh tấn Chánh Niệm bấy nhiêu. Một thiền sinh sợ sự liên tục Chánh Niệm của mình bị gián đoạn thì sẽ luôn luôn nỗ lực cố gắng trau dồi Chánh Niệm giác tỉnh.
Bởi thế, Ðức Phật đã nói với vị trời mới của chúng ta: "Chiếc xe Bát Chánh Ðạo có chỗ tựa lưng là hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi." Nếu có được chỗ tựa lưng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi này thì chúng ta sẽ có được một nơi để nương tựa, để dựa lưng và ngồi một cách thoải mái trên suốt hành trình đi đến an lạc Niết Bàn. Giống như người lái xe đời nay, nếu không thận trọng thì cũng xảy ra những nguy hiểm. Cũng vậy, thiền sinh đi trên chiếc xe Bát Chánh Ðạo, nếu thiếu Chánh Niệm thì nguy hiểm cũng chờ chực hai bên đường. Mối nguy hiểm đó cũng là phiền não đang nằm hai bên chánh đạo. Nếu bạn lơ đễnh, lạc tay lái thì bạn sẽ gặp chúng ngay.
Cầu mong cho các bạn có thật nhiều hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi để có đủ tinh tấn trong việc hành thiền. Cầu mong các bạn tiến bước một cách êm đềm và nhanh chóng trên Bát Chánh Ðạo cho đến khi giác ngộ Niết Bàn.
Chánh Niệm là Vỏ Sắt Bao Quanh Chiếc Xe
Chiếc xe pháp bảo muốn đi một cách an toàn thì phải có một thân xe chắc chắn. Vào thời kỳ Ðức Phật, xe được làm bằng gỗ hay những vật liệu rắn chắc khác để cung tên và giáo mác không thể đâm thủng. Gần đây hơn, các quốc gia đã bỏ tiền ra để tạo những chiến xa hiện đại. Những chiếc xe hơi ngày nay cũng được chế tạo những bộ phận để bảo vệ an toàn. Có những chiếc xe rất an toàn và đầy đủ tiện nghi. Ngồi trên xe không khác gì đang ngồi trong nhà. Ngồi trong chiếc xe đó có thể tránh được gió máy, nóng lạnh, nắng nôi, mưa tuyết. Cũng vậy, khi thiền sinh có Chánh Niệm liên tục thì sẽ không bị các loại phiền não tấn công. Chánh Niệm là một thứ giáp sắt giúp cho tâm an toàn thoải mái và mát mẻ. Bao lâu tâm còn được bảo vệ bởi sự Chánh Niệm thì phiền não không thể xâm nhập.
Không một ai có thể đi an toàn trên chiếc xe Bát Chánh Ðạo mà không được bảo vệ bởi Chánh Niệm. Khi chiến xa xung trận, vỏ sắt của chiếc xe là yếu tố quan trọng bảo vệ chống lại mọi sự xâm nhập của kẻ thù. Trong khi hành Thiền Minh Sát là chúng ta đã bước vào mặt trận đối mặt chống lại phiền não; phiền não này đã đàn áp chúng ta từ lâu lắm rồi mà ta không còn nhớ rõ, bởi vậy chúng ta cần phải có một cái giáp sắt để bảo vệ.
Muốn thắng địch thì phải hiểu địch. Cũng vậy, chúng ta thử tìm hiểu xem phiền não phát sinh như thế nào để tiêu diệt chúng. Phiền não phát sinh từ sáu cửa giác quan. Khi sáu cửa giác quan thiếu sự phòng ngự của Chánh Niệm, thì chúng ta sẽ là nạn nhân của tham ái, sân hận, si mê và đủ loại phiền não khác.
Chẳng hạn, khi tiến trình của sự thấy xảy ra, lúc vật thấy tiếp xúc với mắt thì nhãn thức phát sinh. Nếu vật thấy là vật đẹp đẽ và bạn không Chánh Niệm thì tham ái sẽ phát sinh. Nếu vật thấy không đẹp cũng không xấu thì làn sóng si mê sẽ cuốn trôi bạn đi. Nếu vật thấy không vừa ý và bạn không Chánh Niệm thì sân hận sẽ phát sinh. Khi có Chánh Niệm thì phiền não không thể xâm nhập vào luồng ý thức của bạn được. Khi ghi nhận Chánh Niệm các tiến trình của sự thấy thì tâm có cơ hội để hiểu rõ bản chất thật sự của những gì đang xảy ra.
Lợi ích trực tiếp tức thời của Chánh Niệm là tâm được thanh tịnh, trong sáng, an bình và hạnh phúc. Chính vào thời điểm Chánh Niệm thì phiền não vắng bóng; do đó, tâm thanh tịnh. Tâm không thể ghi nhận hai đối tượng cùng một lúc. Vì vậy khi tâm tinh tấn Chánh Niệm thì phiền não không thể hiện khởi. Tâm thanh tịnh trong sáng, an lạc có thể được dùng để quán chiếu sâu hơn vào bản chất của hiện tượng.
Khi tâm phóng túng, không được kiểm soát thì những tâm sở bất thiện thường xảy ra hơn những tâm sở thiện. Ngay khi tham lam, sân hận, si mê xâm nhập vào tâm, chúng ta bắt đầu tạo nghiệp xấu, và nghiệp xấu này trả quả ngay trong kiếp hiện tại và cả kiếp vị lai. Tái sanh là hậu quả của nghiệp, mà có tái sanh thì phải có chết. Trong thời gian giữa sanh và tử, chúng sanh tạo nên nghiệp, cả nghiệp thiện lẫn nghiệp ác, khiến chúng sinh phải luân hồi mãi mãi. Bởi thế, thất niệm là con đường dẫn đến sự chết. Thất niệm là nguyên nhân dẫn đến cái chết trong kiếp sống này và các kiếp sống sau.
Bởi thế, Chánh Niệm giống như không khí trong lành luôn luôn cần thiết cho đời sống. Mọi người đều cần phải hít thở không khí trong lành. Nếu không có không khí trong lành hay phải sống trong bầu không khí ô nhiễm thì sớm muộn gì ta cũng bị bệnh và chết. Nếu tâm không có không khí trong lành của Chánh Niệm thì sẽ bị héo úa, hơi thở sẽ khó khăn và tắt nghẽn bởi phiền não.
Một người hít thở không khí ô nhiễm có thể bị bệnh cấp kỳ và phải chịu nhiều đau đớn khổ sở trước khi chết. Khi không Chánh Niệm chúng ta sẽ hít thở khí độc của phiền não và chúng ta sẽ chuốc lấy khổ đau. Nếu đối tượng làm cho hài lòng, thích thú hiện diện thì ta sẽ bị tham ái dày xéo. Nếu đối tượng không làm ta hài lòng, thích thú thì ta sẽ bị sân hận thiêu đốt. Nếu đối tượng làm tổn thương danh dự chúng ta thì lòng kiêu mạn của chúng ta sẽ nổi dậy. Phiền não có thể đến với ta dưới nhiều hình thái: Tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, tật đố, ganh tỵ, bỏn xẻn, v.v... Phiền não nào tấn công cũng đều khiến chúng ta đau đớn khổ sở như nhau. Tâm thanh tịnh, hỉ lạc, an bình, hạnh phúc chỉ có khi nào mọi phiền não bị xua đuổi khỏi tâm ta.
Một vài loại ô nhiễm khiến chúng ta bị chóng mặt, nhức đầu, xây xẩm, buồn nôn, rối loạn các bộ phận trong cơ thể. Một vài loại ô nhiễm như khí độc làm ta thiệt mạng. Phiền não cũng thế. Một số có thể gây ra cho chúng ta những thương tổn nhẹ, một số có thể khiến ta chết. Một số người bị choáng váng hay xây xẩm bởi dục lạc ngũ trần. Một số chết tức tưởi hay chết cấp kỳ bởi phiền não. Tham ái quá mạnh có thể làm chết người. Tham ái tích tụ nhiều năm có thể tạo ra nhiều chứng bệnh kinh niên hay cấp tính. Quá giận hay quá sợ cũng gây ra chết người. Ðó là trường hợp nạn nhân là những người bị đau tim. Phiền não cũng là nguyên nhân của nhiều bệnh tâm thần hay thần kinh.
Thật ra, phiền não còn nguy hiểm hay tai hại hơn bầu không khí bị ô nhiễm nặng nề nhất. Một người bị chết vì hít thở không khí ô nhiễm thì chất độc chỉ nằm trong cơ thể người đó. Nhưng sự tàn độc của phiền não có thể lan truyền đến kiếp sau, đó là chưa kể những ảnh hưởng gián tiếp của phiền não đối với người khác. Khi hít phiền não vào tâm thì phiền não đem đến kết quả là nghiệp, và nghiệp này sẽ chín trong tương lai.
Một người Chánh Niệm liên tục thì tâm sẽ dần dần được rửa sạch giống như phổi của một người nghiện hút đã bỏ thuốc thì dần dần chất độc hay chất nhựa của thuốc lá trong phổi sẽ tan biến đi. Một con tâm trong sạch thì sẽ dễ dàng tập trung tâm ý và trí tuệ sẽ có cơ hội để hiện khởi. Tiến trình chữa lành bệnh phải bắt đầu bằng Chánh Niệm. Nhờ Chánh Niệm được phát triển mà chánh định trở nên thâm sâu hơn, bạn sẽ dần dần đạt các tuệ minh sát. Khi trí tuệ tiếp tục phát triển và chín mùi thì cuối cùng bạn sẽ giác ngộ Niết Bàn. Khi đó, mọi phiền não đều được nhổ tận gốc rễ. Niết Bàn không có ô nhiễm.
Giá trị của Chánh Niệm chỉ có thể nhận biết được do chính người thực hành Chánh Niệm.
Chánh Kiến là Người Ðánh Xe
Dầu chiếc xe có kỳ diệu đến đâu, nếu không có người đánh xe thì cũng không thể đi đâu được. Cũng vậy, Ðức Phật giảng giải rằng Chánh Kiến (sammẻdiÔÔhi) cung cấp sinh lực cũng như chỉ hướng cho hành trình tâm linh của chúng ta. Kinh điển ghi lại sáu loại Chánh Kiến. Trong bài pháp nói về Chánh Kiến này, Ðức Phật đặc biệt đề cập đến Chánh Kiến phát sinh vào lúc thánh đạo tâm phát sinh. Thánh đạo tâm là một trong những tuệ giác cao nhất mà việc hành Thiền Minh Sát đem lại.
Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta
Chánh Kiến đầu tiên là Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta (Kamma sakata ditthi). Nghiệp là hành động thiện hay bất thiện. Nhiều người nghĩ rằng họ có quyền sở hữu hay có thể kiểm soát được các tài sản vật chất. Ðó là một quan niệm sai lầm mang đầy ảo tưởng hão huyền bởi vì mọi vật trên thế gian này đều Vô Thường , không vững bền và bị hủy hoại. Vì mọi vật thoát khỏi quyền kiểm soát nên ta không thể nào làm chủ được chúng. Nghiệp là của sở hữu độc nhất mà chúng ta có thể nương tựa. Phải luôn luôn nhớ rằng mọi hành động tốt hay xấu mà chúng ta làm, đều theo ta suốt hành trình luân hồi trong tam giới để trả quả tương ứng. Nghiệp có hiệu quả trực tiếp trên tâm khiến chúng ta vui hay buồn tùy theo nghiệp tốt hay xấu mà ta đã tạo. Nghiệp cũng có hiệu quả lâu dài. Bất thiện nghiệp dẫn ta tái sinh vào bốn cảnh khổ, và thiện nghiệp giúp ta sinh vào cõi an vui. Thiện nghiệp cao nhất đưa chúng ta ra khỏi vòng luân hồi.
Thấy rõ được rằng "đời sống này do nghiệp điều động" sẽ giúp ta chọn cho mình một lối sống thích đáng. Chánh Kiến thấy rõ nghiệp là tài sản của ta được gọi là ánh sáng thế gian, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể thấy và đánh giá được những gì chúng ta lựa chọn. Chánh Kiến về nghiệp chẳng khác gì một nhà ga chuyển tiếp nơi đó tàu hỏa có thể chọn hướng đi; hay một phi trường quốc tế, phi cơ có thể giao lưu nhiều nước trên thế giới. Bởi vì chúng ta cũng như mọi chúng sanh khác đều mong muốn hạnh phúc, sự hiểu biết về nghiệp sẽ giúp cho ta có nhiệt tâm trong việc phát triển những việc thiện và lánh xa các việc ác. Nhờ thế, chúng ta được hưởng an vui hạnh phúc và tránh những tai hại sau này.
Thực hành bố thí và trì giới là tạo cơ hội cho mình tái sanh vào nơi có những điều kiện và hoàn cảnh tốt. Những nghiệp thiện quí giá này sẽ giúp chúng ta đi trên đường tiến đến Niết Bàn.
Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh
Sau khi có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta thiền sinh thực hành thiền định. Thiền định hay thiền chỉ có lợi ích trước mắt giúp thiền sinh đạt được sự yên tịnh, vắng lặng, nhập định. Loại chánh kiến thứ hai là Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh (Jhana samma ditthi). Ðây là kiến thức phát sanh liên hệ đến mỗi một tầng thiền trong tám tầng thiền định. Có ba lợi ích của Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh. Lợi ích thứ nhất là: trước lúc chết, nếu tâm có đủ sức mạnh để an trú vào các tầng thiền thì thiền sinh có thể tái sanh vào cõi phạm thiên và có thể sống một đời sống rất dài, nhiều kiếp và nhiều chu kỳ của trái đất. Lợi ích thứ hai là có thể dùng các tầng thiền định này làm căn bản để khai triển Thiền Minh Sát. Lợi ích thứ ba là có thể dùng các tầng thiền định để khai triển thần thông.
Dọn Ðường Cho Tuệ Giác Tối Hậu: Phát Triển Tuệ Minh sát
Chúng ta để hết thời gian và tận tâm khai triển loại Chánh Kiến thứ ba bên trong chúng ta. Ðó là Chánh Kiến Về Minh Sát. Chánh Kiến này phát sinh nhờ ở việc hành Thiền Minh Sát. Khi có giới luật trong sạch và có Tinh tấn Chánh Niệm thì trí tuệ sẽ phát triển một cách tự nhiên. Một điều quan trọng cần nhớ là Chánh Kiến không phải là một quan niệm, mà Chánh Kiến là một loại trí tuệ trực giác do sự thấy rõ một cách trực tiếp bản chất của sự vật.
Một tổng thống khi muốn đi từ tư dinh của mình đến một nơi nào đó thì phải cần có sự chuẩn bị trước. Nhân viên an ninh phải kiểm soát, xem xét và dự phòng những cách giải quyết trong nhiều tình huống có thể xảy ra. Chẳng hạn phải điều động lực lượng phòng vệ, làm hàng rào ngăn cản đám đông, di chuyển những xe cộ để không làm cản trở cuộc hành trình, xem xét coi có chất nổ hay không. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ, kỹ càng thì vị tổng thống mới bước lên xe.
Cũng như vậy, trên Bát Chánh Ðạo, Chánh Kiến Về Minh Sát giống như những cơ quan an ninh. Trí tuệ thấy rõ Vô Thường , Khổ, Vô Ngã có nhiệm vụ như những cảnh sát loại bỏ mọi sự dính mắc trên đường đạo. Những sự dính mắc này là những tà kiến, lý thuyết, quan niệm sai lầm. Khi đường đạo đã được phát quang và sửa soạn chu đáo, lúc bấy giờ Chánh Kiến Của Bát Chánh Ðạo sẽ xuất hiện và nhổ gốc rễ phiền não.
Tiến Trình Loại Bỏ
Trên đường đạt đến thánh đạo tâm, mỗi tầng tuệ loại bỏ một phần tà kiến hay quan điểm sai lầm về bản chất của sự vật. Tuệ Minh Sát đầu tiên xuyên thấu vào bản chất thật sự của các hiện tượng danh sắc cho ta thấy rõ danh và sắc là hai phần riêng biệt, và đời sống chẳng có gì ngoài dòng lưu chuyển không ngừng của hai hiện tượng này. Vào giai đoạn này, chúng ta đặc biệt loại bỏ, quét sạch, khai thông quan kiến sai lầm. Quan kiến sai lầm trước đây là lấy cái giả làm cái thật, cái không có cho là có; chẳng hạn như quan niệm rằng mọi vật đều trường tồn vĩnh cữu và có một cái ngã bất diệt.
Tuệ giác thứ hai là Hểu Rõ Nhân Quả, loại bỏ sự nghi ngờ, như trước đây phân vân không biết sự vật có phải ngẫu nhiên xảy ra chăng, thì nay hiểu rõ ràng rằng không có cái gì sanh ra mà không có nguyên nhân. Thêm vào đó, chúng ta hiểu biết một cách rõ ràng trực tiếp rằng không có một sức mạnh bên ngoài nào là nhân của các hiện tượng.
Càng hành thiền thâm sâu hơn, chúng ta càng thấy rõ đặc tính Vô Thường của các hiện tượng và hiểu rõ bằng trực giác rằng mọi chuyện đã xảy ra trong quá khứ hay sẽ xảy ra trong tương lai cũng đều Vô Thường cả. Nhờ hiểu biết Vô Thường. Chúng ta thấy rõ chẳng có nơi nào có thể nương tựa hay cậy nhờ. Như thế là ta đã loại bỏ được tư tưởng sai lầm rằng bình an và ổn cố có thể được tìm thấy trong các sự vật trên thế gian này. ở tầng mức trí tuệ này, chúng ta cảm thấy từ trong đáy lòng mình rằng, bị đàn áp bởi các hiện tượng danh sắc, chuyển biến không ngừng là một điều đau khổ lớn lao. Tiếp theo, chúng ta sẽ nhận ra rằng không có ai có thể điều khiển, kiểm soát hay ngăn cản sự đến và đi của các sự vật trên thế gian này. Khi đó một cảm giác sợ hãi sâu xa và bị áp chế phát sinh. Từ đó ta có trực giác thấy rõ sự Vô Ngã. Ba loại trí tuệ sau cùng này là khởi đầu của Chánh Kiến Về Minh Sát liên quan đến Vô Thường , khổ và Vô Ngã.
Chánh Kiến Về Minh Sát Sanh Khởi
Khi Chánh Kiến Về Minh Sát khởi sinh, chiếc xe đã sẵn sàng. Xe rung chuyển một ít và bắt đầu di động khi thấy rõ con đường dẫn đến Niết Bàn. Bây giờ, bạn có thể lăn bánh để xe thẳng tiến theo hướng đã định. Xe đã có vỏ sắt an toàn, chỗ tựa lưng vững chắc, tài xế đã vào chỗ ngồi, bạn chỉ cần chuyển nhẹ hai bánh xe nữa thôi.
Một khi bạn được tuệ giác thấy rõ Vô Thường , Khổ, Vô Ngã, bạn sẽ dần dần thấy rõ sự sinh ra và sự diệt đi của các đối tượng; sự vật càng lúc càng nhanh hơn và rõ ràng hơn. Việc hành thiền của bạn càng thâm sâu. Bạn càng thấy sự vật sinh diệt nhanh hơn và với tốc độ mau lẹ khủng khiếp, một phần triệu giây, một phần tỷ giây. Và cuối cùng, bạn không thể nào thấy được sự sinh. Chỗ nào bạn để mắt đến đều diệt đi nhanh chóng như một tia chớp. Bạn không còn thấy sinh mà chỉ thấy diệt. Bạn có cảm giác bàng hoàng như đất đang sụp đổ dưới chân. Sự diệt mất này không phải trừu tượng, lý thuyết mà hiện diện trong toàn cuộc sống của bạn trong giai đoạn này.
Càng hành thiền thâm sâu hơn, bạn càng đến gần đích hơn. Khi tất cả các tầng Tuệ Minh Sát đều được hoàn tất. Chánh Kiến của đạo tâm sẽ đứng ra cáng đáng mọi việc và đưa bạn đến nơi cư trú an toàn. Ðó là Niết Bàn.
Khi tuệ giác Minh Sát hiện diện thì phiền não không có cơ hội phát sinh. Nhưng phiền não chưa bị nhổ tận gốc rễ mà chỉ tạm thời vắng mặt, chờ đợi cơ hội để phục hồi sức mạnh.
Ấn Chứng Cuối Cùng: Làm Suy Yếu Và Tận Diệt Phiền Não
Chỉ vào lúc Chánh Kiến về thánh đạo phát sinh thì phiền não mới bị nhổ tận gốc rễ. Bạn có thể thắc mắc thế nào là nhổ tận gốc rễ phiền não. Phiền não đã phát sinh thì không thể loại bỏ nữa vì nó đã trôi qua. Phiền não chưa phát sinh thì không thể loại bỏ vì nó chưa có mặt. Và ngay trong hiện tại, phiền não sinh ra rồi diệt ngay thì làm thế nào để diệt nó? Nhổ tận gốc rễ ở đây là nhổ tận gốc rễ phiền não ngủ ngầm. Có hai loại phiền não: Dục ái và Hữu ái. Dục ái liên quan đến đối tượng, Hữu ái liên quan đến sự tiếp tục sinh tồn. Dục ái có liên quan đến danh sắc, sẽ phát khởi khi có điều kiện thuận lợi, đó là khi ta thiếu Chánh Niệm. Khi một đối tượng quá mạnh hiện ra nếu chúng ta thiếu Chánh Niệm để ghi nhận một cách chính xác và khách quan thì những phiền não ngủ ngầm sẽ sống dậy và hiển hiện ra. Tuy nhiên, nếu chúng ta Chánh Niệm thì phiền não sẽ không hiện ra. Khi một đối tượng xuất hiện, nếu ta không có Chánh Niệm ghi nhận một cách chính xác rõ ràng, thì phiền não sẽ phát sinh. Khi một đối tượng xuất hiện, nếu có Chánh Niệm ghi nhận, thì phiền não sẽ bị đẩy xa. Nhờ Chánh Niệm, phiền não chỉ bị đẩy xa chớ chưa bị tận diệt. Bao lâu chúng ta còn luân lưu trong tam giới thì phiền não vẫn còn. Chúng tiềm ẩn trong dòng tâm thức. Chúng chỉ bị tận diệt hay bị nhổ tận gốc rễ bởi thánh đạo tâm mà thôi.
Ngày xưa, người ta chữa trị bệnh sốt rét qua hai giai đoạn. Thoạt đầu cho bệnh nhân uống thuốc để nhiệt độ trở lại bình thường, không để cho bệnh nhân lúc quá nóng, lúc quá lạnh. Ðây là cách tăng cường sức mạnh cho cơ thể và làm suy yếu vi trùng bịnh sốt rét. Cuối cùng, sau khi nhiệt độ đã ổn cố, bệnh nhân sẽ được uống liều thuốc thứ hai để diệt vi trùng. Trong việc hành Thiền Minh Sát để điều trị con tâm cũng vậy. Ðầu tiên dùng Chánh Niệm để làm suy yếu phiền não. Sau đó thánh đạo tâm sẽ tận diệt phiền não.
Một thí dụ khác là việc làm giấy tờ xuyên qua thủ tục bàn giấy. Muốn làm một giấy tờ gì, như xin phép làm việc gì chẳng hạn, trước nhứt bạn phải đến lầu thứ nhất gặp người chỉ dẫn. Bạn sẽ được hướng dẫn lên lầu thứ hai để gặp người phụ trách công việc của bạn. Tại đây, bạn sẽ được giải thích và hướng dẫn bạn phải cần làm gì và nạp giấy tờ gì. Sau khi đã nạp đủ hồ sơ cần thiết, bạn sẽ nhận được một số đơn để điền vào và ký tên. Sau khi điền đơn phải đợi người nhận đơn duyệt lại và ký nhận. Sau đó đơn sẽ được đưa lên một cấp cao hơn để duyệt xét. Phải mất nhiều thời gian để hoàn tất mọi thủ tục. Sau cùng, bạn lên tầng lầu chót và chỉ cần nửa giây là nhận được chữ ký quyết định. Giấy tờ của bạn bây giờ đã xong, nhưng trước đó bạn phải qua nhiều thủ tục hành chánh rườm rà.
Trong việc hành Thiền Minh Sát cũng vậy, cũng có rất nhiều thủ tục bàn giấy. Mặc dầu thánh đạo tâm đến nhanh hơn lúc bạn nhận chữ ký cuối cùng, nhưng bạn phải thực hành mới được. Phải qua nhiều thời gian. Khi mọi việc đã diễn biến theo thứ tự, đạo của Chánh Kiến sẽ xuất hiện và xác chứng rằng mọi phiền não đã bị tận diệt.
Phần đầu tiên của tuệ Minh Sát có thể được gọi là "nhân công đạo" (những người nhân công làm việc cho đạo). Vì phải làm tròn công việc mà không được lẩn trốn. Thánh đạo tâm này giống như người chủ giao việc cho người thợ. Người chủ không thể ký bạch chỉ chứng nhận trước rằng người thợ đã hoàn tất công việc trong khi đó người thợ chưa làm được gì cả, ngay cả việc căn bản đầu tiên vẫn chưa hoàn thành.
Chánh Kiến Về Ðạo Và Quả: Dập Tắt Lửa Phiền Não, Rưới Nước Vào Tro Nóng
Khi các tuệ Minh Sát đã hoàn tất, đạo tâm sẽ tự động khởi sinh, theo sau là quả tâm. Tiếng Pali gọi đạo và quả tâm là magga và phala. Thánh Ðạo Chánh Kiến và Thánh Quả Chánh Kiến là Chánh Kiến thứ tư và thứ năm trong sáu loại Chánh Kiến. Khi thánh đạo tâm phát sinh thì thánh đạo Chánh Kiến nhổ tận gốc rễ nhóm phiền não gây ra sự tái sinh vào bốn cảnh khổ, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, địa ngục. Thánh quả Chánh Kiến là một phần của thánh quả tâm xuất hiện ngay khi thánh quả tâm hiện khởi. Khi thánh quả tâm hiện khởi thì lửa phiền não bị tận diệt, nhưng than hồng và tro nóng vẫn còn. Thánh Quả Chánh Kiến rưới nước lên than hồng và tro nóng phiền não.
Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại
Chánh Kiến thứ sáu, hay Chánh Kiến cuối cùng, là Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại. Tuệ xét lại nối gót theo thánh quả tâm và kinh nghiệm Niết Bàn. Tuệ xét lại ôn lại năm điều. Thứ nhứt, sự xuất hiện của đạo tâm. Thứ hai, sự xuất hiện của quả tâm. Thứ ba, Niết Bàn chính nó là một đề mục của tâm. Thứ tư, phiền não đã tận diệt và thứ năm, phiền não chưa tận diệt.
Tóm lại, có sáu loại Chánh Kiến: 1) Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta. 2) Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh. 3) Chánh Kiến Về Minh Sát. 4) Thánh Ðạo Chánh Kiến. 5) Thánh Quả Chánh Kiến và 6) Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại.
Loại Chánh Kiến đầu tiên, Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta là loại Chánh Kiến tồn tại vĩnh viễn, Chánh Kiến này không bao giờ mất. Quả đất này có thể bị tan rã hủy hoại nhưng vẫn có những chúng sanh trong các cõi khác có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta.
Người không phân biệt được các hành vi thiện ác, không biết thế nào là thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, sẽ không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chẳng khác nào một đứa trẻ bị mù bẩm sinh: Mù từ trong bụng mẹ và mù khi ra đời. Nếu đứa trẻ này lớn lên, nó cũng không thể thấy rõ để tự hướng dẫn mình. Một người bị mù và không được ai hướng dẫn sẽ gặp nhiều tai nạn.
Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh sẽ luôn luôn có mặt bao lâu thiền sinh còn thực tập để đạt các tầng thiền. Phật giáo có thể suy tàn, nhưng vẫn luôn luôn còn có những người thực hành sự định tâm và nhập định.
Tuy nhiên, những loại Chánh Kiến còn lại chỉ hiện diện khi giáo pháp của Ðức Phật còn tồn tại. Từ thời Ðức Phật Thích Ca còn hiện tiền đến nay, giáo pháp của Ngài vẫn không ngừng phổ biến, và ngày nay lan tràn khắp nơi trên thế giới, ngay cả những xứ không phải Phật giáo cũng vẫn có những nhóm hay những tổ chức thực hành theo lời Phật dạy.
Người có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta hay có Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh chưa đến gần được ánh sáng của giáo pháp. Họ có thể có được ánh sáng của thế gian, nhưng không có được ánh sáng của Như Lai. Bốn loại Chánh Kiến sau, từ Chánh Kiến Về Minh Sát đến Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại chứa đựng ánh sáng của giáo pháp.
Khi thiền sinh có thể phân biệt được thân và tâm thì họ thoát khỏi các ảo tưởng về tự ngã, và bức màn che đậy sự tối tăm đầu tiên được tháo gỡ. Chúng ta có thể nói ánh sáng của giáo pháp đã hé lộ trong tâm họ như ánh sáng thái dương bắt đầu hé lộ vào buổi bình minh. Nhưng còn nhiều màn nữa cần được tháo gỡ. Lớp màn thứ hai của si mê là quan điểm cho rằng sự vật xảy ra có tính cách ngẫu nhiên, may rủi. Bức màn này sẽ được cởi bỏ khi có được tuệ giác thấy rõ nhân quả. Khi thiền sinh thấy được tuệ nhân quả, ánh sáng trong tâm thiền sinh sẽ sáng tỏ hơn một chút, nhưng thiền sinh không nên lấy làm thỏa mãn ở điểm này vì tâm thiền sinh vẫn còn đen tối, si mê vì chưa thấy rõ các đặc tính Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Muốn loại bỏ sự đen tối này, thiền sinh phải cố gắng hành thiền nhiều hơn: Kiên trì Tinh tấn theo dõi sự vật khi chúng khởi lên, Chánh Niệm sắc bén, tập trung tâm ý sâu xa. Cuối cùng, trí tuệ sẽ khởi lên một cách tự nhiên.
Bây giờ thiền sinh thấy rằng không thể tìm thấy nơi nương tựa trong các hiện tượng Vô Thường này. Ðiều này khiến thiền sinh thất vọng, thất vọng nhiều, nhưng ánh sáng bên trong sáng tỏ hơn. Thiền sinh thấy rõ ràng đặc tính Khổ và Vô Ngã của các hiện tượng. Lúc bấy giờ chỉ còn một bức màn cuối cùng che phủ sự nhận chân Niết Bàn cần phải lột bỏ, và bức màn cuối cùng này chỉ được lột bỏ bởi thánh đạo tâm mà thôi. Khi bức màn cuối cùng được lột bỏ, ánh sáng của giáo pháp thực sự bắt đầu chiếu rạng.
Nếu bạn khai triển tất cả các loại Chánh Kiến, tâm bạn sẽ sáng ngời. Kể từ đó, dù bạn có tái sanh ở đâu trong vòng luân hồi đi nữa, bạn sẽ không bao giờ bị tách rời khỏi ánh sáng của trí tuệ. Ánh sáng trí tuệ này ngày càng sáng tỏ cho đến khi bạn đạt đến đạo quả A La Hán, mức giác ngộ cuối cùng.
Làm Chủ Chiếc Xe
Bất luận người nào, nam hay nữ, khéo điều khiển và làm chủ chiếc xe này, chắc chắn sẽ đạt đến Niết Bàn.
Khi vị trời của chúng ta nghe bài pháp về chiếc xe này, ông hiểu rõ những lời Phật dạy và tức khắc trở thành một vị Tu Ðà Huờn, làm chủ chiếc xe lộng lẫy có tên là Bát Chánh Ðạo. Mặc dầu bài pháp của Ðức Phật trực tiếp hướng đến mục đích tối hậu là A La Hán, nhưng vị trời của chúng ta chưa đủ túc duyên để đạt quả giải thoát cuối cùng, mà chỉ đạt quả nhập lưu.
Ích lợi Của Quả Tu Ðà Hườn: Làm Cạn Biển Khổ Tam Giới
Lợi ích của quả Tu Ðà Huờn: Làm cạn biển tam giới, hay biển khổ. Người đạt quả Tu Ðà Huờn không còn bị tái sinh vào bốn đường ác. Theo kinh điển, người đạt quả Nhập Lưu tận diệt được ba loại phiền não, thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ (dính mắc vào sự thực hành sai lầm). Chú giải ghi thêm rằng vị Tu Ðà Huờn còn diệt được tâm ganh tỵ và bỏn xẻn.
Vị trời của chúng ta chắc rằng đã đạt được tuệ giác thấy rõ danh sắc trong lúc làm tỳ khưu, và lúc đạt được tuệ này, vị cựu tỳ khưu thoát khỏi thân kiến không còn chấp vào một cái ngã vĩnh cửu. Tuy thế, sự từ bỏ tà kiến chỉ tạm thời. Khi đạt đạo quả Tu Ðà Huờn, tà kiến mới vĩnh viễn được loại trừ. Người đạt quả Tu Ðà Huờn không còn ảo tưởng về tự ngã nữa.
Loại phiền não thứ hai được loại trừ là hoài nghi. Loại phiền não này cũng gần với tà kiến. Khi một người không hiểu rõ ràng, chính xác bản chất của sự vật thì sẽ khó hiểu biết được điều đúng, điều sai, như người đứng giữa ngã ba đường bối rối không biết chọn đường nào, hoặc như khách lữ hành bối rối, phân vân không biết làm sao đi đúng hướng. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan này làm cho thân tâm suy nhược, mòn mỏi.
Khi thấy được bộ máy nhân quả, thiền sinh sẽ tạm thời loại bỏ hoài nghi. Thiền sinh nhận thấy giáo pháp là chân lý, là sự thật, thấy rõ danh và sắc liên hệ nhân quả với nhau, mà không có gì trên thế gian này không có nhân duyên. Tuy nhiên, sự loại bỏ hoài nghi này chỉ có tính cách tạm thời. Bao lâu có Chánh Niệm thì hoài nghi bị loại bỏ. Lúc không có Chánh Niệm, hoài nghi sẽ xen vào. Chỉ khi đạt quả Tu Ðà Huờn, hoài nghi mới bị tận diệt. Người nào đã đi đến đích cuối cùng của Bát Chánh Ðạo là Niết Bàn thì người ấy sẽ có đức tin kiên cố vào Ðức Phật, vào những lời dậy dỗ chính xác và hiệu quả của Ngài, và vào chư Thánh Tăng đã đi theo Ngài.
Loại phiền não thứ ba được loại trừ khi đạt quả Tu Ðà Huờn là giới cấm thủ, nghĩa là tin tưởng vào lối thực hành sai lầm. Chúng ta có thể hiểu biết điều này một cách tổng quát. Sự hiểu biết này sẽ trọn vẹn hơn nếu được xem xét dưới ánh sáng của Tứ Diệu Ðế. Khi những vị có khả năng đắc Tu Ðà Huờn, khai triển Bát Chánh Ðạo bên trong mình lần đầu tiên, họ hiểu chân lý thứ nhất: Tất cả mọi vật đều khổ và bất toại nguyện. Thân và tâm là khổ. Sự phát triển đầu tiên của một thiền sinh bao gồm trong việc quán sát các sự khổ này. Khi chân lý thứ nhất được thấy trọn vẹn thì thiền sinh sẽ được thấy ba chân lý sau, đó là sự loại bỏ tham ái, (chân lý thứ hai) sự chấm dứt đau khổ (chân lý thứ ba) và sự phát triển Bát Chánh Ðạo (chân lý thứ tư).
Phần sơ khởi hay phần trí tuệ của Bát Chánh Ðạo sẽ được phát triển trong từng sát na Chánh Niệm. Ðến một lúc nào đó, phần thế tục của Bát Chánh Ðạo này sẽ được chín mùi và trở thành trí tuệ siêu thế. Thế nên, khi giác ngộ Niết Bàn, vị trời này bây giờ hiểu rõ rằng "thực hành là con đường duy nhất để giải thoát". Ông ta biết rằng ông đã có kinh nghiệm về việc chấm dứt đau khổ thực sự, chấm dứt nhân duyên, đó là Niết Bàn. Thiền sinh khi hành thiền đến mức thành đạt cũng đều có những cảm giác như vậy.
Bát Chánh Ðạo là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn. Niết Bàn chỉ có thể đạt được qua sự thực hành. Với sự hiểu biết này, vị Tu Ðà Huờn không còn tin tưởng vào một phương pháp thực hành nào mà trong đó không có Bát Chánh Ðạo.
Theo Thanh Tịnh Ðạo thì vị Tu Ðà Huờn vẫn còn tham lam, sân hận và si mê tấn công, và vẫn còn kiêu mạn. Nhưng vì thánh đạo tâm đã nhổ tận gốc rễ các phiền não dẫn đến sự tái sanh vào bốn đọa xứ nên các vị Tu Ðà Huờn không còn tái sanh vào các cảnh dữ này.
Thanh Tịnh Ðạo còn cho ta biết rằng vị Tu Ðà Huờn đã thành công trong việc làm khô đại dương luân hồi tam giới. Bao giờ chưa đắc được quả thánh đầu tiên thì ta vẫn còn tiếp tục luân lưu trong vòng luân hồi bất tận không biết đâu là điểm khởi đầu này. Phạm vi của tam giới rộng vô cùng, ta cứ đi mải miết. Người đắc quả Tu Ðà Huờn chỉ còn sống trong tam giới tối đa bảy kiếp trước khi hoàn toàn giác ngộ đạo quả A La Hán. Bảy kiếp này là bao so với vô số kiếp sống trong vòng tam giới? Bởi thế mới gọi quả Tu Ðà Huờn làm cạn biển khổ tam giới.
Bất thiện nghiệp chỉ có thể xuất hiện dưới ảnh hưởng của si mê và tham ái. Khi một số si mê và tham ái biến mất, thì một số bất thiện nghiệp như tái sanh vào các cảnh khổ cũng bị mất hiệu lực. Khi còn bị các loại phiền não như tà kiến, ngã kiến, hay nghi ngờ về đạo quả và nghiệp báo chi phối thì con người làm biết bao nhiêu điều bất thiện. Các hành vi bất thiện mà họ đã làm chắc chắn sẽ dẫn họ đến bốn cõi dữ. Không còn các loại phiền não này nên vị Tu Ðà Huờn không còn làm những hành động ác có thể khiến họ tái sanh vào bốn cảnh khổ. Thêm vào đó, những nghiệp ác mà trước đây họ đã tạo có thể dẫn họ tái sanh vào khổ cảnh cũng bị cắt đứt vào lúc họ đạt được thánh đạo tâm. Bởi thế, một vị Tu Ðà Huờn không còn phải lo sợ sinh vào bốn đường dữ nữa.
Bảy Kho Báu của Bậc Thánh Nhân
Lợi ích khác của bậc Tu Ðà Huờn là được làm chủ bảy kho báu của thánh nhân. Thánh nhân là người trong sạch thanh tịnh, có tư cách thanh cao, đã đạt được một trong bốn mức giác ngộ. Bảy kho báu này là đức tin, giới hạnh, hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ tội lỗi, học nhiều hiểu rộng, bố thí (hay dứt bỏ) và trí tuệ.
Ðầu tiên là đức tin . Các bậc thánh có đức tin bất thối vào Phật, Pháp và Tăng. Ðức tin của các Ngài không thối chuyển vì nó phát sinh từ kinh nghiệm trực tiếp và hiểu biết. Bậc thánh nhân không bao giờ bị mua chuộc, lung lạc hay hư hỏng đến nỗi từ bỏ Phật, Pháp, Tăng. Không có phương tiện nào, dù ngọt ngào hay đe dọa, dù gian trá hay nguy hại đến tánh mạng có thể làm cho các Ngài từ bỏ đức tin.
Kho báu thứ hai là giới hạnh . Giới hạnh là thanh lọc phẩm hạnh. Bực Tu Ðà Huờn không thể nào phạm ngũ giới, không bao giờ có tư tưởng hay hành động sai lầm có thể dẫn đến việc tái sanh vào bốn cảnh khổ. Bậc Tu Ðà Huờn thoát khỏi thân ác nghiệp, thoát khỏi phần lớn các khẩu ác nghiệp, thoát khỏi tà mạng và cuối cùng không bao giờ thực hành theo tà đạo.
Kho báu thứ ba và thứ tư là hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi . ở vị Tu Ðà Huờn, yếu tố này được phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi thế các Ngài không thể nào làm các nghiệp ác.
Kho báu thứ năm là học nhiều hiểu rộng , liên quan đến lý thuyết thiền cũng như cách thực tập thiền. Thật vậy, bậc Tu Ðà Huờn đã học được kỹ thuật đi trên Bát Chánh Ðạo, biết thực hành theo Bát Chánh Ðạo để tiến đến Niết Bàn.
Kho báu thứ sáu là bố thí hay lòng từ thiện. Thật ra đây là sự dứt bỏ. Vị Tu Ðà Huờn từ bỏ một cách hào hiệp mọi phiền não dẫn đến sự tái sanh vào các khổ cảnh. Thêm vào đó, vị Tu Ðà Huờn bố thí một cách rộng rãi. Lòng từ thiện của các Ngài liên tục và chân thật.
Kho báu cuối cùng là trí tuệ . Ðiều này liên quan đến các tuệ giác Minh Sát và Trí Tuệ. Khi hành thiền vị Tu Ðà Huờn không bị tà định và tà niệm chi phối. Vị Tu Ðà Huờn không còn có các thô tướng phiền não bùng khởi bên trong và biểu hiện qua hành động, lời nói và tư tưởng. Các Ngài cũng thoát khỏi nỗi sợ hãi bị tái sanh vào cảnh khổ. Sự bình an cá nhân là điều quan trọng thiết yếu. Sự bình an này có thể đạt được nhờ thoát khỏi sợ hãi. Nếu nhiều người trên thế gian này có được sự an bình như vậy thì thế giới sẽ hoà bình an lạc. Thế giới an bình chỉ có thể bắt đầu từ bên trong.
Người Con Thật Sự của Ðức Phật
Một lợi ích khác của bậc Tu Ðà Huờn là trở thành người con thật sự của Ðức Phật. Nhiều người có lòng nhiệt thành với Tam Bảo, họ có đức tin mạnh mẽ, hàng ngày cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu hoàn cảnh thay đổi, họ sẵn sàng từ bỏ đức tin. Họ sẽ tái sanh mà không có đức tin. Một người có thể rất trong sạch, có thiện tâm trong kiếp này, nhưng sẽ trở thành một kẻ vô lại ở kiếp tới. Không có một bảo đảm nào trừ khi đạt được đạo quả thứ nhất và trở thành một người con trai hay con gái thực sự của Ðức Phật.
Trong Thanh Tịnh Ðạo dùng chữ orasa putta với nghĩa là một đứa con chính thức, đứa con trưởng thành. Putta thường dịch là con trai, nhưng thực ra đây là một chữ tổng quát để chỉ con cháu bao gồm cả con gái. Theo Thanh Tịnh Ðạo thì vị Tu Ðà Huờn có được hàng trăm lợi ích. Thật vậy, lợi ích của vị Tu Ðà Huờn vô số kể. Vị Tu Ðà Huờn hoàn toàn dính liền với giáo pháp, nhiệt tâm, hoan hỉ trong khi nghe chân pháp và có thể hiểu rõ giáo pháp thâm sâu mà người thường khó hiểu nổi. Khi nghe một bài pháp được thuyết giảng đúng cách, vị Tu Ðà Huờn tràn đầy hỉ lạc.
Và bởi vì vị Tu Ðà Huờn đã bước vào dòng suối, hay nhập lưu, tâm của vị Tu Ðà Huờn luôn luôn trú trong giáo pháp. Trong khi hành xử bổn phận của mình đối với thế gian, vị Tu Ðà Huờn như con bò mẹ đang ăn cỏ nhưng vẫn luôn luôn trông chừng chú bê con. Tâm của vị Tu Ðà Huờn hướng về giáo pháp nhưng các Ngài không quên trách nhiệm đối với thế gian. Vị Tu Ðà Huờn đạt được sự định tâm dễ dàng nếu các Ngài có sự Tinh tấn thích hợp trong lúc hành thiền với ước muốn tiến xa hơn trên chánh đạo.
Chiếc Xe Cho Mọi Người, Chiếc Xe Không Bao Giờ Hư Hỏng
Ðức Phật kết luận bài pháp bằng cách nói rõ ràng rằng bất kỳ ai biết điều khiển chiếc xe này đều đạt được kết quả, không phân biệt nam, nữ. Chiếc xe giải thoát này thích hợp cho tất cả mọi người.
Ở thời đại văn minh tân tiến này, chúng ta có rất nhiều loại xe tân kỳ, và càng ngày càng có nhiều phát minh mới trong lãnh vực chuyển vận. Con người có thể du hành bằng đường bộ, đường thủy hay đường hàng không. Một người bình thường có thể đi vòng quanh thế giới một cách dễ dàng. Con người đã đi bộ trên mặt trăng. Phi thuyền đã đến những hành tinh khác và có thể vượt xa hơn.
Dầu cho phi thuyền có thể vượt qua không gian đi nữa, nhưng cũng không thể đưa bạn đến Niết Bàn. Nếu thật sự có chiếc xe đến được Niết Bàn thì tôi rất hân hoan có được một chiếc như vậy. Tuy nhiên, tôi chưa được nghe quảng cáo hay một lời bảo đảm nào về một chiếc xe kỳ diệu có thể đưa người đến Niết Bàn như vậy.
Dầu cho kỹ thuật khoa học có tiến bộ đến đâu cũng không thể có được một phương tiện chuyên chở bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tai nạn xảy ra thường xuyên trên đất liền, trên biển cả và trong không gian. Nhiều người đã chết vì các tai nạn này. Tôi không cho rằng các phương tiện chuyên chở đem lại lợi ích, nhưng tôi muốn nói rằng các phương tiện này vẫn chưa bảo đảm an toàn. Chỉ có chiếc xe Bát Chánh Ðạo mới bảo đảm an toàn một trăm phần trăm. Những chiếc xe tân tiến có tiêu chuẩn và sự an toàn cao, nếu giàu có, bạn có thể sắm một chiếc xe cực kỳ tối tân, chạy nhanh, êm ái thoải mái, và bạn có thể gắn thêm nhiều tiện nghi khác theo ý bạn. Nếu bạn không giàu, bạn có thể vay tiền hay thuê một chiếc xe limousine hoặc một chiếc xe thể thao trong một thời gian ngắn hoặc dùng các phương tiện chuyên chở công cộng. Và ngay cả khi bạn nghèo, bạn cũng có thể xin quá giang xe.
Tuy nhiên, không có một loại xe nào mà không có khuyết điểm, dầu đó là chiếc xe riêng của chính bạn. Bạn phải đổ xăng, phải bảo trì sửa chữa. Biết bao nhiêu công việc phải làm. Mọi chiếc xe, một ngày nào đó rồi cũng bị vứt bỏ. Càng xử dụng nhiều, xe càng mau đến nghĩa địa xe.
Cần phải sản xuất một chiếc xe đến Niết Bàn thật ưu mỹ và có tiêu chuẩn cao để chiếc xe này không bao giờ bị hư mòn. Nếu chiếc xe Niết Bàn được phổ biến để mọi người đều có một chiếc thì sẽ tốt đẹp biết bao. Thế gian này sẽ hoà bình an lạc. Chiếc xe này đưa ta đến một nơi tuyệt diệu và vô giá. Niết Bàn không thể mua được dù bạn giàu đến đâu, cũng không thể thuê mướn được. Bạn phải tự tạo lấy để nó thuộc quyền sở hữu của bạn. Chiếc xe này chỉ hữu dụng khi bạn làm chủ nó.
Nhiều chiếc xe hơi được làm sẵn và được tung ra thị trường từ các hãng sản xuất. Nhưng chiếc xe dẫn đến Niết Bàn là chiếc xe tự chế. Bạn phải tự chế tạo chiếc xe này cho chính mình. Bạn phải có đức tin ngay từ lúc đầu là bạn sẽ đến Niết Bàn và bạn cũng phải tin tưởng vào con đường dẫn bạn đến đích nữa. Bạn phải có động cơ thúc đẩy, ước muốn chân thành, cương quyết đạt được mục tiêu; Nhưng chỉ có động cơ không thôi, bạn không thể đi xa. Bạn phải làm việc nữa. Phải hết sức Tinh tấn Chánh Niệm, bền chí kiên trì từ sát na này đến sát na khác để chánh định được gây dựng và trí tuệ bắt đầu nở hoa và chín muồi.
Nếu chiếc xe Bát Chánh Ðạo được sản xuất hàng loạt thì kỳ thú biết bao, nhưng không thể nào làm như thế được. Bởi vậy, bạn phải tự chế tạo lấy. Bạn phải có đức tin và ước muốn mạnh mẽ để đạt mục tiêu. Bạn phải chú tâm thực hành, chịu đựng khó khăn gian khổ, mệt mỏi và nỗ lực chiến đấu để hoàn thành chiếc xe. Bạn phải dùng Tinh tấn để giữ hai bánh xe lăn đều. Bạn phải dùng Chánh Niệm để tạo nên thùng xe. Bạn phải dùng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi gắn chặt ghế tựa lưng. Bạn phải huấn luyện cho tài xế lái xe thẳng hướng. Cuối cùng, sau khi qua nhiều tầng tuệ minh sát, bạn phải làm chủ chiếc xe Tu Ðà Huờn đạo. Khi chiếc xe trở thành của sở hữu của bạn, bạn sẽ đến Niết Bàn một cách êm thắm, dễ dàng.
Một khi chiếc xe Tu Ðà Huờn hoàn thành, nó sẽ không bao giờ bị giảm giá hay hư hỏng. Chiếc xe này khác hẳn những chiếc xe khác vì nó không cần xăng nhớt, dầu mỡ, và cũng chẳng cần sửa chữa hay thay thế bộ phận nào cả. Càng dùng lâu, chiếc xe càng trở nên ưu mỹ hơn. Xe không bao giờ bị tai nạn. Khi đi trên xe này, bạn được bảo đảm an toàn một trăm phần trăm.
Bao lâu còn sống trên thế gian này, chúng ta còn bị thăng trầm theo cuộc sống. Lúc êm đềm vui vẻ, khi đau khổ nhọc nhằn. Người làm chủ chiếc xe Tu Ðà Huờn sẽ lướt êm trên đường gập ghềnh và không quá phấn khích say mê khi đi trên đường bằng phẳng. Chiếc cổng dẫn đến khốn cùng đã đóng. Xe thẳng tiến đến Niết Bàn. Không thể dùng đủ ngôn từ để ca ngợi chiếc xe kỳ diệu này, nhưng chắc chắn rằng người nào hoàn thành và làm chủ chiếc xe này thì sẽ đạt được ước nguyện thanh cao của mình. Hãy nỗ lực Tinh tấn, đừng bao giờ chẩy lười nhụt chí trong việc chế tạo, lắp ráp chiếc xe an toàn kỳ diệu này.
Cổng Khốn Cùng Ðã Ðóng
Chiếc xe giáo pháp được Ðức Phật trưng bày lần đầu tiên trong bài pháp thuyết cho năm vị Kiều Trần Như tại vườn Lộc Giả cách nay trên hai ngàn năm trăm năm. Bài pháp này về sau được gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân.
Trước khi Ðức Phật xuất hiện, thế gian sống trong tăm tối, ngu muội, không biết gì đến Bát Chánh Ðạo. Nhiều nhà ẩn cư, đạo sĩ, triết gia, thông thái, mỗi người đều nắm giữ quan điểm, lý luận, tư tưởng, lý thuyết, học thuyết riêng về chân lý. Thời bấy giờ, một số lý thuyết gia cho rằng Niết Bàn là hạnh phúc của dục lạc ngũ trần. Bởi thế họ đắm chìm trong thú vui vật chất. Một số khác khinh bỉ thái độ này và phản ứng lại bằng chủ trương ép xác khổ hạnh, không cho thân thể hưởng thụ các dục lạc và xem sự ép xác khổ hạnh là nỗ lực thánh thiện. Nói chung, chúng sanh sống trong mê muội. Họ không đến gần chân lý. Bởi thế, sự tin tưởng và hành động của họ có tính cách võ đoán. Mỗi người có quan điểm, tư tưởng riêng, dựa vào đó họ làm rất nhiều chuyện khác nhau.
Ðức Phật từ bỏ cả hai, lợi dưỡng và khổ hạnh. Ðạo của Ngài là trung đạo, không nghiêng về một thái cực nào. Ngài trình bày Bát Chánh Ðạo khiến chúng sanh có đức tin chân chánh. Ðức tin chân chánh phát sinh vì chân lý đã được hiển bày. Ðây là loại đức tin dựa trên chân lý thực tại chứ không phải chỉ là những lý thuyết, tư tưởng suông phát sinh từ ý niệm vô căn cứ. Ðức tin có một ảnh hưởng lớn lao đối với tâm. Bởi thế, Ðức tin là một trong Ngũ căn. Nhờ có đức tin mới có Tinh tấn. Ðức tin làm khởi sinh động cơ thực hành và trở thành căn bản của mọi pháp khác như Niệm, Ðịnh và Huệ. Lúc giảng dạy Bát Chánh Ðạo lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như, Ðức Phật đã nói đến sự quan trọng của ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, huệ. Những lời dạy của Ngài kích động tâm chúng sanh, và nhờ thế, chân tự do và hạnh phúc đến trong tầm tay của họ.
Cầu mong các bạn có được một đức tin chân thành và thâm sâu vào pháp hành thiền. Ước mong đây là bước căn bản giúp các bạn đạt được mục tiêu tối hậu giải thoát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét