- Bốn đại và mối quan hệ của chúng với các cảm thọ
- Bốn nhân tố ảnh hưởng đến thân
- Năm hạ phần kiết sử: tham, sân, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ
- Tầm quan trọng của tâm xả ly đối với các cảm thọ thô và tế
- Duy trì tâm tỉnh thức
- Năm người bạn tốt (năm sức mạnh): niềm tin, nỗ lực, chánh niệm, thiền định, và trí tuệ
- Qui luật tăng và giảm
- Qui luật đoạn trừ
- Tâm xả ly là an lạc tối thượng
- Tu tập tâm xả ly có thể làm cho chúng ta sống một cuộc sống chân chánh
- Nhờ tu tập tâm xả ly, chúng ta xác định một tương lai hạnh phúc cho chúng ta
Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Chỉ mục
Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 1/4
Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 2/4
Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 3/4
Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 4/4
THUẬT NGỮ PĀLI & TRUNG TÂM TU THIỀN MINH SÁT TUỆ
BÀI GIẢNG NGÀY THỨ SÁU
- Tầm quan trọng của tu tập tâm tĩnh thức và xả ly đối với các cảm thọ
- Bốn đại và mối quan hệ của chúng với các cảm thọ
- Bốn nhân tố ảnh hưởng đến thân
- Năm hạ phần kiết sử: tham, sân, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ
Ngày thứ sáu đã qua, quý vị còn lại bốn ngày để thực tập. Trong bốn ngày, quý vị có thể loại trừ một số tâm phiền não, và nắm bắt phương pháp để thực hành trong suốt cuộc đời. Nếu quý vị hiểu biết và áp dụng đúng phương pháp tu tập trong đời sống hằng ngày, chắc chắn quý vị sẽ gặt hái nhiều lợi ích. Vì vậy, quý vị phải hiểu đúng đắn phương pháp tu tập.
Đây không phải là đường lối tiêu cực. Giáo pháp dạy chúng ta chấp nhận sự thật cay đắng của khổ, nhưng cũng hướng dẫn chúng ta phương pháp thoát khổ. Vì lý do này giáo pháp là đường hướng của chủ nghĩa lạc quan, kết hợp với chủ nghĩa thực tế cũng như "chủ nghĩa thực hành", nghĩa là mỗi người phải thực hành để tự giải thoát.
Toàn bộ phương pháp thực hành được giải thích trong bài kệ:
"Tất cả sankhārā là vô thường,Ở đây, thuật ngữ sankhārā ngoài ý nghĩa là phản ứng của tâm còn có nghĩa là kết quả của những phản ứng đó. Mỗi phản ứng là một hột giống, chính hột giống này tạo thành kết quả, và tất cả những gì mà chúng ta kinh qua trong cuộc đời là kết quả, kết quả của những hành động của chúng ta, đó là sankhārā quá khứ hoặc hiện tại. Do đó, sankhārā có nghĩa là: "Vạn vật sinh ra, rồi trưởng thành, suy tàn, và hoại diệt". Tâm sẽ không thanh tịnh nếu chỉ chấp nhận thực tại này bằng tình cảm, hoặc tín ngưỡng, tri thức. Tiến trình sinh diệt phải được chính chúng ta kinh nghiệm và chấp nhận ở mức độ thực tế. Nếu chúng ta kinh nghiệm vô thường nhờ quán sát trực tiếp những cảm thọ trên thân, kinh nghiệm hiểu biết này mới là trí tuệ chân thật, trí tuệ của chúng ta. Và nhờ trí tuệ này chúng ta sẽ giải thoát khổ đau. Chúng ta không còn khổ sở nữa mặc dù cái đau của thân thể vẫn còn, thay vào đó chúng ta có thể mỉm cười, vì chúng ta có thể quán sát nó.
Khi hiểu điều này với trí tuệ chân thật,
Khổ đau sẽ được đoạn trừ;
Đây là con đường thanh tịnh."[1]
Thói quen của tâm là tìm cách tống đi những cảm thọ khổ và giữ lại những cảm thọ lạc. Khi nào chúng ta còn tham gia vào trò chơi của khổ và lạc, không thích và thích, chắc chắn tâm chúng ta vẫn còn bị khuấy động, và đau khổ vẫn tiếp tục tăng trưởng. Nhưng một khi chúng ta thực hành quán sát một cách khách quan và cũng không phân biệt cảm thọ, khi đó tiến trình thanh lọc tâm có hiệu nghiệm, và phản ứng mù quáng theo thói quen và khổ đau tích tụ trong chúng ta dần dần suy yếu và tan vỡ. Chúng ta phải học cách quán sát thật chính xác.
Điều này không có nghĩa là do thực hành thiền Minh Sát Tuệ chúng ta trở thành "cỏ cây", thụ động để cho những người khác làm hại đến mình. Ngược lại, chúng ta đã học cách hành động thay cho cách phản ứng lại. Trước đây, chúng ta đã sống cuộc đời bằng những phản ứng, và phản ứng luôn luôn là tiêu cực. Giờ đây chúng ta đang học phương cách để sống thích hợp, sống một đời sống lành mạnh với việc làm đúng đắn. Bất cứ khi nào có chuyện rắc rối xảy ra trong cuộc sống, vì đã học cách quán sát chúng ta sẽ không phản ứng mù quáng. Thay vì chúng ta chờ vài giây, giữ tâm tỉnh giác và xả ly với cảm thọ, sau đó sẽ quyết định và chọn giải pháp hành động. Hành động như vậy, chắc chắn có lợi, vì nó phát xuất từ tâm bình tĩnh; nó sẽ là hành động sáng tạo, có lợi cho chúng ta và mọi người.
Tuần tự, khi vô minh đoạn trừ, chúng ta tu tập quán sát hiện tượng của thân và tâm và các phản ứng sẽ được đoạn trừ. Thói quen của phản ứng phát xuất từ vô minh. Một số người chưa bao giờ quán sát thực tại, không biết những gì đang xảy ra bên trong tâm thức, không biết cách phản ứng lại như thế nào với tham ái hoặc sân hận, lại tạo thêm những căng thẳng và đau khổ cho họ.
Vấn đề khó khăn là đặc tính vô thường của tâm thức vi tế hơn của thân thể. Tiến trình tâm thức xảy ra quá nhanh đến nỗi chúng ta không thể nhận ra chúng trừ phi chúng ta tu tập quán sát tiến trình hoạt động của chúng. Chúng ta bị vô minh che phủ, không nhận chân thực tại, do đó chúng ta phản ứng lại ngoại cảnh như sắc, thanh, hương, v.v... Sự thật này rõ ràng là như vậy, nhưng nếu ai đó thực hành quán sát tự thân sẽ thấy rằng ở mức độ vi tế hơn, thực tại lại khác đi. Toàn bộ sự vật hiện tượng hiển thị đối với ai chỉ khi anh ta hoặc cô ta kinh nghiệm được nó, nghĩa là, khi đối tượng đó tiếp xúc với một trong sáu giác quan. Ngay khi có xúc sinh khởi lập tức chúng ta có sự rung cảm hay còn gọi là cảm thọ sinh khởi. Một tưởng xuất hiện để đánh giá cảm thọ đó tốt hoặc xấu. Các cảm thọ tốt xấu này dựa vào những kinh nghiệm và định kiến của quá khứ (sankhāra). Theo cách đánh giá nhuốm màu này, cảm thọ trở nên lạc hoặc khổ, và theo loại cảm thọ này, chúng ta bắt đầu phản ứng với thích hoặc không thích, tham đắm hoặc sân giận. Cảm thọ là cầu nối đã bị mất giữa khách thể và phản ứng. Toàn bộ tiến trình này xảy ra quá nhanh chóng đến nỗi chúng ta không thể nhận ra nó: khi một phản ứng đạt đến ở cấp độ nhận thức, nó được tái hiện và gia tăng hàng tỉ tỉ lần, và nó trở nên quá mạnh đến nỗi nó có thể chế ngự tâm thức một cách dễ dàng.
Bồ tát Siddhattha Gotama thành tựu giác ngộ không những nhờ khám phá ra gốc rễ của tham ái và sân hận mà còn đoạn trừ chúng ngay khi chúng sinh khởi ở cấp độ cảm thọ. Những gì chính Ngài đã thực hành, Ngài dạy lại cho người khác. Ngài không phải là người duy nhất truyền dạy phương pháp đoạn trừ tham ái và sân hận; ngay cả trước thời Ngài, phương pháp này đã được dạy ở Ấn độ. Lời dạy của đức Phật không phải độc nhất về phương diện đạo đức, cũng không phải độc nhất về lãnh vực phát triển khả năng điều phục tâm. Tương tự, trí tuệ ở các cấp độ: tri thức, tình cảm, tín ngưỡng đã tồn tại trước thời đức Phật. Yếu tố độc đáo của giáo lý đức Phật nằm ở lãnh vực khác, đó là xác nhận cảm thọ thuộc về thân là điểm then chốt, chính cảm thọ này là nơi tham ái và sân hận phát sinh, và chúng phải được đoạn trừ ở đó. Nếu không giải quyết những cảm thọ này, chúng ta chỉ tu tập tâm ở mức thô thiển, trong khi đó ở cấp độ sâu thẳm của tâm thức các thói quen phản ứng vẫn tiếp tục. Nhờ chuyên tâm tỉnh giác với mọi cảm thọ trên thân và giữ tâm bình thản đối với những cảm thọ đó, chúng ta chặn đứng các phản ứng vừa phát sinh, như vậy chúng ta đã đoạn trừ được khổ đau.
Đây không phải là một giáo điều buộc mọi người phải chấp nhận bằng niềm tin, cũng không phải là một triết lý được chấp nhận bằng lý trí. Quý vị phải khảo sát nơi tự thân để khám phá ra sự thật. Chỉ chấp nhận là sự thật khi quý vị có kinh nghiệm về nó. Nghe chân lý là điều rất quan trọng, nhưng chân lý đó phải được hành trì thực tiễn. Tất cả những lời dạy của đức Phật phải được hành trì và tự kinh nghiệm, nhờ thế chúng ta mới có thể vượt thoát khổ đau.
Toàn bộ cấu trúc thân thể đã được đức Phật giải thích rằng chúng được kết hợp từ các vi bào (kalāpā), bao gồm bốn đại và những tính chất phụ của chúng phối hợp lại với nhau. Chúng ta dễ dàng thấy thế giới bên ngoài cũng như thế giới của tự thân gồm có: thành phần rắn, chúng ta gọi là địa đại, một số thuộc lỏng gọi là thuỷ đại; một số thuộc về khí gọi là phong đại; và trong mỗi thành phần, nhiệt lượng đều có mặt gọi là hỏa đại. Tuy nhiên, nếu quán sát thực tại ngay chính bản thân, chúng ta sẽ hiểu được bốn đại này ở cấp độ vi tế hơn. Toàn bộ những gì thuộc trọng lượng từ nặng đến nhẹ thuộc về địa đại. Hỏa đại thuộc về nhiệt lượng kể cả từ cực lạnh đến cực nóng. Phong đại có nghĩa là sự chuyển động từ trạng thái tĩnh đến trạng thái động. Thuỷ đại mang đặc tính liên kết nhau. Các phần tử sinh ra kết hợp với một hay đại có tính vượt trội. Các đại còn lại nằm ở dạng tiềm ẩn. Trở lại vấn đề, một cảm thọ phát sinh tuỳ thuộc vào tính chất của đại mà các phần tử của đại đó nổi bật so với các đại kia. Nếu một vi bào sinh khởi thuộc về hoả đại (do hoả đại chế ngự), cảm thọ phát sinh: nóng hoặc lạnh, và tương tự các đại khác cũng vậy. Đây là qui luật của những cảm thọ sinh khởi trong thân. Nếu chúng ta bị vô minh, các đánh giá và phản ứng của cảm thọ sinh khởi tạo ra đau khổ mới cho chính chúng ta. Nhưng nếu trí tuệ sinh khởi, chúng ta hiểu rằng những vi bào đang sinh khởi do sự chế ngự của một trong bốn đại, và chúng ta sẽ hiểu rằng chúng là các hiện tượng đang thay đổi không có chủ thể, sanh khởi và biến hoại. Nhờ tuệ tri này, khi đối diện với các cảm thọ chúng ta không đánh mất tâm bình thản .
Khi tiếp tục quán sát tự thân, chúng ta sẽ thấy rõ tại sao vi bào sinh khởi. Chúng sinh khởi là nhờ chúng ta cung cấp năng lượng cho dòng sinh mệnh, dòng vận hành của thân và tâm. Dòng vận hành của thân đòi hỏi cung cấp bằng vật chất, có hai loại vật chất: đó là thức ăn chúng ta ăn và môi trường chúng ta đang sống. Dòng vận hành của tâm đòi hỏi cung cấp bằng chất tố tinh thần, và nó cũng có hai loại: đó là sankhāra ở hiện tại hoặc quá khứ. Nếu ở sát na hiện tại chúng ta nạp vào một yếu tố sân hận, ngay lập tức tâm của chúng ta tác động lên thân thể, và kalāpā sẽ bắt đầu sinh khởi với sự vượt trội của yếu tố lửa, gây cho chúng ta cảm nhận một cảm thọ nóng. Nếu chúng ta nhập vào yếu tố sợ hãi, kalāpā tạo ra lúc đó sẽ có sự vượt trội của yếu tố không khí, và chúng ta cảm nhận một cảm thọ hoảng hốt; và v.v…. Loại truyền nhập thứ hai của tâm thức là sankhāra quá khứ. Mỗi sankhāra là một hột giống và hột giống này sau một thời gian sẽ tạo ra một kết quả. Bất cứ những cảm thọ gì chúng ta cảm nhận trong khi gieo, chúng ta sẽ cảm nhận tương tự khi kết quả sankhāra của cảm thọ đó sinh ra ở bề mặt của tâm thức.
Về bốn nhân tố này, chúng ta không nên cố đặt một đại nào có trách nhiệm cho sự sinh khởi một cảm thọ đặc biệt. Chúng ta chỉ nên chấp nhận bất kỳ cảm thọ nào sinh khởi. Nỗ lực duy nhất là nên quán sát mà không tạo ra phản ứng (sankhāra) mới. Nếu chúng ta không tạo ra phản ứng mới, phản ứng cũ sẽ tự động cung cấp kết quả của nó, hiện hành như một cảm thọ. Chúng ta cứ tiếp tục quán sát và nó sẽ tan biến. Lại nữa chúng ta không phản ứng lại; vì vậy sankhāra cũ khác phải cung cấp kết quả của nó. Nhờ tu tập chánh niệm tỉnh giác và giữ tâm xả ly, tuần tự chúng ta cho phép sankhāra cũ sinh khởi và tan biến, như vậy, chúng ta đoạn trừ được khổ đau.
Thói quen tạo ra phản ứng mới cần phải được loại trừ, và nó chỉ có thể được loại trừ tuần tự nhờ vào việc thực tập thường xuyên.
Tất nhiên có nhiều cản trở và chướng ngại trên con đường tu tập: Có năm kẻ thù hung bạo luôn luôn tìm cách áp đảo quý vị và ngăn chận tiến trình tu tập của quý vị. Hai kẻ thù đầu tiên là tham ái và sân hận. Mục đích của việc tu tập thiền Minh Sát Tuệ là để loại trừ hai loại tâm phiền não căn bản này, hơn nữa chúng có thể xuất hiện trong lúc quý vị đang thiền định, và nếu chúng thâm nhập vào tâm thức thì tiến trình thanh lọc phiền não dừng lại. Quý vị có thể tham ái về những cảm thọ vi tế, hoặc ngay cả tham ái đối với cảnh giới Niết-bàn; cả hai không có gì khác nhau. Tham ái là ngọn lửa thiêu đốt giống như nguồn nhiên liệu; nó dẫn quý vị xa rời con đường giải thoát. Tương tự, quý vị có thể bắt đầu phát khởi sân giận vì sự đau đớn mà quý vị cảm nhận, và một lần nữa quý vị đi lạc phương hướng.
Một kẻ thù khác là sự lười biếng và dã dượi. Suốt đêm quý vị ngủ đầy đủ, nhưng khi ngồi hành thiền, quý vị vẫn cảm thấy rất buồn ngủ. Buồn ngủ này do tâm bất tịnh của quý vị tạo ra, nó làm xao lãng công huân hành trì thiền Minh Sát Tuệ, và như thế chính nó làm ngưng trệ thiền định của quý vị. Quý vị chiến đấu chống lại sự áp đảo của kẻ thù này. Thở mạnh chậm rãi, hoặc đứng dậy, rửa nước lạnh vào mắt, hoặc đi bộ vài phút rồi ngồi tham thiền lại.
Một trong hai vấn đề sau đây có thể xảy ra, quý vị có thể cảm nhận sự rung động mạnh, hoặc một sự kiện khác là khi những phiền não cố làm ngưng sự tu tập thiền Minh Sát Tuệ của quý vị. Ngoại trừ thời gian thiền định, còn lại suốt ngày, quý vị chạy hết nơi này đến nơi khác, làm đủ mọi việc. Sau đó, quý vị mới hiểu ra rằng quý vị đã lãng phí thời giờ, và bắt đầu khóc và hối hận. Nhưng trên con đường hành trì giáo pháp không có chỗ để cho quý vị khóc. Nếu phạm sai lầm thì quý vị nên sám hối sai lầm đó trước một vị trưởng thượng mà quý vị đặt trọn niềm tin của mình nơi vị này, và kiên quyết cẩn trọng không để lập lại sai lầm trong tương lai.
Cuối cùng, một địch thủ nguy hại nhất là nghi ngờ, hoặc nghi ngờ vị Thầy, hoặc về phương pháp, hoặc về khả năng của chúng ta để thực hành phương pháp. Chấp nhận điều gì một cách mù quáng thì không ích lợi gì, nhưng cũng không nên luôn luôn nghi ngờ một cách phi lý. Một khi quý vị còn nghi ngờ, quý vị không thể bước đi ngay cả một bước trên con đường tu tập. Nếu quý vị không rõ bất cứ điều gì, đừng ngần ngại hãy đến với người hướng dẫn của quý vị. Trình bày vấn đề với vị ấy, và hiểu vấn đề một cách thích hợp. Nếu quý vị thực hành như quý vị đã được yêu cầu, kết quả chắc chắn sẽ đến với quý vị.
Phương pháp hành trì chỉ bằng qui luật tự nhiên, chứ không phải bằng bất cứ ảo thuật hoặc phép màu nào cả. Bất cứ ai bắt đầu thực hành phù hợp với qui luật tự nhiên, chắc chắn khổ đau sẽ được đoạn trừ; đây là phép màu hữu hiệu nhất.
Nhiều người đã ghi nhận lợi ích của phương pháp này, không phải chỉ những người đến với đức Phật vào thời của Ngài, mà còn nhiều người ở thời đại sau này, và ở thời đại hiện nay. Nếu chúng ta hành trì thích hợp, cố gắng giữ tâm tỉnh giác và xả ly, thì những lớp phiền não của quá khứ sinh ra trên bề mặt của tâm thức sẽ được đoạn trừ. Giáo pháp mang lại những kết quả tuyệt vời tại đây và ngay bây giờ đã cho chúng ta những thành quả. Vì vậy, hãy thực hành với tâm tự tin và hiểu biết. Hãy sử dụng cơ hội tốt nhất này để loại trừ khổ đau, và an hưởng chân an lạc.
Cầu nguyện cho quý vị hưởng hạnh phúc chân thật.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều hạnh phúc.
Ghi chú:Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều hạnh phúc.
[1] Pháp cú kinh, phẩm đạo số 20, câu 277.
"Tất cả hành vô thường"
Với Tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán;
Chính con đường thanh tịnh."
BÀI GIẢNG NGÀY THỨ BẢY
- Tầm quan trọng của tâm xả ly đối với các cảm thọ thô và tế
- Duy trì tâm tỉnh thức
- Năm người bạn tốt (năm sức mạnh): niềm tin, nỗ lực, chánh niệm, thiền định, và trí tuệ
Bảy ngày đã qua. Quý vị còn lại ba ngày nữa để tu tập. Nắm rõ phương pháp tu, quý vị hãy nỗ lực và tinh tấn thực tập trong những ngày còn lại.
Có hai yếu tố trong phương pháp hành trì: đó là giữ tâm tỉnh giác và xả ly. Chúng ta phải sáng suốt tỉnh giác với tất cả những cảm thọ xảy ra trên thân, và đồng thời duy trì tâm xả ly đối với những cảm thọ ấy. Khi duy trì tâm xả ly, tự nhiên chúng ta sẽ thấy, sớm hay muộn những cảm thọ cũng sẽ sinh ra ở những phần thân thể khó nhận ra, và những cảm thọ thô, cứng ngắt, đau khổ bắt đầu phân tán thành những dao động vi tế. Chúng ta bắt đầu cảm nhận một dòng năng lượng rất an lạc vận hành xuyên suốt cơ thể.
Vấn đề nguy hiểm là khi trạng thái này sinh khởi, chúng ta đắm chìm vào lạc thọ như thể chúng ta theo đuổi mục đích cứu cánh. Thực tế, mục đích của hành trì thiền Minh Sát Tuệ không phải để kinh nghiệm một cảm thọ nào đó, mà cốt yếu để tu tập tâm xả ly đối với mọi cảm thọ. Cảm thọ thô hoặc vi tế luôn luôn thay đổi. Khả năng tu tập của chúng ta chỉ có thể trắc lượng được qua mức độ tâm xả ly đối với mọi cảm thọ.
Ngay sau khi chúng ta kinh nghiệm những rung cảm rất nhẹ vận hành tự do xuyên suốt toàn thân, rất có thể rằng cảm thọ thô có thể phát sinh lại ở nơi nào đó của thân, hoặc nơi khó nhận thức. Đây không phải là dấu hiệu thụt lùi mà là dấu hiệu phát triển tốt. Khi tu tập tâm tỉnh thức và xả ly, tự nhiên chúng ta thâm nhập sâu vào tâm vô thức, và khám phá ra những phiền não đang ẩn núp ở đó. Một khi những phiền não tiềm ẩn này còn tồn tại trong vô thức, chắc chắn chúng sẽ mang lại đau khổ ở tương lai. Cách duy nhất để tiêu trừ chúng là cho phép chúng xuất hiện trên bề mặt của tâm thức và để chúng tự hoại diệt. Khi nào những sankhārā có gốc rễ sâu như vậy sinh ra trên bề mặt của tâm thức, nhiều sankhārā trong số này được tháp tùng với những cảm thọ bất lạc, thô hoặc những nơi khó nhận ra cảm thọ trên thân. Nếu chúng ta tiếp tục quán sát đồng thời không phản ứng lại, cảm thọ sẽ biến mất, và do không phản ứng lại cảm thọ, sankhāra cũ sẽ hiển thị ra.
Mỗi cảm thọ, dù thô hay tế, đều có cùng một đặc tính vô thường. Một cảm thọ thô sinh khởi, có thể kéo dài khoảng một thời gian, nhưng sớm muộn gì nó cũng đi qua. Một cảm thọ vi tế sinh ra và hoại diệt rất nhanh, nhưng nó vẫn mang đặc tính vô thường. Không có cảm thọ nào vĩnh cữu. Vì vậy chúng ta không nên ưa thích hoặc có định kiến đối với bất cứ cảm thọ nào. Khi một cảm thọ thô, bất lạc sinh khởi, chúng ta quán sát nó mà không khởi tâm nhàm chán. Khi một cảm thọ lạc vi tế sinh khởi, chúng ta chấp nhận nó, ngay cả hoan hỷ với nó, nhưng đừng khởi lên tự mãn hoặc tham đắm nó. Trong mọi trường hợp, chúng ta hiểu rõ bản chất vô thường của tất cả cảm thọ; do đó chúng ta có thể mỉm cười khi chúng sinh ra và diệt đi.
Để có một đời sống thực sự thay đổi, chúng ta phải tu tập tâm xả ly đối với mọi cảm thọ sinh khởi trên thân. Những cảm thọ đang sinh khởi trên thân trong từng sát na. Thông thường, ý thức không nhận thức ra chúng, nhưng vô thức cảm nhận được những cảm thọ và phản ứng lại các cảm thọ ấy bằng tham ái hoặc sân giận. Nếu tâm được tu tập để ý thức trọn vẹn những gì xảy ra trong thân này, đồng thời duy trì tâm xả ly, khi đó những tập khí sẽ bị phá vỡ. Chúng ta nên học cách giữ tâm bình thản trong mọi tình huống, và vì vậy chúng ta có thể sống một cuộc sống thanh bình và hạnh phúc.
Ở đây quý vị phải tự kinh nghiệm sự thật ở chính bản thân quý vị, thể nghiệm cấu trúc của thân và tâm vận hành như thế nào, và nó tạo ra khổ đau như thế nào. Cấu trúc con người được xét trên hai phương diện: vật chất và tinh thần, thân thể và tâm thức. Chúng ta phải quán sát cả hai. Nhưng thật ra chúng ta không thể quán sát thân thể mà không tỉnh giác những gì đang sinh khởi trên thân, đó là, cảm thọ. Tương tự chúng ta không thể quán sát tâm thức ngoài những gì đang sinh khởi trong tâm, đó là, ý tưởng. Khi chúng ta quán sát sự thật của thân và tâm sâu hơn, những gì sinh khởi trong tâm kết hợp với cảm thọ được chúng ta nhận ra rất rõ ràng. Cảm thọ đóng vai trò rất quan trọng trong việc quán sát thực tại của thân và tâm, và chính cảm thọ làm cho những phản ứng phát sinh. Để quán sát sự thật nơi chúng ta và để chấm dứt việc tạo ra những tâm phiền não đang phát sinh, chúng ta phải tỉnh thức đối với các cảm thọ và duy trì tâm xả ly càng lâu càng tốt.
Vì lý do này, trong những ngày còn lại của khóa tu, quý vị phải tinh tấn thực tập, khép kín mắt trong suốt thời gian thiền định; ngay cả suốt thời gian nghỉ ngơi cũng vậy, quý vị phải nỗ lực duy trì tâm tỉnh giác và xả ly đối với những cảm thọ. Hãy tu tập trong mọi lúc và trong mọi công việc như đi bộ, ăn cơm, uống nước hoặc tắm giặc; đừng để sự hành trì bị gián đoạn. Hãy tỉnh giác từng cử động và cảm thọ phát sinh trên thân, trên bất cứ phần nào của thân thể hoặc toàn thân. Hãy duy trì tâm tỉnh giác và xả ly.
Tương tự, buổi tối khi quý vị lên giường ngủ, hãy khép mắt lại và cảm nhận những cảm thọ bất cứ nơi nào trên thân quý vị. Nếu quý vị ngủ với sự tỉnh giác như vậy, tự nhiên khi thức dậy vào buổi sáng, quý vị sẽ tỉnh giác mọi cảm thọ. Có lẽ quý vị không thể ngủ ngon giấc, hoặc quý vị có thể tỉnh giác suốt đêm. Đây là một điều vi diệu, giúp quý vị vừa nằm trên giường vừa duy trì tâm tỉnh giác và xả ly. Cơ thể cần nhu cầu nghỉ ngơi khi cần thiết, và không có nghỉ ngơi nào tốt hơn cho tâm thức bằng sự duy trì tâm tỉnh giác và xả ly. Tuy nhiên, nếu quý vị bắt đầu lo lắng là quý vị đang bị chứng mất ngủ thì quý vị sẽ tạo ra những căng thẳng, và sẽ cảm thấy mệt mỏi vào ngày kế tiếp. Quý vị cũng không nên cố gượng thức, giữ thế ngồi suốt đêm; điều này sẽ dẫn đến một cực đoan. Nếu đến giờ ngủ, tốt hơn; hãy ngủ. Nếu chưa buồn ngủ, cũng cho phép thân thể nghỉ ngơi bằng cách nằm ở tư thế nghiêng về một bên, và cho phép tâm nghỉ ngơi bằng duy trì tâm tỉnh giác và xả ly.
Đức Phật dạy: "Khi một thiền giả tu tập tinh tấn, vị ấy sẽ không rời tâm tỉnh giác và xả ly trong lúc quán sát những cảm thọ, hành giả tu tập như vậy sẽ phát triển trí tuệ chân thật và tuệ tri mọi cảm thọ". Hành giả biết cách mà người thiếu trí tuệ phản ứng đối với những cảm thọ, và tạo ra đau khổ cho vị ấy. Hành giả cũng biết được cách mà người thấu hiểu bản chất vô thường của tất cả cảm thọ sẽ không phản ứng lại cảm thọ, và đoạn trừ khổ đau. Ngài dạy tiếp: "Với tuệ tri thông đạt này, hành giả có thể kinh nghiệm trạng thái vượt ngoài thân và tâm: đó là trạng thái Niết-bàn (Nibbāna)." Chúng ta không thể chứng nghiệm Niết-bàn cho đến khi nào sankhārā vi tế nhất được đoạn trừ - những sankhārā này sẽ dẫn chúng ta tái sanh vào thế giới thấp kém, nơi khổ não đang ngự trị. May mắn thay, khi chúng ta bắt đầu thực hành thiền Minh Sát Tuệ, chính những sankhārā này sinh khởi trước. Chúng ta duy trì tâm xả ly và chúng sẽ tự tiêu diệt. Khi những sankhārā này được đoạn trừ, khi đó chắc chắn chúng ta chứng nghiệm Niết-bàn lần thứ nhất [1]. Sau khi chứng nghiệm Niết-bàn, chúng ta thay đổi hoàn toàn, và không còn làm bất cứ việc gì để phải tái sanh vào thế giới hạ liệt trong tương lai. Tuần tự chúng ta tu tập đến những giai đoạn cao hơn, cho đến khi tất cả sankhārā trước đây có thể dẫn chúng ta đi tái sanh vào thế giới hữu vi đều được đoạn trừ. Vị ấy đã hoàn toàn giải thoát và vì vậy, đức Phật kết luận: "Thấu rõ toàn bộ sự thật của thân và tâm, khi từ bỏ thân này vị ấy vượt qua thế giới hữu vi, vì vị ấy đã hoàn toàn tuệ tri mọi cảm thọ".
Quý vị bắt đầu tu tập giáo pháp này để phát triển khả năng tỉnh giác đối với mọi cảm thọ xuyên suốt toàn thân. Nếu quý vị tỉnh thức không phản ứng lại cảm thọ, quý vị sẽ thấy rằng từng lớp một, những sankhārā cũ được đoạn trừ. Duy trì tâm xả ly đối với cảm thọ bất lạc, thô, quý vị sẽ bắt đầu kinh nghiệm những cảm thọ vi tế và an lạc. Nếu quý vị tiếp tục duy trì tâm xả ly, sớm muộn gì quý vị cũng sẽ đạt đến một giai đoạn mà đức Phật mô tả, thiền giả chứng nghiệm toàn bộ cấu trúc thân thể vật lý không gì ngoài sự sinh-diệt liên tục. Tất cả những cảm thọ thô, cứng ngắt bị tan vỡ; toàn bộ thân thể vật lý không gì ngoài những dao động vi tế. Dĩ nhiên trong giai đoạn này quý vị cảm thấy rất an lạc, tuy nhiên nó vẫn không phải là mục đích tối hậu vì thế quý vị không được chấp đắm vào nó. Một số những phiền não thô được đoạn trừ, nhưng những phiền não vi tế vẫn còn tồn tại ở mức độ sâu của tâm thức. Nếu chúng ta tiếp tục quán sát với tâm xả ly, tuần tự tất cả sankhārā ở cấp độ sâu hơn sẽ sinh khởi rồi tiêu diệt. Khi tất cả chúng được đoạn trừ hoàn toàn, quý vị chứng nghiệm "sự bất tử" - một trạng thái kinh nghiệm vượt ngoài thân và tâm, trạng thái bất sinh, và vì vậy cũng không có gì hoại diệt - trạng thái không thể diễn bày của Niết-bàn (Nibbāna).
Vị nào hành trì đúng đắn để phát triển tâm tỉnh thức và xả ly chắc chắn sẽ đạt đến trạng thái này; nhưng dù nam hay nữ mỗi người cũng phải tự mình tu tập.
Ví như có năm kẻ thù hay năm chướng ngại ngăn cản tiến trình tu tập của quý vị, bên cạnh đó cũng có năm người bạn, năm đức tính tốt của tâm, chúng sẽ giúp và hộ trì quý vị. Nếu quý vị giữ năm người bạn này khoẻ và sáng suốt thì không có kẻ thù nào có thể chế ngự được quý vị.
Người bạn thứ nhất là niềm tin, lòng trung thành, sự tin cậy. Không có niềm tin chúng ta không thể thực hành, vì tâm chúng ta luôn luôn bị dao động bởi thái độ nghi ngờ và hoài nghi. Tuy nhiên, niềm tin sẽ trở thành kẻ thù nguy hiểm nếu chúng ta tin một cách mù quáng. Không có chánh kiến, không phân biệt được sự hư thật của các pháp là tin mù quáng. Chúng ta có thể tin bất cứ vị thần hoặc vị thánh nào, nhưng nếu đó là tin đúng đắn với chánh kiến, ghi nhớ những phẩm chất tốt của vị ấy, và nhờ thế chúng ta phấn khởi để phát triển những phẩm chất tốt này ở chúng ta. Lòng thành tín như vậy rất lợi ích và có ý nghĩa. Nhưng nếu chúng ta không nỗ lực phát triển những phẩm chất tốt như của người mà chúng ta thành kính hướng đến thì lòng thành tín đó chỉ là niềm tin mù quáng, có hại.
Ví dụ: Khi chúng ta qui y với đức Phật, chúng ta phải nhớ đến những đức tính của một vị Phật, và chúng ta phải thực hành để phát triển những đức tính này trong chúng ta. Đức tính quan trọng của một vị Phật là sự giác ngộ; vì vậy, qui y đúng nghĩa là trở về với giác ngộ, sự giác ngộ mà mỗi chúng ta cần đạt đến. Chúng ta tôn kính bất cứ ai đã đạt đến giác ngộ viên mãn; điều này có nghĩa là, chúng ta tôn trọng đức tính giác ngộ chứ không phải đặt nặng bất cứ tôn phái hoặc cá nhân đặc biệt nào. Vì vậy chúng ta tôn kính đức Phật không phải bằng lễ nghi hoặc cúng kiến mà bằng thực hành theo lời dạy của Ngài, đó là hành trì theo giáo pháp từ giới-luật (sīla), đến thiền định (samādhi ), đến trí tuệ (pañña), đến Niết-bàn (Nibbāna), giải thoát.
Bất cứ vị Phật nào cũng đều có những đức tính sau đây. Vị ấy đã đoạn tận tham ái, sân hận và si mê. Vị ấy đã chiến thắng tất cả kẻ thù trong tâm của mình, đó là, tâm ô nhiễm. Vị ấy quán thông giáo pháp không chỉ về lý thuyết mà còn về thực hành. Vị ấy thuyết giảng những gì vị ấy đã thực hành và ngược lại; lời nói và việc làm của vị ấy luôn đi đôi với nhau. Mỗi bước mà vị ấy đi là một bước tiến đúng, dẫn đến phương hướng đúng. Vị ấy đã khám phá và thấu rõ mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ. Vị ấy có tình thương bao la, lòng từ bi, hoan hỷ cảm thông với mọi người, và luôn giúp những người đang lạc lối tìm ra con đường đúng đắn. Vị ấy sống với tâm hoàn toàn xả ly. Nếu chúng ta tu tập tự phát triển những đức tính này để đạt đến mục đích tối hậu, đó là chúng ta thật sự qui y với đức Phật.
Tương tự chúng ta qui y giáo pháp không liên quan gì đến chủ nghĩa giáo phái; qui y pháp không phải cải đổi từ tổ chức tôn giáo này sang tổ chức tôn giáo khác. Qui y pháp có nghĩa trở về con đường đạo đức, làm chủ tâm thức của chúng ta, trở về với trí tuệ. Bất cứ lời giáo huấn nào có thể trở thành giáo pháp đều phải có những phẩm chất rõ ràng. Thứ nhất nó phải được giải thích rõ ràng để mọi người có thể hiểu. Nó có thể được thấy rõ bằng chính mắt chúng ta, và chúng ta có thể chứng nghiệm nó bằng thực tại chứ không phải bằng tưởng tượng. Ngay cả chân lý của Niết-bàn cũng không được chấp nhận ngoại trừ khi chúng ta đã chứng nghiệm nó. Giáo pháp phải mang lại kết quả lợi ích hiện tại, và ngay nơi đây, không phải chỉ lời hứa suông về những lợi ích có thể thọ hưởng ở tương lai. Nó mang tính "đến và thấy"; chính chúng ta quán sát, thực nghiệm nó chứ không chấp nhận một cách mù quáng. Và một khi chúng ta đã thực tập và chứng nghiệm sự lợi ích của nó, chúng ta không thể không khuyến khích và giúp đỡ người khác đến để hiểu giáo pháp cũng như mình. Mỗi bước tiến trên con đường tu tập dắt dẫn chúng ta đến mục tiêu tối hậu mỗi lúc gần hơn; không nỗ lực sẽ không có kết quả. Giáo pháp mang lại lợi lạc ngay cả giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đọan cuối. Cuối cùng, bất cứ ai có khả năng hiểu biết trung bình, hay ở bất cứ trình độ nào cũng có thể thực hành và chứng nghiệm sự lợi ích của giáo pháp. Nếu chúng ta qui y giáo pháp và bắt đầu thực hành theo giáo pháp với sự hiểu biết những gì đang hiện hữu, sự quy y của chúng ta mới thật sự có ý nghĩa.
Cũng vậy, qui y Tăng không hề có liên quan đến một giáo phái nào. Bất cứ ai đi trên con đường giới, định và tuệ và bất cứ ai chứng đạt dù chỉ là giai đoạn giải thoát đầu tiên [2], vị ấy là vị thánh, là một thành viên của Tăng già. Vị ấy có thể là bất cứ ai, bất cứ hình thức nào, màu sắc, nguồn gốc nào; tất cả đều không có sự khác biệt. Nếu sau khi được nhìn thấy một vị Tăng như vậy, tự thân chúng ta lấy làm hoan hỷ và tu tập đạt đến cùng mục đích, thì sự qui y Tăng già của chúng ta thật sự có ý nghĩa, một sự quy y chân chánh.
Một người bạn khác là sự tinh tấn, nỗ lực. Như niềm tin, tinh tấn không được mù quáng. Ngược lại sẽ có nguy hiểm đó là chúng ta tu tập sai phương pháp, và sẽ không thành tựu kết quả như chúng ta mong muốn. Tinh tấn phải được đi kèm với sự hiểu biết đúng phương pháp; như thế tinh tấn hỗ trợ rất nhiều cho tiến trình tu tập của chúng ta.
Một người bạn khác là chánh niệm. Chánh niệm chỉ có thể nhận chân ở sát na hiện tại. Chúng ta không thể chánh niệm về quá khứ, mà chỉ có thể nhớ về quá khứ. Chúng ta không thể chánh niệm ở tương lai, chúng ta chỉ có thể khát vọng hoặc lo âu ở tương lai. Chúng ta phải phát triển khả năng chánh niệm thực tại mà nó đang hiển bày trong chúng ta ở sát na hiện tại.
Người bạn kế tiếp là nhất tâm (định), duy trì chánh niệm, không để gián đoạn trong từng sát na hiện tại. Chánh định phải vượt ra ngoài mọi sự tưởng tượng, tham ái, sân giận; chỉ như thế nó mới gọi là chánh định.
Và người bạn thứ năm là trí tuệ. Trí tuệ này không thể đạt được qua nghe những bài pháp, hoặc đọc một số sách, hoặc phân tích bằng tri thức; chúng ta phải phát triển trí tuệ tự chứng, vì chỉ có trí tuệ tự chứng mới có thể đưa chúng ta đến giải thoát. Và trí tuệ chân thật này phải được dựa vào những cảm thọ trên thân: đó là chúng ta luôn giữ tâm xả ly đối với các cảm thọ, hiểu rõ bản chất vô thường của chúng. Đây là sự xả ly ở cấp độ sâu của tâm thức, và tâm xả ly này sẽ giúp chúng ta giữ tâm bình tĩnh giữa những thăng trầm trong cuộc sống hàng ngày.
Mục đích của thực tập thiền Minh Sát Tuệ là làm cho chúng ta sống chân chánh, làm tròn trách nhiệm thế gian của chúng ta đồng thời giữ được tâm bình thản, an lạc và hạnh phúc cho chính mình và mọi người. Nếu giữ vững năm người bạn này, quý vị sẽ hoàn thiện nghệ thuật sống, và có một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc.
Hãy tiến bước trên con đường chánh pháp vì sự tốt đẹp và lợi ích của quý vị và của mọi người.
Cầu mong tất cả những chúng sanh đang chịu khổ đau được gặp giáo pháp để xóa tan khổ đau và an hưởng hạnh phúc chân thật.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều được hạnh phúc.
Ghi chú:[1] Niết-bàn theo quan điểm Phật giáo nguyên thủy có hai loại: Hữu dư y Niết-bàn và Vô dư y Niết-bàn. Hữu dư y Niết-bàn là trạng thái chứng đạt Niết-bàn nhưng thân ngũ uẩn vẫn còn tồn tại. Trong bài giảng này đề cập đến chứng đạt Niết-bàn lần thứ nhất tương đồng với Hữu dư y Niết-bàn. Còn Vô dư y Niết-bàn chỉ chứng được khi Vị A-la-hán xả bỏ thân ngũ uẩn.
[2] Theo tinh thần của bài giảng này giải thoát đầu tiên đồng nghĩa với quả vị Tu-đà-hoàn.
BÀI GIẢNG NGÀY THỨ TÁM
- Qui luật tăng và giảm
- Qui luật đoạn trừ
- Tâm xả ly là an lạc tối thượng
- Tu tập tâm xả ly có thể làm cho chúng ta sống một cuộc sống chân chánh
- Nhờ tu tập tâm xả ly, chúng ta xác định một tương lai hạnh phúc cho chúng ta
Ngày thứ tám đã qua, quý vị chỉ còn hai ngày để tu tập. Trong những ngày còn lại, tôi biết quý vị đã hiểu phương pháp đúng đắn, thế nên, quý vị có thể thực tập đúng theo phương pháp và cũng ứng dụng nó trong đời sống hằng ngày. Hãy hiểu giáo pháp là bản chất tự nhiên, là chân lý, là qui luật vũ trụ.
Về phương diện này, có một tiến trình tăng trưởng liên tục. Về phương diện khác, có một tiến trình đoạn diệt. Điều này cũng được giải thích rõ trong những câu kệ:
Các pháp có điều kiện quả thật là vô thườngTâm sinh khởi có điều kiện là tâm vô thường. Bản chất tự nhiên của mỗi Sankhārā là sanh và diệt. Nó hoại diệt, nhưng sát na kế tiếp nó lại sinh khởi; và lặp đi lặp lại như thế không biết bao nhiêu lần; đây là cách tăng trưởng của Sankhāra. Nếu chúng ta phát triển trí tuệ và bắt đầu quán sát một cách khách quan, khi đó tiến trình sankhārā tăng truởng sẽ dừng lại và tiến trình đoạn trừ sankhārā sẽ sinh ra. Một sankhāra sinh khởi, nhưng hành giả giữ tâm xả ly; khi đó sankhāra mất hết năng lực và sẽ tự hoại diệt. Tuần tự, các sankhārā cũ sẽ sinh khởi và hoại diệt, tiến trình sinh diệt này đã giúp cho chúng ta giữ được tâm bình thản. Càng đoạn trừ nhiều sankhārā, chúng ta càng hạnh phúc, hạnh phúc thoát khỏi mọi khổ đau. Nếu tất cả sankhārā cũ đều được đoạn trừ thì chúng ta thành tựu vô lượng an lạc của giải thoát viên mãn.
Bản chất của chúng luôn sinh khởi và hoại diệt.
Nếu chúng sinh ra và được đoạn trừ,
Sự đoạn diệt này mang lại hạnh phúc chân thật. [1].
Thói quen cũ của tâm thức là phản ứng, và tạo ra nhiều phản ứng (sankhārā). Những điều bất như ý đến với chúng ta, và như thế chúng ta lại tạo ra một sankhāra sân giận. Vì sankhāra phát khởi trong tâm đã phối hợp với một cảm thọ bất lạc trên thân. Sát na kế tiếp, vì thói quen phản ứng cũ, chúng ta lại tạo ra nóng giận nữa, nóng giận này trực tiếp dẫn đến cảm thọ bất lạc trên thân. Tác nhân kích thích nóng giận bên ngoài chỉ là phụ trợ; sự phản ứng mới thật sự là yếu tố quan trọng tác động đến cảm thọ trong chính chúng ta. Cảm thọ bất lạc làm chúng ta có phản ứng sân giận, rồi nó lại tạo ra một cảm thọ bất lạc khác, và lại tiếp tục làm chúng ta phản ứng. Cứ như vậy, tiến trình tăng trưởng vận hành. Nếu không phản ứng lại cảm thọ, thay vào đó chúng ta chỉ mỉm cười và hiểu bản chất vô thường của nó, khi đó chúng ta sẽ không tạo ra sankhārā mới, và sankhārā đã sinh khởi sẽ bị tiêu diệt không còn tăng trưởng nữa. Kế đến, một sankhārā tương tự sẽ sinh ra ở cấp độ sâu trong tâm thức; chúng ta giữ tâm xả ly, và nó sẽ biến mất. Kế đến một sankhārā khác nữa lại sinh khởi; chúng ta vẫn duy trì tâm xả ly, và nó cũng sẽ biến mất. Tiến trình đoạn trừ sankhārā đã vận hành.
Những tiến trình mà chúng ta đang quán sát trong mỗi chúng ta cũng đang vận hành khắp vũ trụ. Ví dụ, có người gieo hạt giống cây banyan (cây bồ-đề). Từ hột giống bé tí nó phát triển thành cây lớn, cây này kết vô số quả hằng năm trong suốt thời gian cây sinh tồn. Và sau khi cây chết, tiến trình vẫn tiếp tục, vì mỗi trái mà cây đã sinh ra chứa đựng một hột hoặc vô số hột, có cùng tính chất như hột giống ban đầu đã sinh trưởng thành cây. Bất cứ khi nào một trong những hạt giống này rơi vào đất tốt nó sẽ nảy mầm và phát triển thành một cây khác, và cây này lại tiếp tục sản sinh ra hàng ngàn trái, và những trái cây này đều chứa những hột giống. Trái cây và hột giống, hột giống và trái cây; một tiến trình tăng trưởng bất tận. Cũng như vậy, vì vô minh chúng ta gieo một hạt giống sankhāra, sớm muộn gì hạt giống này sẽ cho ra một trái, hay còn gọi là một sankhāra, và sankhāra này cũng chứa cùng một loại giống như sankhāra cũ. Nếu chúng ta gieo hạt giống vào vùng đất tốt nó sẽ nảy mầm thành một sankhāra mới, và đau khổ của chúng ta tiếp nối sinh ra. Tuy nhiên, nếu chúng ta ném hạt giống vào đất đá, chúng không thể nảy mầm, không sinh sản. Tiến trình tăng trưởng dừng lại, và tự động tiến trình đoạn diệt vận hành.
Hãy hiểu tiến trình vận hành này. Tiến trình này được biết là nó cần được cung cấp nguồn năng lượng cho dòng đời sống, thân và tâm tiếp tục sinh tồn. Nguồn năng lượng cho thân thể là thức ăn, cũng như môi trường xung quanh chúng ta. Nếu một ngày nào đó chúng ta không ăn, dòng vận hành của vật chất (thân thể) sẽ không dừng lại ngay lập tức. Nó tiếp tục tiêu thụ những nguồn năng lượng dự trữ chứa trong thân thể. Chỉ khi nào tất cả năng lượng dự trữ đã tiêu thụ hết thì dòng vận hành sẽ dừng lại, thân thể sẽ chết.
Thân thể cần thức ăn hai hoặc ba lần một ngày, nhưng dòng tâm thức đòi hỏi phải nạp năng lượng vào trong mỗi sát na. Năng lượng thức ăn nạp vào cho tâm thức là sankhārā. Mỗi sát na, sankhāra mà chúng ta tạo ra có trách nhiệm duy trì dòng vận hành của tâm thức. Tâm thức sinh ra trong sát na kế tiếp là sản phẩm của sankhāra này. Mỗi sát na chúng ta nạp vào sankhāra, và dòng vận hành của tâm thức tiếp tục hoạt động. Nếu ở bất cứ sát na nào chúng ta không tạo ra một sankhāra mới, dòng tâm thức vẫn không dừng lại; nó sẽ tiêu thụ sankhāra cũ từ nguồn dự trữ. Sankhāra cũ này bắt buộc phải tạo ra một kết quả của nó lên bề mặt của tâm thức để tiếp tục duy trì dòng vận hành; và sankhāra này sẽ biểu hiện qua một cảm thọ trên thân. Nếu chúng ta phản ứng lại cảm thọ, lại nữa chúng ta bắt đầu tạo ra một sankhāra mới, gieo trồng những hột giống khổ đau mới. Nhưng nếu chúng ta giữ tâm bình thản quán sát những cảm thọ, sankhāra sẽ không còn sức mạnh và bị tiêu diệt. Ở sát na kế tiếp, sankhāra cũ phải xuất hiện để duy trì dòng vận hành tâm thức. Lại nữa chúng ta không phản ứng, và nó bị tiêu diệt. Bất cứ lúc nào chúng ta duy tâm trì tỉnh giác và xả ly, tuần tự những sankhārā cũ sẽ xuất hiện trên bề mặt tâm thức và rồi bị tiêu diệt; đây là qui luật của tự nhiên.
Chúng ta phải tự mình chứng nghiệm tiến trình qua thực hành phương pháp này. Khi nào những thói quen và đau khổ cũ của chúng ta đều được đoạn trừ, khi đó chúng ta biết rằng tiến trình sankhārā đoạn trừ đã được tu tập.
Ngành luyện kim hiện đại cũng áp dụng kỹ thuật này. Để tinh chế và làm cho một kim loại trở thành tinh chất hoàn toàn, điều cần thiết là tách những phân tử hỗn tạp ra khỏi hàng tỉ phân tử tinh chất. Điều này được tiến hành bằng cách cán dẹp khối kim loại ấy thành thể hình que, và lấy kim loại đã tinh chất tạo ra một thể hình tròn. Cho vòng tròn kim loại đã được tinh chế này trượt qua thanh kim loại hình que, và chính vòng kim loại này tạo ra một sức hút tự động loại mọi phân tử hỗn tạp ra khỏi thanh kim loại hình que. Đồng thời, tất cả phân tử trong thanh kim loại hình que được sắp ngay thẳng; thanh kim loại này trở thành dễ uốn, dễ dát mỏng, có thể sử dụng được. Cũng như vậy, phương pháp thiền Minh Sát Tuệ có thể được xem như vòng tròn thanh tịnh tỉnh giác trượt qua cấu trúc cơ thể, loại trừ mọi cấu uế, gặt hái những lợi lạc.
Tỉnh giác và xả ly sẽ làm cho tâm thanh tịnh. Trong tu tập, chúng ta cảm nhận cảm thọ lạc hoặc khổ đều không quan trọng. Điều quan trọng là chớ phản ứng lại với tâm tham đắm hoặc sân giận, vì chúng chỉ gây ra khổ đau. Thước đo duy nhất để trắc lượng sự thăng tiến trong tu tập của chúng ta là tâm xả ly. Nếu chúng ta thể nhập vào chiều sâu của tâm thức và để loại trừ những cấu uế, chúng ta phải tu tập tâm xả ly đối với các cảm thọ trên thân. Nếu chúng ta tu tập tâm tỉnh giác và xả ly đối với những cảm thọ, khi đó chúng ta sẽ dễ dàng giữ tâm bình an đối với các đối tượng bên ngoài.
Một lần có người hỏi đức Phật, sự lợi lạc chân thật là gì. Ngài đáp rằng lợi lạc tối thượng là giữ được tâm chúng ta bình an trước mọi biến đổi, thăng trầm của cuộc đời. Chúng ta có thể đối diện với những cảm thọ lạc hoặc khổ, chiến thắng hoặc thất bại, được hoặc mất, danh thơm hoặc tiếng xấu; chắc chắn mỗi chúng ta phải đối diện với những điều này. Nhưng liệu chúng ta có thể mỉm cười trong mọi hoàn cảnh, một nụ cười thật sự xuất phát từ tâm của chúng ta không? Nếu tâm chúng ta đạt được tâm xả ly ở cấp độ sâu nhất, chúng ta sẽ đạt được chân hạnh phúc.
Nếu tâm xả ly chỉ ở hình thức bề ngoài thì nó sẽ không giúp được gì cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Cũng giống như, mỗi chúng ta mang trên người một bình xăng, hoặc bình dầu. Nếu một tia lửa sinh ra, (cũng như kết quả của phản ứng ở quá khứ), ngay lập tức nó tạo thành một vụ nổ lớn, rồi sản sinh ra hàng triệu đóm lửa khác, (cũng có nghĩa là nó tạo thêm nhiều sankhārā nữa). Đám lửa cháy càng nhiều, khổ não càng tăng trong tương lai. Nhờ hành trì thiền Minh Sát Tuệ, chúng ta dần dần hút rỗng bình nhiên liệu. Những đóm lửa vẫn phát ra vì sankhāra quá khứ vẫn còn, nhưng khi lửa phát ra, chúng chỉ đốt nguồn nhiên liệu của chúng mang đến; nhiên liệu mới không được cung cấp. Chúng bùng cháy cho đến khi nguồn nhiên liệu của chúng mang đến hết sạch, và khi đó chúng bị tiêu hủy đi. Về sau, khi chúng ta tiến xa hơn trên con đường tu tập, chắc chắn chúng ta bắt đầu phát triển dòng nước mát của tình thương và lòng từ bi, và bình chứa nhiên liệu lúc bấy giờ được chứa đầy nước mát này. Khi ấy, ngay khi có một đóm lửa phát sinh, nó liền bị tiêu huỷ. Nó cũng không thể đốt cháy ngay cả một tí nhiên liệu nó mang đến.
Trên phương diện tri thức, chúng ta có thể hiểu vấn đề này, và hiểu rằng chúng ta nên có sẳn máy bơm nước phòng khi lửa phát sinh. Nhưng khi lửa phát sinh thì chúng ta lại sử dụng vòi bơm xăng và một đám cháy lớn phát sinh. Sau đó chúng ta nhận ra sai lầm, nhưng chúng ta lại tiếp tục vi phạm trong lần lửa cháy kế tiếp, vì trí tuệ của chúng ta còn nông cạn. Nếu ai có trí tuệ thật sự, khi gặp lửa vị ấy sẽ không đổ xăng vào, vì biết rằng điều này có hại. Thay vào đó, vị ấy tưới nước mát của tình thương và lòng từ bi, giúp đỡ những người khác và chính mình.
Trí tuệ phải là trí tuệ đối với những cảm thọ. Nếu quý vị tự luyện tập để giữ tâm tỉnh giác và bình thản đối với mọi cảm thọ trong mọi hoàn cảnh, quý vị sẽ không bị bất cứ điều gì có thể chế ngự. Có thể khoảng vài giây quý vị quán sát trong niệm xả ly. Khi đó, với tâm xả ly này, quý vị quyết định những hành động nào cần tiến hành. Chắn chắn rằng đó là một hành động đúng, tốt, có lợi cho người khác, vì hành động này được quyết định khi tâm bình thản.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta cũng cần sử dụng hành động mạnh. Chúng ta đã cố giải thích cho ai đó một cách lịch sự, tử tế, với một nụ cười, nhưng họ chỉ có thể hiểu qua những lời nói nặng, hành động cứng rắn. Vì vậy, chúng ta phải sử dụng lời nói hoặc hành động mạnh. Nhưng trước khi làm như vậy, chúng ta phải kiểm tra lại tâm của mình có được bình tĩnh hay không, và xem chúng ta thật sự có lòng từ bi và tình thương với mọi người hay không. Nếu được như thế, hành động sẽ có ích; bằng không, nó sẽ không giúp gì cho người khác. Chúng ta hành động mạnh để giúp những người sai lầm. Căn cứ vào tình thương và lòng từ này, chúng ta không thể làm bất cứ điều gì sai trái.
Trong trường hợp bị công kích, người hành trì thiền Minh Sát Tuệ tập tránh xa người xung đột và nạn nhân bị xung đột, ban rải lòng từ không chỉ cho nạn nhân mà còn những người gây xung đột nữa. Chúng ta phải hiểu rằng người gây xung đột không biết anh ta đang làm hại chính mình. Hiểu được điều này, chúng ta cố gắng giúp anh ta ngăn ngừa không làm bất cứ điều gì gây đau khổ cho anh ta trong tương lai.
Tuy nhiên quý vị phải cẩn thận, không phải kiểm tra những hành động sau khi biến cố đã xảy ra. Quý vị phải tự kiểm tra tâm của mình trước khi hành động. Nếu tâm đầy ắp phiền não, chúng ta không thể giúp bất cứ ai. Trước tiên chúng ta phải chỉnh đốn những sai lầm của chúng ta rồi mới có thể chính đốn sai lầm của người khác. Trước hết chúng ta phải thanh lọc tâm của chúng ta bằng tự quán sát mình. Sau đó chúng ta mới có thể giúp mọi người.
Đức Phật dạy có bốn hạng người trên thế gian này:
Hạng người đi từ bóng tối vào bóng tốiĐối với hạng người đầu tiên, mọi thứ xung quanh chỉ là đau khổ, tối tăm, nhưng điều bất hạnh lớn lao nhất của vị ấy là không có trí tuệ. Mỗi khi gặp khổ đau, vị ấy sinh tâm sân hận, căm ghét, bực tức và đổ lỗi người khác làm khổ mình. Tất cả những sankhārā nóng giận và thù hằn này sẽ mang lại cho vị ấy một đời sống tương lai đầy tối tăm và đau khổ.
Hạng người đi từ ánh sáng vào bóng tối
Hạng người đi từ bóng tối ra ánh sáng
Hạng người đi từ ánh sáng ra ánh sáng
Hạng người thứ hai được xem là có đời sống tươi sáng: như là có tiền bạc, địa vị, quyền lực, nhưng vị ấy cũng chẳng có trí tuệ. Vì vô minh vị ấy phát triển chủ nghĩa tự ngã, không hiểu rằng những tham chấp tự ngã sẽ mang lại cho vị ấy một tương lai tối tăm.
Hạng người thứ ba có cùng hoàn cảnh như hạng người đầu, đó là bị đoanh vây bởi tối tăm. Nhưng nhờ có trí tuệ, và hiểu hoàn cảnh của mình, vị ấy biết rằng chính vị ấy phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi khổ đau của bản thân. Vị ấy lặng lẽ và an lòng làm những gì có thể thay đổi được hoàn cảnh, nhưng không khởi lên bất cứ sân giận nào, hoặc thù ghét người khác; thay vào đó, vị ấy chỉ có tình thương và lòng từ với những người đang gây đau khổ cho mình. Tất cả những gì anh ta tạo ra mang lại sự sáng lạng cho tương lai.
Cuối cùng, hạng người thứ tư, giống như người ở nhóm thứ hai, có đầy đủ tiền bạc, địa vị và quyền lực, nhưng không như hạng người thứ hai, vị ấy có trí tuệ. Vị ấy sử dụng những gì mà vị ấy có để bảo tồn bản thân và những người nương vào vị ấy, nhưng bất cứ những gì mà vị ấy làm đều xuất phát từ tình thương và lòng từ vì mục đích tốt đẹp cho người khác. Vị ấy chói sáng ngay bây giờ và tương lai.
Ở đây chúng ta không thể chọn lựa hoặc hướng vào bóng tối hoặc hướng ra ánh sáng; điều này được quyết định do Sankhārā quá khứ của chúng ta. Quá khứ không thể thay đổi được, nhưng chúng ta có thể kiềm chế ở hiện tại bằng sự điều phục chính bản thân. Tương lai chỉ là quá khứ kết hợp với những gì có mặt trong hiện tại. Thiền Minh Sát Tuệ dạy cho chúng ta phương cách để có thể tự chủ chính mình nhờ sự tu tập tâm tỉnh giác và xả ly đối với cảm thọ. Nếu chúng ta phát triển khả năng tự chủ này trong giây phút hiện tại, chắc chắn tương lai của chúng ta sẽ trở nên sáng lạng.
Sử dụng hai ngày còn lại, quý vị học phương cách làm chủ bản thân trong sát na hiện tại. Tiếp tục hành trì giáo pháp để loại trừ tất cả khổ đau, và an vui với hạnh phúc chân thật tại đây và ngay bây giờ.
Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều được hạnh phúc!
Ghi chú:[1] Trường bộ kinh, Kinh Ðại Bát Niết-bàn số 16.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét