TƯỚNG TU CHỨNG - SAMGHARAKASA

Tướng Tu Chứng
- Tứ Thiền - Tứ Niệm Chỉ
- Tứ Không - Tứ Ðế
- Tứ Vô Lượng Tâm - Tứ Gia Hạnh
- Ngũ Thông - Tứ Quả Thanh Văn

I. TỨ THIỀN

1- Sơ thiền.
- Hành giả tuy được nhất tâm mà định lực chưa thành, còn bị phiền não ở Dục giới làm não loạn, phải tạo phương tiện tiến lên học Sơ thiền, trách bỏ ái dục.
Thế nào là trách bỏ ái dục?
- Hành giả quán cái lỗi ái dục ở Dục giới là tội ác, bất tịnh, nghĩ tưởng Sơ thiền là an ổn khoái lạc.
Quán lỗi ái dục thế nào? Biết ái dục là vô thường, oán thù, không thật như huyễn như hóa. Khi nghĩ đến ái dục là tâm si mê nổi loạn, huống là đã bị dâm dục cột trói. Cái vui trên cõi trời còn chưa phải thường an ổn, huống chi cái vui trong cõi người. Lòng người mê đắm ái dục không chán nhàm, như lửa gặp củi, như bể hứng các dòng sông, như vua Ðảnh Sanh tuy được trời mưa bảy báu, làm vua bốn châu thiên hạ, trời Ðế Thích chia nửa tòa cho ngồi vẫn thấy chưa đủ, như vua Chuyển Kim Luân Na-hầu-sa, bị ái dục thúc bách đến phải đọa làm con mãng xà. Lại như những vị tiên ăn trái cây, mặc áo cỏ, ở trong núi sâu, khổ hạnh cầu đạo vẫn chưa khỏi bọn giặc ái dục phá hoại. Cái vui của ái dục rất ít mà sự thù oán, ác độc quá nhiều. Người đắm mê ái dục thường gần bạn ác, bạn lành lánh xa. Ái dục là thứ rượu độc làm người ngu mê say sưa đến chết. Ái dục là thứ xảo quyệt sai sử người ngu muôn ngàn nhọc nhằn không chút tự do. Chỉ có lìa ái dục thì thân tâm an ổn khoái lạc không cùng tận. Ái dục không thể được, như chó gậm xương khô. Tìm cầu ái dục khó nhọc khổ sở mới được, được thì rất khó mà mất lại quá dễ. Nó tạm bợ chốc lát như mộng vừa thấy, tỉnh giấc đã mất. Ái dục là tai họa, tìm cầu đã khổ, được nó cũng khổ, được nhiều khổ nhiều, như lửa gặp củi càng nhiều càng cháy mạnh. Dục như thịt thúi bầy quạ giành nhau. Tóm lại, người mê ái dục như con thiêu thân nhảy vào lửa, như cá nuốt câu, như nai theo tiếng, như khát uống nước muối. Tất cả chúng sanh bị cái hoạn ái dục đến nỗi không chỗ khổ nào mà chẳng đến. Thế nên, phải biết ái dục là độc hại, phải cầu Sơ thiền tiêu diệt lửa ái dục. Hành giả nhất tâm chuyên cần tin vui khiến tâm tăng tiến, ý không tán loạn, quán ái dục tâm nhàm chán, trừ các kiết sử phiền não che đậy, được định Sơ thiền, lìa ngọn lửa ái dục, được định mát mẻ, như khi nắng gặp bóng mát, như kẻ nghèo được của báu. Khi ấy được cái vui mừng của Sơ thiền, suy nghiệm trong thiền định bao nhiêu thứ công đức, xem xét phân biệt cái nào tốt, cái nào xấu liền được nhất tâm.
Người tu thiền được tướng nhất tâm thế nào?
- Người ấy vẻ mặt vui tươi, đi từ từ êm ái, ngay thẳng không mất nhất tâm, mắt không đắm sắc, do thần đức thiền định nên không tham danh lợi, phá dẹp kiêu mạn, tánh nết nhu hòa, không ôm lòng độc hại, không có xan tham tật đố, tâm trong sạch tin chân chánh, bàn luận không tranh hơn thua, thân không lừa dối, nói năng dễ dãi, hòa nhã, biết hổ thẹn, tâm thường nhớ giáo pháp, siêng năng tinh tấn giữ giới trọn vẹn, tụng kinh nhớ suy nghĩ y pháp thực hành, ý thường vui vẻ, việc đáng giận không giận, trong bốn thứ cúng dường nếu không thanh tịnh không thọ, nếu cúng dường thanh tịnh thì thọ mà biết lượng sức nhận vừa đủ, bàn luận không tự thỏa mãn, nói năng rất ít, có liêm cách biết kính những bậc Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa, thầy lành bạn tốt thì thường gần gũi vâng lời chỉ dạy, ăn uống có chừng mực không mê mùi vị, ưa ở chỗ vắng vẻ, dù khổ dù vui tâm không xao động, không oán thù cạnh tranh, không ưa thưa kiện. Có những tướng như thế là biết người được tướng nhất tâm.
2- Nhị thiền.
-Bởi hai thứ giác, quán nên loạn tâm thiền định, như nước lóng trong sóng dậy liền đục. Hành giả bên trong đã được nhất tâm mà còn bị giác, quán làm não loạn, như làm nhọc muốn nghỉ, như ngủ muốn yên. Khi ấy phải học không giác, không quán cho định thanh tịnh phát sinh. Bên trong thanh tịnh vui vẻ được vào Nhị thiền, tâm rất lặng lẽ xưa chưa từng có, nay mới được trạng thái này nên rất mừng.
3- Tam thiền.
-Khi ấy tâm quán cái mừng cũng là hoạn họa, như giác, quán ở trước, tập hành pháp không mừng. Rời bỏ cái mừng liền được cái vui của các bậc Hiền Thánh. Biết chắc chắn nhất tâm, hằng bảo vệ vào Tam thiền. Ðã bỏ cái mừng, biết chắc nhớ nghĩ bảo vệ cái vui. Thánh nhân nói bảo vệ vui, vì người thường khó bỏ được, bởi lui về quá khứ chưa bao giờ có cái vui này, nên nó là bậc nhất. Thế nên tất cả Thánh nhân nói: "Trong tất cả tịnh địa, Từ là vui bậc nhất."
4- Tứ thiền.
-Vui cũng là họa hoạn. Vì sao? Vì trong cái thiền bậc nhất, tâm không có động chuyển, bởi nó là vô sự. Nếu có động thì có chuyển, có chuyển là có khổ. Thế nên Tam thiền cho vui là hoạn, muốn dùng cái thiện diệu bỏ cái khổ vui này. Trước bỏ ý lo mừng, trừ khổ vui, gìn giữ tâm niệm thanh tịnh được vào Tứ thiền nhất tâm thanh tịnh không khổ không vui. Cho nên Phật nói: "Gìn giữ rất thanh tịnh gọi là đệ Tứ thiền". Bởi vì đệ Tam thiền bị cái vui làm xao động nên gọi là khổ. Ðệ Tứ thiền diệt trừ khổ vui gọi là chỗ không xao động.

II.- TỨ KHÔNG

1- Không vô biên xứ.
- Quán Không xứ phá cái tưởng hữu sắc trong và ngoài. Diệt cái tưởng hữu đối, không nghĩ tưởng các thứ hình sắc. Quán Không vô biên xứ là xét hình sắc là lỗi lầm, nghĩ tưởng cái định Không xứ là công đức thượng diệu. Tập nghĩ tưởng pháp này dần dần được định Không xứ.
2- Thức vô biên xứ.
- Quán Thức xứ là xét cái K hông xứ là lỗi lầm, nghĩ tưởng công đức vô lượng của Thức xứ. Tập nghĩ tưởng pháp này dần dần được định Thức xứ. 3- Vô sở hữu xứ .
- Quán Vô sở hữu xứ, xét Thức xứ là lỗi lầm, nghĩ tưởng công đức của Vô sở hữu xứ. Tập nghĩ tưởng pháp này liền được định Vô sở hữu xứ.
4- Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
- Quán Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, xét tất cả tưởng là hoạn họa rất nhiều, như bệnh, như ghẻ, còn vô tưởng là chỗ ngu si. Thế nên Phi hữu tưởng phi vô tưởng là chỗ tốt an ổn bậc nhất. Xét lỗi lầm của Vô sở hữu xứ, nghĩ công đức Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Tập nghĩ pháp này liền được định Phi hữu tưởng phi vô tưởng.

III. TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

1- Từ vô lượng tâm.
-Hoặc có hành giả trước tiến từ sơ địa dần dần đến thượng địa. Lại ở thượng địa tập hành Từ tâm để trước tự vui và phá cái độc nóng giận, sau Từ tâm lan dần đến mười phương vô lượng chúng sanh. Khi ấy liền được Từ tâm Tam-muội.
2- Bi vô lượng tâm.
-Bi tâm là thương xót nỗi khổ của chúng sanh, hay tự phá các thứ não hại, rộng đến vô lượng chúng sanh. Khi ấy liền được Bi tâm Tam-muội.
3- Hỷ vô lượng tâm.
- Hay phá những cái không vui khiến vô lượng chúng sanh đều được vui mừng. Bấy giờ liền được Hỷ tâm Tam-muội.
4- Xả vô lượng tâm.
- Hay phá những cái khổ vui, thẳng quán mười phương vô lượng chúng sanh. Khi ấy liền được Xả tâm Tam-muội.
Nhị thiền thì quán phá khổ vui của Từ và Bi, Tam thiền, Tứ thiền thì trừ Hỷ.

IV. NGŨ THÔNG

Kế đến học ngũ thông, thân bay đi biến hóa tự tại. Hành giả chuyên tâm phát khởi bốn món định như ý túc: Dục định, Tinh tấn định, Nhất tâm định và Tuệ định. Chuyên tâm quán thân tưởng nhẹ nhàng muốn bay đi. Hoặc thấy lớn hoặc thấy nhỏ cả hai đều là hoạn, phải tinh tấn chuyên cần thường nhất tâm quán nhẹ nhàng. Người xuống nước nổi là do tâm lực mạnh, khỉ vượn do tâm lực mạnh nên từ trên cao rơi xuống mà không đau nhức. Hành giả cũng như thế, do sức của dục, tinh tấn, nhất tâm, tuệ quá mạnh; mà thân nhỏ nên vận hành được. Lại quán phần không trong thân, thường tập quán không, do sức của dục, tinh tấn, nhất tâm, tuệ quá mạnh nên cất mình lên được. Ví như gió to hay cất vật nặng bay đi xa. Hành giả cũng như vậy, ban đầu thử tập bay khỏi đất chừng một hai thước, dần dần bay cao đến mười thước, trở về chỗ cũ như thường. Như chim con tập bay, hài đồng tập đi. Suy nghĩ tự xét biết, nếu tâm lực mạnh thì bay được xa. Phải học quán tứ đại, bỏ địa đại chỉ quán thủy, hỏa, phong, tâm niệm không tán loạn liền được tự tại, thân nhẹ nhàng bay đi như chim. Lại phải học tập, xa khởi tưởng gần, thế là chỗ gần diệt đến chỗ xa. Lại hay khiến các vật biến hóa. Như cây chỉ quán địa đại, bỏ ba đại kia thì cây biến thành đất. Vì sao? Bởi vì trong cây đã có phần địa đại. Cây biến thành nước, lửa gió, không, vàng, bạc v.v. đều như vậy cả. Tại sao? Vì trong cây có các phần kia vậy. Ðó là thần thông căn bản ban đầu.
Tứ thiền có mười bốn thứ tâm biến hóa:
Sơ thiền có hai: 1/ Sơ thiền. 2/ Dục giới.
Nhị thiền có ba: 1/ Nhị thiền. 2/ Sơ thiền. 3/ Dục giới.
Tam thiền có bốn: 1/ Tam thiền. 2/ Nhị thiền. 3/ Sơ thiền. 4/ Dục giới.
Tứ thiền có năm: 1/ Tứ thiền. 2/ Tam thiền. 3/ Nhị thiền. 4/ Sơ thiền. 5/ Dục giới.
Còn các thứ thần thông khác như trong luận Ma-ha-diễn có nói rõ.

V. TỨ NIỆM CHỈ

Ðệ tử Ðức Thế Tôn học năm pháp môn trước là chí chỉ mong đạt được Niết-bàn. Có hai hạng người: Người ưa định nhiều, vì thích khoái lạc. Người ưa trí nhiều, vì sợ khổ hoạn. Người ưa định nhiều trước học pháp thiền, sau học Niết-bàn. Người ưa trí nhiều đi thẳng đến Niết-bàn. Người đi thẳng đến Niết-bàn là chưa đoạn được phiền não cũng chưa đắc thiền, chỉ chuyên tâm không tán loạn thẳng cầu Niết-bàn, vượt qua các thứ phiền não ái v.v. ấy gọi là Niết-bàn.
1.- Thân niệm chỉ.
- Thân thật vô thường, khổ, bất tịnh,vô ngã mà điên đảo chấp thân là thường, lạc, tịnh, ngã. Do đó cho nên mọi việc đều đắm mến thân, ấy là hạng chúng sanh thấp tột. Hành giả vì muốn phá điên đảo nên tập Tứ niệm chỉ quán. Quán thân có rất nhiều thứ khổ hoạn từ nhân duyên sanh nên vô thường, các thứ não hại nên khổ, thân có ba mươi sáu vật nên bất tịnh, bởi không tự tại nên vô ngã. Tập quán như thế, quán trong thân, quán ngoài thân, quán cả trong và ngoài thân, ấy gọi là Thân niệm chỉ.
2.- Thọ niệm chỉ.
-Thật tướng của thân là thế. Tại sao lại khở
i điên đảo đắm mến thân này? Chín chắn suy xét cái thọ vui là do yêu thích quá mạnh khởi chấp, thật sự không có gì là vui. Tại sao không vui? Vì nhân ăn mặc nên vui, nhưng vui qua thì khổ đến, không phải thật là vui. Như bị ghẻ hành đau nhức là khổ, lấy thuốc xoa hết đau là vui. Do cái khổ lớn qua còn cái khổ nhỏ là vui, không phải thật vui. Lại nữa cái khổ cũ là khổ, cái khổ mới là vui, như người gánh vai này nặng đổi qua vai khác mới vừa nặng là vui, không phải thật thường vui. - Khi thấy việc ấy là nhân duyên vui mà chưa hẳn là vui. Vì có khi là nhân vui, có khi là nhân khổ. Nếu thích hợp với tâm yêu thích là vui, nếu hợp với tâm giận tức là khổ, nếu hợp với tâm mê muội thì không khổ, không vui. Lấy đó mà suy thì biết chắc có vui và không vui?
- Không phải thế. Như dâm dục cũng không phải là vui. Tại sao? Vì nếu dâm dục tự thành thì không cần tìm nữ sắc, đã tìm nữ sắc tất nhiên là khổ. Nếu dâm là vui thì phải không có khi chán, mà đã có lúc chán tức không phải là vui. Bởi trong cái khổ lớn được cái khổ nhỏ cho là vui. Như người bị tội tử hình, được ân xá tử hình chỉ phạt đòn cho là vui. Lửa dục tâm thiêu đốt quá khổ nên hành dâm cho là vui. Nhưng khi tuổi già chán dục, thì biết dục không phải là vui. Nếu thật vui lẽ ra không có khi chán. Các nhân duyên như thế, biết thật dục không phải là vui. Khi biết vui thì sẽ thấy khổ. Phật dạy: "Cái vui tột nên quán là khổ, cái khổ tột nên quán là vui, như tên bắn vào thân, cái không khổ không vui nên quán sanh diệt vô thường".
3.- Tâm niệm chỉ.
- Phải biết tâm thọ khổ lạc, thọ không khổ không lạc. Thế nào là tâm? Tâm ấy vô thường từ nhân duyên sanh, sanh diệt không dừng tương tợ như có, bởi vìđiên đảo cho nó là một, kỳ thật xưa không, nay có, đã có trở lại không, thế nên vô thường. Quán biết tâm là không. Thế nào là không ? Từ nhân duyên sanh nên có mắt, có cảnh thấy biết được. Do sự muốn thấy hòa hợp với các nhân duyên ấy, sanh ra cái biết của mắt. Như hạt châu Nhật Ái, có châu, có mặt trời và bổi, các duyên hòa hợp sanh ra lửa. Tìm từng nhân duyên một không thể thấy lửa, nhưng hợp các duyên lại thì có lửa. Cái biết của mắt cũng thế, không phải ở trong con mắt, không phải ở ngoài cảnh, cũng không phải ở giữa chừng con mắt và cảnh, không có chỗ ở mà cũng không phải là không. Thế nên, Phật dạy: "Tâm như huyễn như hóa, tâm hiện tại quán tâm quá khứ hoặc khổ hoặc vui hoặc không khổ không vui, mỗi tâm đều khác, mỗi tâm tự diệt. Tâm có dục, tâm không dục cũng như thế, mỗi tâm đều khác, mỗi tâm tự diệt. Quán nội tâm, ngoại tâm, cả nội ngoại tâm cũng như thế, mỗi mỗi đều khác, mỗi mỗi tự diệt".
4.- Pháp niệm chỉ.
- Quán tâm thuộc về cái gì? Quán tưởng tượng suy xét, nhớ nghĩ, mong muốn v.v. các thứ tâm sở tương ưng và không tương ưng, tìm thật kỹ coi cái gì là chủ. Cùng tột không thể có chủ. Tại sao? Vì từ nhân duyên sanh nên vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên không tự tại, không tự tại nên không chủ, không chủ nên không. Ðoạn trước riêng quán tâm, pháp, thọ không có. Ðoạn này quán trong Tứ niệm chỉ không có chủ, rời nó tìm chủ cũng không thể có. Nếu nói thường không được, vô thường cũng không được. Nếu là thường phải thường khổ, hoặc thường lạc. Nếu nói thần ngã là thường thì giết hại người không có tội và Niết-bàn cũng không. Nếu thân là thần ngã, khi thân diệt thì thần ngã cũng phải diệt. Thế thì không có đời sau, không có tội phước. Khắp quán như thế, thấy hoàn toàn không có chủ. Các pháp vốn là không, không có tự tại, do nhân duyên hòa hợp nên sanh, nhân duyên tan hoại nên diệt. Quán nhân duyên hợp thành pháp gọi là Pháp niệm chỉ.
Nếu hành giả được pháp niệm Chỉ, nhàm chán thế gian là không, già, bệnh, chết, thật không có một chút thường, lạc, ngã, tịnh. Ta đối với pháp không này, còn mong cầu cái gì? Chi bằng vào Niết-bàn trụ trong pháp tối thiện, do sức cố gắng tinh tấn được thâm Xá-ma-đà (trụ tâm một chỗ). Khi được Xá-ma-đà trụ trong pháp niệm Chỉ thứ tư, quán các pháp đều khổ, không vui, không vui là sự thật nếu nói khác tức là vọng ngữ. Khổ là nhân các thứ phiền não ái v.v. và nghiệp mà sanh, không phải trời, thời, ma v.v. các thứ dối gạt ấy gây ra. Phiền não và nghiệp ấy tạo ra cái khổ này. Khi nhập Niết-bàn tất cả khổ này đều dứt sạch, không phải Sắc giới, Vô sắc giới và thế giới thỉ (ngoại đạo cho cái ban đầu tạo ra tất cả sự vật là thế giới thỉ) v.v. các thứ dối gạt ấy hay diệt được khổ. Bát chánh đạo, Chánh kiến v.v. là lối vào Niết-bàn; không phải chúng ngoại đạo tu các thứ khổ hạnh, không trì giới, không thiền định, không trí tuệ mà vào được Niết-bàn. Vì sao? Vì trong Phật pháp đồng tu ba pháp giới, định, tuệ mới được vào Niết-bàn. Ví như người đứng chỗ đất bằng, có cung, tên tốt mới bắn chết bọn giặc thù. Giới dụ chỗ đất bằng, Thiền định dụ cung tốt, Trí tuệ dụ tên nhọn, ba việc đầy đủ hay giết được bọn giặc phiền não. Bởi thế nên chúng ngoại đạo không thể được Niết-bàn.

VI. TỨ ÐẾ

Hành giả bấy giờ khởi quán Tứ đế duyên, như tên bắn suốt.
1- Khổ. - Quán khổ có bốn thứ: Bởi nhân duyên sanh nên vô thường, thân tâm não loạn nên kho嬠không có một pháp thật nên không, không thật có người tạo tác và lãnh thọ nên vô ngã.
2- Tập. - Quán tập có bốn: Do phiền não, nghiệp hữu lậu hòa hợp là tập, quả tương tợ được sanh là nhân, trong ấy khởi tất cả hạnh là sanh, không phải quả tương tợ ấy liên tục là duyên.
3- Diệt. - Quán diệt có bốn: Tất cả phiền não che đậy là bế, trừ hết lửa phiền não là diệt, trong tất cả pháp là bậc nhất nên diệu, đã vượt qua thế gian nên xuất.
4- Ðạo. - Quán đạo có bốn: Hay đến Niết-bàn là đạo, không điên đảo là chánh, là lối đi của tất cả thánh nhân là tích, được thoát khỏi sầu thảm là ly.

VII. TỨ GIA HẠNH

1. Noãn.
- Quán như trên sẽ đắc pháp vô lậu tương tợ gọi là noãn pháp. Thế nào là noãn? Thường chuyên cần tinh tấn gọi là noãn. Các thứ phiền não là củi, trí vô lậu là lửa, lửa gần phát cháy hơi ấm ban đầu gọi là noãn. Ví như dùi lửa, lúc mới dùi nó ra khói, ấy là noãn. Nó là tướng ban đầu của đường đến Niết-bàn.
Ðệ tử Phật có hai hạng người: Hạng người phần nhiều ưa nhất tâm cầu thiền định là người theo lối hữu lậu. Hạng người ưa trí tuệ chân thật để trừ diệt các thứ đắm mến, là người thẳng đến Niết-bàn vào trong noãn pháp. Có noãn tướng là thâm đắc nhất tâm, được tương tợ thật pháp, đến bên ranh vô lậu. Hành giả khi ấy được đại an ổn, tự nghĩ: Ta quyết định sẽ được Niết-bàn, vì thấy được tướng này. Như người đào giếng được thấy đất ướt, biết sẽ đến nước không lâu. Như người đánh giặc, giặc lui tan hết, tự biết đắc thắng, trong ý an ổn. Như người kinh hãi chết giấc, muốn biết họ sống chăng, hoặc lấy kim chích vào thân, hoặc chẩn mạch xem còn nhảy không, nếu biết họ còn ấm tức là sẽ sống. Như người nghe pháp suy nghĩ trong tâm thích thú, khi ấy tâm nóng. Hành giả có noãn pháp như thế gọi là có noãn, cũng gọi là được phần thiện căn đến Niết-bàn. Pháp thiện căn này có mười sáu hạnh, Tứ đế duyên là một trong sáu địa, là nền tảng của trí tuệ và tất cả pháp vô lậu. Người được bước đầu vô lậu hay đi an ổn, ấy gọi là Noãn pháp.
2- Ðảnh.
- Tăng tiến chuyển lên gọi là Ðảnh pháp, như sữa biến thành tô lạc. Hành giả quán thật tướng các pháp, tự nghĩ: Ta sẽ lìa khổ được giải thoát. Tâm thích pháp chân thật này hay trừ các thứ khổ hoạn và già, bệnh, chết. Khi ấy suy nghĩ: Pháp này ai nói? Nếu không có pháp này thì tất cả phiền não ai có thể ngăn được. Ta phải làm thế nào được một chút ít sáng suốt của trí tuệ chân thật. Từ đây được tín tâm thanh tịnh đại hoan hỷ trong Tăng bảo. Trong Tam bảo được nhất tâm thanh tịnh hợp với trí tuệ chân thật. Ðó là được đảnh thiện căn cũng gọi là Ðảnh pháp, cũng gọi là được phần thiện căn đến Niết-bàn. Như trong kinh Ba-la-diên nói:
Phật Pháp và Tăng bảo,

Ai có ít tịnh tín,
Ðó là căn lành Ðảnh,

Các ngươi nhất tâm giữ.
Thế nào là ít tịnh tín? Với bậc Phật, Bồ-tát, Bích Chi Phật, La-hán là ít, còn hàng được bước đầu vô lậu là nhiều. Lại cái này nên phá, nên mất gọi là ít. Như kinh Pháp Cú nói:

Chuối trổ buồng rồi chết,
Tre ra bông cũng chết,

Loa mang thai thì chết,

Tiểu nhân được nuôi chết.

Phá mất không phải lợi,

Tiểu nhân cho danh dự,

Phần bạch tịnh mất hết,

Ðến Ðảnh pháp cũng rơi.
Chưa đoạn kiết sử, chưa được vô lậu và vô lượng tâm, gọi là ít.
3- Nhẫn.
- Chuyên cần tinh tấn nhất tâm vào trong Niết-bàn, lại quán rành rõ pháp ngũ ấm, tứ đế, mười sáu hạnh. Khi ấy tâm không sụt, không hối hận, không thối lui, ưa thích vào nhẫn, gọi là Nhẫn thiện căn. Nhẫn những gì? Tùy thuận hành Tứ đế gọi là Nhẫn. Cái thiện căn này có ba bậc thượng, trung, hạ và ba thời. Thế nào gọi là Nhẫn? Quán ngũ ấm vô thường, khổ, không, vô ngã, tâm nhẫn không thối chuyển gọi là Nhẫn. Quán các pháp thế gian thảy đều là khổ, không, không vui. Cái khổ này do các thứ phiền não, ái v.v. tập hợp. Cái tập ấy bị trí tuệ diệt sạch, đó là thượng pháp không có pháp nào hơn, Bát chánh đạo hay khiến người tu hành được Niết-bàn không có lối nào bằng. Tín tâm như thế không hối hận, không nghi ngờ, ấy gọi là Nhẫn. Trong tâm có sức nhẫn nên các kiết sử, các thứ phiền não nghi ngờ không thể chen vào phá hoại tâm được, ví như núi đá, các thứ gió, nước không thể làm trôi giạt, lay động được, ấy gọi là Nhẫn. Người được như vậy gọi là người được bước đầu vô lậu chân thật tốt đẹp. Như Phật nói trong kinh Pháp Cú:

Chánh kiến trên thế giới,
Ðâu có thể được nhiều,

Cho đến ngàn muôn năm,

Trọn không rơi ác đạo.
Người chánh kiến trên thế giới là người được Nhẫn thiện căn.
4.- Thế đệ nhất.
- Người này tăng tiến nhất tâm rất nhàm chán thế giới, muốn biết rành rõ tướng Tứ đế để tiến đến Niết-bàn. Trong nhất tâm như thế gọi là thế gian đệ nhất. Một thời trụ tứ hạnh - vô thường, khổ, không, vô ngã - quán một đế khổ pháp nhẫn và các khổ duyên. Thế nào là quán ngũ ấm trong Dục giới là vô thường, khổ, không, vô ngã? Trong đây tâm nhẫn vào trí tuệ, cũng là tâm vương và tâm sở tương ưng, gọi là khổ pháp nhẫn. Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp và các hạnh không tương ưng với tâm, đời hiện tại, đời vị lai tất cả pháp vô lậu ban đầu, gọi là khổ pháp nhẫn. Thứ lớp sanh khổ pháp trí, khổ pháp nhẫn, trí đoạn kiết sử khổ pháp được chứng đạo. Ví như hai người đối địch, một người cầm đao bén, một người cầm dây trói thì người cầm đao giết được người cầm dây. Cũng như dao bén chẻ tre qua mắt dễ dàng. Do công phu của nhẫn trí hay đoạn được kiến chấp ràng buộc trong dục giới và mười món kiết sử. Bấy giờ được cái dị đẳng trí, chưa được vô lậu trí, chỉ được vô lậu tuệ, khi ấy thành tựu một trí. Trong tâm thứ hai thành tựu pháp trí, khổ trí, đẳng trí. Qua tâm thứ ba và thứ tư thành tựu tứ trí: Khổ trí, pháp trí, tỷ trí, đẳng trí. Trong đạo pháp diệt đế mỗi trí được tăng, người ly dục thành tựu tăng trưởng tha tâm trí.

VIII. TỨ QUẢ THANH VĂN

1- Tu-đà-hoàn:
- Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, khổ tỷ nhẫn, khổ tỷ trí đoạn mười tám thứ Kiết, bốn tâm ấy đạt được nơi khổ đế. Tập pháp nhẫn, tập pháp trí đoạn được bảy thứ Kiết trong Dục giới. Tập tỷ nhẫn, tập tỷ trí đoạn mười ba món Kiết cõi Sắc và Vô sắc. Diệt pháp nhẫn, diệt pháp trí đoạn bảy món Kiết ở Dục giới. Diệt tỷ nhẫn, diệt tỷ trí đoạn mười hai món Kiết ở cõi Sắc và Vô sắc. Ðạo pháp nhẫn, đạo pháp trí đoạn tám món Kiết ở Dục giới. Ðạo tỷ nhẫn, đạo tỷ trí đoạn mười bốn món Kiết cõi Sắc và Vô sắc. Ðạo tỷ trí là đắc quả Tu-đà-hoàn, thật biết các pháp tướng. Trong mười sáu tâm (khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí v.v. ) được mười lăm, người lợi căn gọi là Tùy pháp hạnh, người độn căn gọi là Tùy tín hạnh. Hai người này chưa hẳn ly dục nên chỉ được Sơ quả. Trước chưa đoạn kiết sử mà được mười sáu thứ tâm là Tu-đà-hoàn.
Nếu trước đoạn chín phẩm Kiết được mười sáu thứ tâm gọi là Tư-đà-hàm. Bởi trước chưa ly dục đoạn tám mươi tám món Kiết sử nên gọi Tu-đà-hoàn. Lại nữa, được thiện căn vô lậu quả nên gọi Tu-đà-hoàn. Người lợi căn gọi Kiết đắc, người độn căn gọi là Tín ái. Chưa đoạn tư hoặc nên phải bảy lần sanh nhân gian, nếu đoạn ba món tư hoặc chỉ còn sanh ba lần. Thấu đạt ba mươi bảy phẩm trợ đạo gọi là Lưu hướng Niết-bàn. Tùy thuận trôi vào biển thánh gọi là Tu-đà-hoàn. Ðó là đứa con công đức ban đầucủa Phật.
2- Tư-đà-hàm:
- Ðược thoát khỏi ác đạo, đoạn tam kiết, làm mỏng tam độc gọi là Tư-đà-hàm. Lại nữa, chín phẩm Hoặc ở Dục giới do kiến đế đoạn và tư duy đoạn. Nếu người phàm phu trước dùng hữu lậu đạo đoạn sáu thứ Hoặc ở Dục giới, vào kiến đế đạo, được mười sáu thứ tâm gọi là Tư-đà-hàm. Nếu đoạn được tám thứ Hoặc nhập kiến đế đạo đủ mười sáu thứ tâm gọi là quả Tư-đà-hàm hướng A-na-hàm. Nếu đệ tử Phật chứng Tu-đà-hoàn rồi riêng đoạn ba món Kiết dục, chứng Tư-đà-hàm. Hoặc tư duy trong chín món Hoặc ở Dục giới, đoạn được sáu món gọi là Tư-đà-hàm; đoạn tám món gọi là quả Tư-đà-hàm hướng A-na-hàm.
3- A-na-hàm:
- Nếu phàm phu trước đoạn chín món Hoặc ở Dục giới vào kiến đạo, được mười sáu thứ tâm gọi là A-na-hàm. Hoặc được Tu-đà-hoàn tiến lên đoạn ba món tư hoặc, chứng đạo giải thoát thứ chín gọi là A-na-hàm. A-na-hàm có chín thứ:
1) A-na-hàm hiện đời vào Niết-bàn.
2) A-na-hàm thân trung ấm vào Niết-bàn.
3) A-na-hàm đời sau sanh ra nhập Niết-bàn.
4) A-na-hàm chuyên cần mong cầu nhập Niết-bàn.
5) A-na-hàm không cầu mong nhập Niết-bàn.
6) A-na-hàm tiến lên các cõi trên nhập Niết-bàn.
7) A-na-hàm lên cõi trời Ca-ni-tra nhập Niết-bàn.
8) A-na-hàm đến định Vô sắc nhập Niết-bàn.
9) A-na-hàm thân ở vị A-na-hàm mà hạnh hướng A- la-hán.
4- A-la-hán:
- Dùng vô ngại đạo Kim cang Tam-muội thứ chín phá chín món Hoặc cõi Sắc, Vô sắc và tất cả Hoặc, được tận trí giải thoát đạo thứ chín, tu tất cả thiện căn gọi là quả A-la-hán. A-la-hán có chín thứ:
1/ Thối pháp.
2/ Bất thối pháp.
3/ Tử pháp.
4/ Thủ pháp.
5/ Trụ pháp.
6/ Tất tri pháp.
7/ Bất hoại pháp.
8/ Tuệ thoát.
9/ Cộng thoát.
Trí kém, tinh tấn yếu, thực hành ngũ pháp mà lui sụt gọi là A-la-hán Thối pháp. Trí tuệ sắc bén, siêng năng hành ngũ pháp không lùi, gọi là A-la-hán Bất thối pháp. Trí kém, tinh tấn yếu mà nhàm chán mạnh suy nghĩ muốn tự sát, gọi là A-la-hán Tử pháp. Trí kém, tinh tấn mạnh tự bảo vệ thân, gọi là A-la-hán Thủ pháp. Trí bậc trung, tinh tấn bậc trung không tăng không giảm, trụ vào bậc trung gọi là A-la-hán Trụ pháp. Trí có phần sắc bén, chuyên cần tinh tấn được bất hoại tâm giải thoát gọi là A-la-hán Tất tri pháp. Trí sắc bén, tinh tấn mãnh liệt mới được bất hoại tâm giải thoát gọi là A-la-hán Bất hoại pháp. Không nhập trong các thiền định, vị đáo địa mà các lậu đã sạch, gọi là A-la-hán Tuệ giải thoát. Ðược các thiền cũng được Diệt tận định, các lậu dứt sạch, gọi là A-la-hán Cộng giải thoát.
Có vị A-la-hán đối với pháp hữu vi rất nhàm chán tự mãn, không muốn làm các việc công đức, chỉ đợi thời nhập Niết-bàn. Có vị A-la-hán mong cầu Tứ thiền, Tứ định vô sắc, Tứ đẳng tâm, Bát giải thoát, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ, nhập Cửu thứ đệ định, tu Lục thần thông, Nguyện trí, Vô tránh Tam-muội, siêu việt Tam-muội, huân thiền, Tam giải thoát môn và Phóng xả. Lại y cứ trí sắc bén chuyên cần tinh tấn nhập các thiền công đức, gọi là A-la-hán đắc Bất thoái pháp, Bất hoại pháp.

IX. QUẢ BÍCH CHI PHẬT

Nếu khi không có Phật ra đời, không có giáo pháp và các đệ tử Phật, khi ấy có những vị ly dục Bích Chi Phật ra đời. Bích Chi Phật có ba bậc: Thượng, trung, hạ.
1. Bích-chi Phật bậc hạ.
- Vị đã chứng Tu-đà-hoàn, hoặc Tư-đà-hàm. Tu-đà-hoàn phải sanh trong nhân gian bảy lần, đến lần thứ bảy nếu không gặp Phật pháp, không được làm đệ tử Phật, cũng không sanh đến lần thứ tám, khi ấy chứng Bích Chi Phật. Tư-đà-hàm có sanh lại nhân gian một lần, nếu không gặp Phật pháp, không được làm đệ tử Phật cũng không sanh đến lần thứ hai, khi ấy chứng BíchChi Phật.
2. Bích Chi Phật bậc trung.
- Có người nguyện làm Bích Chi Phật, khi gieo giống Bích Chi Phật căn lành đối với Phật pháp không có, chán đời đi xuất gia đắc đạo, gọi là Bích Chi Phật.
Như vua nước Ba-la-nại mùa hạ nóng bức ở trên lầu cao, ngồi sàng thất bảo, sai thể nữ tán hương ngưu đầu chiên-đàn xoa vào thân. Thể nữ tay đeo rất nhiều xuyến, khi xoa vào mình vua xuyến khua vang tai. Vua rất ghét bảo thứ lớp cởi bớt xuyến, xuyến còn ít thì tiếng khua cũng ít, khi chỉ còn một chiếc thì im lặng không khua. Khi ấy vua tự giác ngộ: "Quốc gia, quan, dân, cung nhân, thể nữ, nhiều việc thì nhiều não cũng giống như thế". Tức thì lìa dục riêng ở một chỗ suy gẫm chứng Bích Chi Phật, râu tóc tự rụng, mặc y tự nhiên, rời cung điện dùng sức thần túc vào núi xuất gia. Nhân duyên như thế, là Bích Chi Phật bậc trung .
3. Bích Chi Phật bậc thượng.
- Có người cầu Phật đạo sức trí tuệ và tinh tấn kém do gặp nhân duyên lui sụt, đến khi không có Phật ra đời, không Phật pháp và đệ tử Phật, mà hành thiện căn được thuần thục thành Bích Chi Phật, có tướng hảo hoặc ít, hoặc nhiều nhàm chán thế tục, đi xuất gia đắc đạo là Bích Chi Phật bậc thượng.
Ðối trong các pháp, trí tuệ cạn được vào gọi là A-la-hán, trí tuệ bậc trung là Bích Chi Phật, trí tuệ sâu là Phật. Như ở xa nhìn cây, chỉ thấy cây không phân biệt được cành; lại gần hơn phân biệt được cành, không phân biệt hoa, lá; đến dưới cội cây nhìn lên mới phân biệt rành rõ cành, lá, hoa, quả. Thanh văn biết tất cả hạnh vô thường, tất cả pháp vô ngã, chỉ Niết-bàn là hoàn toàn an ổn. Thanh văn hay quán như thế, mà không thể phân biệt biết sâu và vào sâu. Bích Chi Phật có phân biệt mà cũng không thể phân biệt biết sâu và vào sâu. Phật biết các pháp phân biệt cứu xét rõ ràng, biết tận cùng và vào tận cùng
(trích

TỌA THIỀN TAM-MUỘI
Trước Thuật: SAMGHARAKASA
Dịch Phạn-Hán: KUMÀRAJIVADịch Hán-Việt: THÍCH THANH TỪ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét