Ba dấu ấn của chánh pháp
(Tam pháp ấn)
Nguyên Tuấn
A- Dẫn nhập
Tam pháp         ấn là giáo lý mang tính pháp định trong hệ thống giáo lý của         Phật giáo. Trong kinh Tương Ưng III, Ðức Phật đã có lần hỏi các thầy Tỳ         kheo: 
"Này các thầy, cái gì được thấy, được nghe, được nghĩ đến, được biết, được tìm cầu, được ý tư duy, cái ấy là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay vui?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thì có thể khởi lên suy nghĩ: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn" (vô ngã).
Như vậy, vô thường, khổ và vô ngã là ba         dấu ấn xác định, chứng nhận tính chính thống của giáo lý đạo Phật.         Mọi giáo lý của đạo Phật đều phải mang ba dấu ấn đó. Chính vì         tính chất quan trọng này mà Tam pháp ấn luôn được nhắc đến trong         hầu hết kinh điển, từ kinh tạng Nam truyền đến Bắc truyền         và cả trong các bộ luận quan trọng như luận Ðại Trí Ðộ của Bồ tát Long         Thọ.
B- Nội dung
I. Ðịnh nghĩa:
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp         có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của         Ðức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là         khuôn dấu của chánh pháp.
Tam pháp ấn là ba khuôn dấu của chánh pháp         gồm vô thường, khổ và vô ngã. Ba khuôn dấu hay tính chất này xác định         tính chính thống và đích thực của giáo lý đạo Phật nhằm đảm bảo         mọi suy tư, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người Phật tử         không vượt ra ngoài mục tiêu giải thoát mà Ðức Thế Tôn đã tuyên         thuyết. Mọi giáo lý không có ba khuôn ấn trên đều không phải         của đạo Phật.
Trong kinh tạng A Hàm, đôi khi Ðức Phật         cũng dạy về Tứ pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết bàn (kinh         Tăng Nhất A Hàm - phẩm Tăng thượng thứ 23). Tuy nhiên, đấy chỉ là sự         triển khai của Tam pháp ấn. Bởi lẽ, Niết bàn chỉ là tên gọi khác         của vô ngã như Hòa thượng Thích Thiện Siêu đã khẳng định:         "Niết bàn là một cái gì tuyệt đối không dung ngã... Hữu ngã là         luân hồi mà vô ngã là Niết bàn" (Vô ngã là Niết bàn,         tr.65).
Tứ pháp ấn đôi khi cũng được phát         biểu là vô thường, khổ, vô ngã và không (kinh Tăng Nhất A Hàm - phẩm         Thất tà tụ thứ 2). Cũng như trên, "không" vẫn chỉ là một cách nhìn         khác về các điều kiện duyên khởi của mọi sự, mọi vật.         Một hữu thể được gọi là vô ngã hoặc không vì bản chất của nó là         do điều kiện nhân duyên tạo thành. Do vậy, có thể xem vô thường,         khổ và vô ngã là một định thức chuẩn mực, tổng quát của Tam pháp ấn.
II. Nội dung Tam pháp         ấn:
1)- Pháp ấn thứ nhất: Vô thường         (Anitya)
Pháp ấn đầu tiên hay khuôn ấn đầu tiên         là vô thường. Vô thường, tiếng Phạn là Anitya, hàm nghĩa sự biến         đổi, thay đổi, không cố định. Mọi giáo lý, học thuyết nào         không mang dấu ấn này thì không phải là Phật pháp.
- Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện         tượng, sự vật trên thế gian do các tập hợp duyên sanh đều mang tính         vô thường. Nói cách khác, vô thường nghĩa là sự vật không mang tính đồng         nhất bất biến. Hòn núi là một tập hợp duyên sanh, thân thể con người         là một tập hợp duyên sanh, lá cây rụng bên đường là một tập hợp duyên         sanh, cho đến hạt bụi nhỏ cũng là tập hợp do duyên mà hiện hữu. Do         vậy, hòn núi, thân thể con người, lá cây, hòn sỏi, hạt bụi... đều         luôn biến đổi, không bao giờ có tính đồng nhất và phải chịu sự tác         động của vô thường. Mọi sự, mọi vật trong thế giới hiện         tượng từ các vật thể vĩ mô đến các thế giới vật chất hạt cực         nhỏ vi mô như nguyên tử, hạt proton, hạt neutron... luôn biến chuyển,         thay đổi liên tục không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, không chỉ trong thế giới         vật chất mà ngay cả trong thế giới tâm thức, vô thường vẫn luôn có mặt.
- Trong đạo Phật, con người là sự cấu hợp         của hai thành phần Danh và Sắc, hay phần tinh thần - các trạng thái tâm lý         và phần vật chất - thân thể sinh-vật lý, và hai thành phần này luôn         ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối chảy mãi không         ngừng trong đời sống con người. "Nó giống như giọt sương buổi sáng         tan đi khi mặt trời vừa moc; nó giống như bọt nước, như một dòng thác         cuốn trôi đi tất cả những gì nó gặp và trôi chảy mãi không ngừng; nó         giống như một con vật tại lò sát sanh, lúc nào cũng đương đầu với cái         chết" (Tăng Chi Bộ kinh III, tr.70). Mọi hoạt động, vận hành tâm         lý: cảm giác, tri giác, tình cảm, tư duy... của con người luôn tồn tại         trong khoảng thời gian cực ngắn mà đạo Phật gọi là sát na (1).
Trong khoa tâm lý học, các biến         chuyển trạng thái tâm lý theo thời gian được chia làm hai loại là         thường biến tâm lý và đột biến tâm lý.
- Thường biến tâm lý là sự thay         đổi các trạng thái tâm lý theo những phản xạ chức năng của ý thức         và tập quán nghiệp. Ví dụ như vui thì cười nhưng sau đó buồn thì khóc         lóc, ưu sầu. Thành đạt thì vui mừng, thất bại thì đau khổ, buồn rầu...
- Ðột biến tâm lý là sự biến         đổi tâm trạng đột ngột trong khoảng thời gian rất ngắn. Tần số dao động         tâm diễn ra rất nhanh. Ví dụ như trạng thái tâm dao động, tán loạn trong khi         gặp các sự cố nguy hiểm: nhà cháy, người thân qua đời.... Thường         biến hay đột biến tâm lý đều phản ánh tính vô thường trong         phương diện tinh thần của đời sống con người.
Thế nhưng hiện tượng vô thường         không tất yếu đưa đến khổ - pháp ấn thứ hai. Trong đoạn kinh ở phần         dẫn nhập, nếu chỉ hiểu đơn giản rằng hễ vô thường là khổ, thì khi         đó giáo lý vô thường không còn là một khuôn dấu của chánh pháp nữa.         Trong thực tế, nếu không có vô thường thì sẽ không thể có sự         sống và không thể có sự phát triển. Nếu hạt thóc giống thường         tại thì nó không bao giờ trở thành cây lúa cho ra những hạt gạo trắng         được, nếu sự vật không vô thường thì lịch sử tiến hóa của nhân         loại sẽ không thể có và nền văn minh nhân loại sẽ chỉ luôn tồn         đọng ở thời kỳ đồ đá cũ. Và nếu không có sự tác động của vô         thường thì chúng ta sẽ không bao giờ có hy vọng đoạn tận các tập khí         tham ái phiền não đang tiềm ẩn sâu kín trong nội tâm chúng ta. Do vậy,         giáo lý vô thường đem lại niềm tin cho mọi nỗ lực sáng tạo         và phát triển của con người. Vô thường là đặc chất đích thực của sự         sống.
2)- Pháp ấn thứ hai: Khổ (Dukkha)
Khổ trong tiếng Pàli Dukkha có nghĩa là         sự bức bách, khó chịu, sự nóng bức... Theo Hán tự, "Khổ" có nghĩa         là đắng - hàm ý sự đau khổ trong thế giới hữu tình chứa đựng         nhiều vị đắng chát, chua cay, đem lại cảm giác bất an. Ðức Phật đã         diễn tả sự khổ đau của con người như một sự bùng cháy, đổ vỡ của toàn         thể thế giới: "Toàn thể thế giới bốc cháy, toàn thể         vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể vũ trụ làm mồi cho lửa, toàn         thể vũ trụ run lập cập" (kinh Tương Ưng Bộ, tr.133).
Khổ là một sự thật mang tính phổ biến         và hiện diện với nhiều hình thái đa dạng. Ôn Như hầu Nguyễn Gia         Thiều đã diễn bày nỗi khổ trần gian như một định chế đeo mang         trọn một kiếp người:
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sanh, kinh, cụ làm đau mấy lần
-- (Cung oán ngâm khúc, câu 59-60)
Trong đạo Phật, khổ đau trong đời sống con         người có đôi khi được trình bày qua 8 hiện tượng là: 1- Sanh là khổ.         2- Già là khổ. 3- Bệnh là khổ. 4- Chết là khổ. 5- Buộc lòng phải sống         chung với người mình không ưa thích là khổ. 6- Phải xa lìa những người thân         yêu là khổ. 7- Mong muốn mà không được là khổ. 8- Chính thân ngũ uẩn là         khổ. Cách nhìn này được Ðức Phật dạy trong bài pháp cực kỳ quan trọng,         kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana sutta), cho năm vị đệ tử         đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Trong các kinh về sau, khổ được phân         biệt thành ba loại là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Cách nhìn này đơn         giản hơn và có thể giúp ta tìm căn nguyên của khổ.
- Khổ khổ (Dukkha dukkhata) có nghĩa là một         cảm thọ khó chịu (khổ thọ). Ví dụ như cảm giác đau đớn vì một         chiếc răng hư là một khổ thọ, trời lạnh mà không có áo ấm thân         thể run cập là một khổ thọ, chứng kiến sự ra đi vĩnh viễn của         người thân yêu là một khổ thọ, bị người khác chọc giận làm thương         tổn đến danh dự, tức đến đỏ mặt tía tai là một khổ thọ... Nói         chung, những cảm giác bất an trong thân thể vật lý và các trạng thái         tâm-sinh lý đều là khổ thọ, loại khổ thứ nhất.
- Hoại khổ (Vinarupamam dukkhata) có nghĩa là         những thứ vốn không khổ nhưng khi tiêu hoại thì sẽ tạo ra khổ. Ví dụ: khi         còn trẻ, thân thể chúng ta rất khỏe mạnh, nhưng khi tuổi già đến,         thân ta sẽ suy nhược, lá gan của ta hiện giờ không bệnh nhưng theo         thời gian nó sẽ yếu, sẽ bệnh, sẽ mất khả năng làm tiêu chất         cholesterol. Nụ cười và khuôn mặt rạng rỡ ngày hôm nay có thể sẽ         biến mất để nhường chỗ cho những giọt nước mắt ưu sầu ở         ngày mai. Hễ có sinh thành là có hoại diệt. Ý tưởng này dễ đưa tới         những cách nhìn bi quan. Do vậy, những thứ bây giờ tốt cách mấy cũng mang sẵn         mầm khổ trong ấy.
Nói cách khác, sự biến đổi từ trạng         thái này sang trạng thái khác, sự biến hoại trong cơ chế tâm-sinh-vật         lý của con người đem lại sự bất an, bứt rứt, không an tịnh trong tư duy         và tình cảm là hoại khổ.
- Hành khổ (Samskhara dukkhata): Hành là các         hiện tượng kết tập các điều kiện nhân duyên mà thành. Trong         kinh Ðại Bát Niết Bàn, có hai câu mà Ðức Phật luôn nhấn mạnh "chư         hành vô thường, thị sanh diệt pháp", có nghĩa là những thứ gì do         nhân duyên tạo thành, sinh ra đều là vô thường, đều thuộc về         thế giới tương đối, thế giới của sanh và diệt, của luân hồi sanh         tử. Thân thể, thế giới bên ngoài thân ngũ uẩn, hoàn cảnh sống, các         trạng thái tâm lý của con người như đã nói đều là nhân duyên sanh         nên phải chịu sự tác động của vô thường. Vô thường, thay đổi thì thế         nào cũng đưa đến khổ. Cho nên trong các hành, các hiện tượng         đều chứa sẵn hạt giống của khổ hay gọi là hành khổ.
Cả hai cách trình bày về khổ mang tính         phân loại trên đều mang tính phổ quát. Thật ra, bất cứ khi nào phiền         não xuất hiện thì khi đó khổ đau có mặt; và chỉ khi nào dòng tâm thức         chúng ta không còn bị quấy nhiễu bởi bóng hình của phiền não thì khi đó         là an lạc. Trong các bộ luận của Phật giáo có đề cập đến nhiều         loại phiền não. Chẳng hạn trong 5 vị - 75 pháp của luận Câu Xá (Abhidharma         Kosa) do ngài Thế Thân viết vào đầu thế kỷ thứ V TL, có 6 đại         phiền não và 10 tiểu phiền não; Duy thức học, môn tâm thức         học của Phật giáo thời phát triển, đã triển khai thành 6 loại         phiền não chính và 20 loại tiểu tùy phiền não. Hẳn nhiên, đó         cũng chỉ là những con số mang tính chất tượng trưng. Có rất nhiều loại         phiền não và tùy thuộc vào tần số xuất hiện của chúng mà mức độ         thống khổ sẽ khác nhau.
Do vậy, hiện tượng vô thường không hẳn         là nguyên nhân của mọi khổ đau trong cuộc sống. Nguyên nhân của khổ nằm         trong nhận thức và thái độ sống tích cực hay tiêu cực của con người. Nhận         thức là thấy rõ và đánh giá về một sự kiện, còn thái độ sống         thuộc về hành vi và tâm lý chủ động của con người trước sự         kiện đó. Sự vật luôn luôn biến đổi vô thường mà chúng ta cứ         tưởng và mong ước chúng sẽ thường còn, tồn tại mãi mãi. "Cái khổ của         con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của kẻ trôi lăn trong lục đạo chưa         gọi là khổ. Ngu si không nhận thức được thực tại, không biết được         hướng đi mới thật là đau khổ" (Sa di luật giải, tr.103). Chính nhận thức         sai lạc, cho những gì vô thường là thường tại cho nên phát sinh mọi khổ         đau. Thế nhưng, vì sao khổ lại là một pháp ấn của chánh pháp?
Trong một lần, tại rừng Ta La song thọ ở         Kosambi (Kiều-thướng-di), Ðức Thế Tôn đã dạy các thầy Tỳ kheo về         lý do Ngài tuyên thuyết Bốn chân lý cao thượng (Tứ diệu         đế): "Này các thầy, Như Lai đã dạy các thầy những gì? Như Lai đã         dạy các thầy các sự thật về đau khổ, nguyên nhân đau khổ, đoạn         diệt đau khổ và con đường đi đến diệt khổ. Tại sao Như Lai dạy         các thầy các chân lý đó? Vì chúng thật sự có ích và cần thiết         để đi đến một đời sống lý tưởng, vì chúng làm cho các thầy         từ bỏ mọi dục lạc, giải thoát khỏi mọi say đắm, chấm dứt mọi         khổ đau, đi đến thanh tịnh, giác ngộ, Niết bàn" (Tương Ưng Bộ         kinh V, tr.437).
Như vậy, khổ đau chính là phát biểu         ngắn gọn của Tứ diệu đế trong giáo lý Tam pháp ấn và cần         được xem là một vấn đề thường trực trong thực tại cuộc đời và cả         trong ý thức của người Phật tử. Chúng ta chỉ có thể trị được         bệnh khi ý thức là chúng ta đang bệnh. Cũng vậy, giải thoát khổ         đau chỉ trở thành hiện thực khi người Phật tử biết ý thức và         thực nghiệm về khổ đau trong cuộc sống nội tại. Một khi không nhận         chân về chân tướng của cuộc đời và nuôi dưỡng ảo tưởng cuộc đời là         hạnh phúc, bị buộc ràng trong cuộc sống vật chất dễ dãi, chúng ta rất dễ         đánh mất đi mục đích tu tập của mình. Can đảm nhìn thẳng vào khổ đau         để giải quyết, đó là nhận thức căn bản. Như hoa sen được nuôi         dưỡng bằng đất bùn, lý tưởng giải thoát được nuôi dưỡng bằng nhận         thức căn bản ấy. Toàn bộ hệ tư tưởng, đạo học của Phật giáo cũng         được bắt nguồn từ nhận thức ấy. Có thể khẳng định không một kinh         điển nào trong đạo Phật không đề cập đến khổ và con đường đi         ra khỏi khổ đau. Chính vì vậy, khổ đau được xem là một khuôn dấu của         chánh pháp.
3)- Pháp ấn thứ ba: Vô ngã         (Anatma)
Vô ngã là giáo lý đặc biệt quan         trọng trong Phật giáo. Giáo lý này là hệ quả thẩm sát liên tục         các nguyên lý duyên khởi - vô thường. Vô thường là tính thay đổi trong         khi vô ngã là tính không đồng nhất. Khi một cái gì do nhân duyên mà thay         đổi thì nó không còn tính cách đồng nhất, do đó nó vô ngã, hay về         bản chất nó không có chủ thể riêng biệt. Ví dụ nói cái bàn là vô         thường là bởi vì chúng ta thấy rõ nó đang thay đổi, đang biến hoại dần         dần về hình thức; nhưng nói cái bàn là vô ngã thì chúng ta phải nhìn         bằng cái nhìn duyên khởi. Trong cái nhìn đó, cái bàn là một tập hợp của         các điều kiện nhân duyên, của cây gỗ, của công sức người thợ...         Nhiều hệ tư tưởng khác cũng đã đề cập đến ý niệm         vô thường. Chẳng hạn, khi đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước đang         trôi chảy, Ðức Khổng Tử đã viết: "Thệ giả như tư phù, bất xả         trú dạ?", nghĩa là "Trôi chảy hoài, ngày đêm không thôi, như         thế này ư?". Héraclite cũng nhìn tính vô thường qua dòng sông nhưng         với góc độ khác: "Bước xuống cùng một dòng sông, thường gặp phải         những dòng nước mới. Linh hồn cũng thoát ra từ nơi ẩm ướt" (Theo Triết         học Hy Lạp - La Mã, Viện KHXH TP HCM, 1994). Cả Nho gia và triết         học phương Tây nhìn chung tuy có ý niệm về tính vô thường,         nhưng dường như không có ý niệm về tính vô ngã trong vạn sự,         vạn vật. Do đó, có thể nói giáo lý vô ngã của Ðức Phật là một         giáo lý mang tính cách mạng rất vĩ đại. Ngay trong bài pháp thứ hai tại         vườn Nai, kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhana sutta), Ðức Phật đã dạy tính vô         ngã trong thân năm uẩn của con người: "Này các thầy, sắc (rùpa: thể         chất, thân thể vật lý) này là vô ngã. Này các thầy, nếu trong         sắc có ngã như vậy, sắc không phải chịu đau khổ và ta có thể ra         lệnh "sắc phải như thế này hay phải như thế kia". Nhưng         vì sắc không có ngã (vô ngã), nên sắc này còn phải chịu khổ đau và không         thể có trường hợp (ra lệnh) "sắc này phải như thế này hay         sắc phải như thế kia" (Tương Ưng Bộ kinh III, tr.66).
Các uẩn còn lại: thọ (cảm giác), tưởng         (tri giác), hành (các trạng thái tama lý và thái độ tâm lý), thức         (nhận thức) cũng tương tự. Cả năm uẩn tạo thành một ý niệm giả tạo         về một "cái ngã" hay một hữu thể chúng sanh đ??ng nhất,         không thay đổi. Từ đó rất dễ dàng sanh ra tâm lý tham đắm, mê say, ôm         âp, bảo thủ và chấp chặt vào những gì thuộc về năm uẩn (ngã sở).         Thế nhưng, mọi hữu thể hay ngã thể ấy luôn chuyển biến         theo quy trình tương quan duyên khởi. Sự sinh thành và hoại diệt trong hình         thể và ngay trong bản chất của năm uẩn là kết quả của các điều         kiện nhân duyên và quá trình sanh-già-bệnh-chết, hay hình         thành-tồn tại-thay đổi, hoại diệt-tiêu hủy, luôn là chân lý công         ước cho mọi con người và mọi loài, mọi vật. 
Một lần, tại thành Xá Vệ, Ðức Phật         cũng dạy các thầy Tỳ kheo về tính vô ngã trong một vật thể nhỏ bé         như miếng phân bò: "Này các thầy, cho đến một ngã thể nhỏ         như thế này cũng không thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu         sự biến hoại, vĩnh viễn thường hằng, thường trú. Nếu có một ngã         thể nhỏ như thế này, này các thầy, là thường còn, thường hằng...         thường trú, thì đời sống phạm hạnh để chơn chánh đoạn tận khổ đau         không thể trình bày (Tương Ưng Bộ kinh III, phẩm Hoa, tr.259). Sự thiếu         suy tư, cân nhắc trong hành vi đối với thực tại vô ngã của vạn sự, vạn vật         thường là nẻo đường dẫn đến các phiền lụy, tham ái - nguyên nhân         gần dẫn đến khổ đau. Pháp ấn vô ngã không những xác định tính pháp         định của chánh pháp mà còn là đặc tính riêng biệt trong giáo lý         đạo Phật. Chính vì tầm quan trọng này, vô ngã được xem là pháp ấn thứ         ba trong Tam pháp ấn.
III. Mối liên hệ         giữa Tam pháp ấn trong cơ chế tâm lý của người tu tập:
Ưu tư lớn nhất đối với người tu tập là         làm sao tìm được sự an tịnh nội tâm trong cuộc sống. Mọi phương pháp         hành trì (pháp môn tu tập) trong đạo Phật đều có định hướng đưa         người tu tập vượt khỏi bức màn vô minh, tham ái - nguồn gốc của khổ đau.         Vô minh và tham ái chính là cội rễ của mọi suy tư, hành vi thiên chấp.         Một khi thái độ sống của chúng ta bị nhuốm màu chấp thủ (bảo thủ ý         kiến và bị cột chặt trong tư tưởng nào đó), khi đó khổ đau có mặt.         Hai ý niệm mà con người thường bị lôi cuốn và bị buộc ràng là         "cái tôi" hay tự ngã và các quan điểm, lý thuyết, học         thuyết tư tưởng... Trong đạo Phật, sự chấp thủ hai đối tượng này         được gọi là ngã chấp và pháp chấp.
Ngã chấp là chấp chặt vào ý niệm         cho rằng mọi sinh thể trong đời đều có một bản chất đồng nhất         hay một "linh hồn" tồn tại mãi mãi. Trong khi đó, pháp chấp lại         thuộc về sự bảo thủ trong quan niệm, ý kiến và cho rằng chúng         luôn luôn đúng trong mọi trường hợp, với mọi con người khác nhau         trong các hoàn cảnh khác nhau. Chẳng hạn, trong kinh Brahman sutra của học         phái Védanta, một học phái ở Ấn Ðộ vào thời Ðức Phật, con người         được xem là thuộc về một cá ngã, và cá ngã ấy do Phạm Thiên (Brahman:         tương tự khái niệm Thượng đế của một số tín ngưỡng ngày nay) sanh         ra. Từ đó sinh ra ý niệm con người chỉ là một bộ phận của Phạm         Thiên, từ vô thỉ đến nay tuy khác hình tướng (nghĩa là mỗi người         sanh ra đều có dung mạo, hình dạng khác nhau) nhưng đồng nhất và bị an         bài trong hệ thống luân hồi. Do vậy, mục đích duy nhất trong đời sống ấy         chỉ là khoảng thời gian đi tìm lối ra khỏi luân hồi để tự giải thoát         và trở về hợp nhất với cội gốc cũ của mình là Phạm Thiên.
Các quan điểm và học thuyết ca         tụng, cổ xướng cho ý niệm "có một thực thể vô hình thường         còn mãi mãi trong mỗi hiện hữu" như vậy dường như hiện         diện trong hầu hết các tôn giáo cùng thời Ðức Phật và còn ảnh         hưởng khá đậm nét trong đời sống tinh thần của nhân loại ngày nay. Do vậy,         nền đạo học Phật giáo trên cơ sở Tam pháp ấn mang tính cách mạng         như trên thường tạo ra những mối ưu tư như: "Nếu con người luôn         biến đổi, vô thường, không có thật ngã thì ai tạo nghiệp, ai chịu         quả báo?", hay "Nếu không có ngã thì cái gì sanh tử luân hồi         trong các thú?"... (Theo Thành duy thức luận - HT Thích Thiện Siêu dịch         và chú, tr.38 & 39). Trong kinh Năm vị - Tương Ưng Bộ kinh III, Ðức Phật         đã dạy các thầy Tỳ kheo phương pháp quán niệm về bản chất thật sự         của thân năm uẩn trong khi tu tập trên cơ sở Tam pháp ấn như sau: 
"Này các thầy, các thầy nghĩ thế nào sắc... thọ... tưởng... hành... thức... là thường hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, là vô thường.
- Cái gì là vô thường là khổ hay là lạc?
- Bạch Thế Tôn, là khổ.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý không khi quán cái ấy là: cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Do vậy, này các thầy, thân năm uẩn này dù ở quá khứ, hiện tại, vị lai hoặc ở trong thân hay ở ngoài thân, thô hay tế, thắng hay liệt, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi".
Lời dạy trên chính là câu đáp trọn         vẹn và khái quát nhất cho tất cả mọi nghi vấn phát xuất từ ý thức         chấp thủ và bảo vệ tự ngã.
Tuy nhiên, cần hiểu vô thường, khổ và         vô ngã theo tinh thần của giáo lý duyên khởi. Trong đạo Phật, một giáo         pháp trùm chứa tất cả các giáo pháp khác, và tất cả giáo pháp sống nằm ở         trong tâm thức mỗi người. Ðó là tinh thần của các câu: "Nhất pháp         nhập nhất thiết pháp, nhất thiết pháp nhập nhất pháp" và         "Nhất thiết duy tâm tạo" trong kinh Hoa Nghiêm (quyển V, phẩm         Thiện Tài đồng tử sở vấn, tr.316 & 478). Do vậy, trong thực tại của         thế giới hiện tượng, vô thường cũng chính là vô ngã khi đứng         về phương diện thời gian để thẩm định. Và khổ đau thật sự         không phải nằm trên bình diện hiện tượng sanh tử, thành hoại của con         người và thế giới, mà phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của con         người đối với tính vô thường - vô ngã của vạn sự, vạn vật.
C- Kết luận
Nhận thức đúng hay có chánh kiến đối         với các hoạt động tâm-sinh-vật lý của bản thân là có cái nhìn thật rõ         về ba pháp ấn vô thường - khổ - vô ngã của năm uẩn. Chừng nào mọi         suy tư của con người còn bị buộc ràng trong các ý niệm về sự         thường trú vĩnh hằng của tự ngã và các pháp chấp sai lầm, khi đó Tam pháp         ấn vẫn còn giá trị và hiện hữu giữa cõi đời. Với người Phật tử, Tam         pháp ấn chính là ba chiếc chìa khóa để mở cánh cửa đi vào giải         thoát, là ba phương pháp quán niệm để chuyển hóa tự thân. Và vô         thường, khổ, vô ngã như đã trình bày cũng là các khuôn dấu, nguyên lý         y cứ để hiệu chỉnh, tái thẩm định mọi lý thuyết, ngôn         luận, pháp môn tu tập trong đạo Phật./.
* Chú thích:
(1) Sát na (Skrt: Kohana): một khoảng thời gian cực ngắn. Mỗi niệm tưởng thoáng qua trong tâm thức có 90 sát na.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn             ôn tập 
1- Ðịnh nghĩa và giải thích ngắn gọn             nội dung của Tam pháp ấn.
2- Học viên hiểu như thế nào lời             dạy của Ðức Phật trong Năm vị (Tương Ưng Bộ kinh III) về phương pháp             quán niệm của tự thân: "Cái này không phải là của tôi, cái này             không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi".
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét