Thiền chỉ
-ooOoo-
Chúng        ta muốn tạo nhiều việc thiện trong đời sống, nhưng thường        thường chúng ta không thể hành động, nói và suy nghĩ về những        việc thiện được. Những phiền não ngấm ngầm của chúng        ta đã che khuất chúng ta trong việc thực hiện thiện pháp.        Chúng ta học hỏi về Giáo pháp, thấy rằng có những        "triền cái" (Nìvarana) mà nó là những sở hữu        bất thiện phát sanh với những tâm bất thiện. Những triền        cái phát sanh nhiều lần trong đời sống thường nhật. Chúng        là:
Tham dục là sở hữu        tham. Tham đắm vào những cảnh mà chúng ta có thể biết qua căn        môn và ý môn. Tất cả chúng ta có tham dục ở những hình thức        và cấp bực khác nhau. Bởi vì sự phát triển kinh tế và những        phát minh khoa học kỷ thuật nên có nhiều sự thịnh vượng        trong đời sống. Người ta có khả năng làm nhiều điều mà        nó đưa đẩy đời sống hạnh phúc và tiện lợi hơn. Tuy nhiên        điều này không mang lại sự toại nguyện; trái lại chúng ta        đau khổ với những điều mà chúng ta có và mãi mãi chúng ta        tìm kiếm sự an vui và hạnh phúc hơn. Tham dục với hành động,        lời nói, suy nghĩ của chúng ta. Ngay khi chúng ta suy nghĩ rằng        chúng ta tạo những việc lành và giúp đỡ cho những người        khác, tham dục có thể phát sanh. Tham dục khiến chúng ta lo lắng        và không được an vui.
Sân hận là sở hữu        sân. Sân hận có thể làm phiền nhiễu chúng ta nhiều lần        trong một ngày; chúng ta cảm thấy bực bội về người khác        và hoặc những điều xảy ra trong đời sống. Sân hận ngăn        cản chúng ta không làm thiện pháp. Khi có sân hận chúng ta        không có tâm từ đối với những người khác.
Hôn trầm và thụy miên        khiến chúng ta thiếu nỗ lực về thiện pháp. Thanh tịnh        đạo (XIV, 167) có dạy trong kinh này liên quan đến việc hôn        trầm và thụy miên:
Ở đây, hôn trầm có đặc tính là thiếu năng lực điều động. Nhiệm vụ của nó là lấy hết nghị lực. Nó được biểu hiện là sự hạ thấp. Thụy miên có đặc tính là không kham nhậm. Nhiệm vụ của nó là bóp nghẹt. Nó được biểu hiện bằng sự lười biếng, ngũ gà ngũ gật. Nhân gần của nó là không như lý tác ý đối với sự buồn chán uể oải .v. v.
Trong một ngày, tất cả        chúng ta không có lúc nào có sự lười biếng và thiếu năng        lực để tạo việc thiện sao? Ví dụ khi chúng ta nghe thuyết        pháp hay xem kinh điển, chúng ta có nhiều cơ hội cho tâm thiện        phát sanh. Thay vì chúng ta có thể cảm thấy buồn chán và thiếu        năng lực làm việc thiện. Ðiều đó có thể xảy ra khi        chúng ta gặp một người nào mà họ cần sự giúp đỡ của        chúng ta, nhưng chúng ta lười và không cử động. Nhiều lần        chúng ta bị hôn trầm và thụy miên làm cản trở. Hôn trầm        và thụy miên sai khiến tâm khó kham nhậm.[1]
Trạo cử và hối quá.        Trạo cử phát sanh với tất cả tâm bất thiện. Nó làm ngăn        chận tâm thiện. Ðối với hối quá, Thanh tịnh đạo        (XIV, 174) có nói như sau:
... Nó có đặc tính là hối hận khi làm điều gì. Nhiệm vụ nó là buồn bã về những gì đã làm và những gì chưa làm.Nó được biểu hiện bằng sự cắn rứt lương tâm. Nhân gần của nó là điều đã làm và đã không làm. Nó cần được xem như là tình trạng nô lệ.
Khi chúng ta đã làm điều        gì sai trái hoặc chúng ta đã không thực hiện những hành động        thiện mà chúng ta cần phải làm, chúng ta có thể suy nghĩ về        điều này nhiều lần. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao mình        đã hành động theo đường hướng mình đã làm, nhưng chúng        ta không thay đổi điều gì đã qua rồi. Trong khi chúng ta lo        âu, chúng ta có những tâm bất thiện; lo âu sai khiến chúng        ta làm nô lệ. Trạo cử và hối quá làm ngăn chận sự thanh        tịnh của chúng ta.
Ðối với hoài nghi thì        có nhiều loại. Người ta có thể hoài nghi về Ðức Phật,        Giáo pháp và Tăng già, hoặc hoài nghi về Bát chánh đạo. Hoài        nghi là tâm bất thiện và là một sự chướng ngại cho việc        thực hành thiện pháp.
Tất cả những triền        cái là những vật chướng ngại đối với việc thực hành        thiện pháp. Có phương pháp nào để đoạn trừ chúng không?        Thiền Chỉ là một phương pháp để đoạn trừ những triền        cái tạm thời. An tịnh được phát triển theo thiền Chỉ là        phải có an tịnh thiện, nó không phát sanh với tâm bất thiện.        Có một mức độ an tịnh cùng với mỗi tâm thiện, nhưng để        biết đặc tính của an tịnh rõ ràng thì thật là khó khăn,        bởi vì chúng ta bị những tâm bất thiện trói buộc ngay khoảnh        khắc sau tâm thiện. Trí tuệ thì cần thiết để phát huy sự        an tịnh giải thoát tạm thời khỏi những triền cái. Nếu        đơn thuần người ta cố gắng tập trung vào một đề mục        thiền định mà không có sự hiểu biết đúng đắn về thiện        và bất thiện và về đặc tính an tịnh thì an tịnh không thể        phát triển. Trí tuệ của mức độ thiền chỉ thì không có        đoạn trừ những phiền não, nhưng nó nhận biết được đặc        tính an tịnh và nó biết làm sao nó có thể tu tập được nhờ        đề mục Thiền Ðịnh thích hợp. Tâm bất thiện có thể        phát sanh nhiều lần, ngay khi người ta cố gắng tu tập Thiền        Chỉ. Người ta dính mắc vào sự an tịnh và sau đó người        ta có những tâm bất thiện thay vì sự an tịnh của Thiền Chỉ.        Hay là người ta có thể nghĩ rằng khi không có thọ lạc hoặc        thọ bất lạc mà thọ xả là sự an tịnh. Tuy nhiên. Thọ xả        có thể phát sanh với tâm thiện cũng như với tâm bất thiện;        tâm tham căn có thể câu hành với thọ xả và tâm si căn thì        luôn luôn câu hành với thọ xả. Do đó khi chúng ta có thọ xả        thì điều đó dường như chúng ta có sự an tịnh, nhưng điều        đó thì không cần thiết cho sự an tịnh thiện của thiền chỉ.        Trí tuệ của Thiền Chỉ phải được nhạy bén để có thể        nhận biết ngay khi những phiền não vi tế phát sanh.
Chúng ta xem trong nhiều        kinh điển thấy rằng người ta có thể đắc thiền nếu họ        tu tập những điều kiện đúng đắn. Trước khi Ðức Phật        giác ngộ thiền là hình thức cao cả của người thiện có        thể họ tu tập thành đạt được. Ðôi khi thiền định được        dịch là an chỉ tịnh [2], nó là một mức độ        cao lớn của sự an tịnh. Ở thời điểm tâm thiền người        ta giải thoát khỏi những cảm xúc giác quan và những phiền        não chúng đã trói buộc chúng ta. Việc chứng đắc thiền định        thì cực ký khó khăn, không phải ai tự mình áp dụng thiền        chỉ mà có thể chứng đắc thiền định được. Tuy nhiên,        thậm chí nếu người không có chú tâm tu tập thiền định có        thể có những điều kiện cho những khoảnh khắc của sự an        tịnh trong đời sống hằng ngày; nhưng phải có sự hiểu biết        đúng đắn về đặc tính của sự an tịnh và phương pháp        đ? phát huy nó.
Khi tự mình áp dụng Thiền        Chỉ, người ta phải tu tập 5 sở hữu tâm mà nó có thể đoạn        trừ những triền cái; chúng là những chi thiền. Chi thiền thứ        nhất là tầm (Vitakka). Tầm là một sở hữu tâm mà nó        phát sanh với nhiều loại tâm, nó có thể phát sanh với tâm        thiện cũng như tâm bất thiện. Loại tầm thiện được tu tập        trong thiền chỉ là một trong những chi thiền. Thanh tịnh        đạo (IV,88) có đề cập liên quan đến tầm:
...Ở đây, tầm có nghĩa là đánh mạnh vào. Nó có đặc tính là hướng tâm trên đối tượng. Nhiệm vụ nó là đánh vào hành giả. Thể hiện của tầm là dẫn tâm đến một đối tượng ...
Khi tầm là một chi thiền,        nó đối trị hôn trầm và Thụy miên. Trong khi tập trung vào        đề mục thiền định tầm giúp chúng ta đề nén hôn trầm        và thụy miên tạm thời.[3]
Chi thiền khác là Tứ (Vicàra),        sở hữu tâm này phát sanh với những loại tâm khác nhau, nhưng        khi nó được phát huy trong Thiền Chỉ, nó là một chi thiền.        Thanh tịnh đạo (IV, 88) có nói liên quan với tứ:
...Tứ có nghĩa là liên tục suy tư, có đặc tính là liên tục nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ của nó là khiến cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Nó được biểu hiện sự duy trì tâm liên tục trên đối tượng.
Trong Thiền Chỉ, tứ duy        trì tâm liên tục trong đề mục thiền định. Khi chúng ta        liên tục suy tư về những đề mục thiện như ân Ðức Phật        hoặc giáo pháp thì không có hoài nghi. Tứ giúp chúng ta đè        nén hoài nghi.
Chi thiền nữa là hỷ (Pìti).        Hỷ cũng có thể phát sanh với tâm tham căn và như vậy nó        là sở hữu bất thiện. Loại hỷ thiện phát sanh với tâm        thiện mà được phát huy trong Thiền Chỉ là một chi thiền. Thanh        Tịnh đạo (IV, 94) có đề cập liên quan vơí hỷ:
...Hỷ là sự mát mẽ. Nó có đặc tính là ưa thích. Nhiệm vụ của nó là thấm nhuần (cả mình rởn óc). Nó được biểu hiện như là sự hoan hỷ cao độ. Nhưng hỷ có 5 loại như là tiểu hỷ, sát na hỷ, hải triều hỷ, khinh hỷ và sung mãn hỷ.
Theo Thanh Tịnh đạo        (IV,99) sung mãn hỷ trong chi thiền hỷ thì có "nguồn gốc        an chỉ định". Khi hỷ được tu tập trong thiền chỉ thì        nó đè nén Triền Cái sân hận. Tuy nhiên, trí tuệ sắc sảo        thì cần thiết để nhận biết có hỷ bất thiện phát sanh với        tham hoặc hỷ thiện không. Ngay khi người ta suy nghĩ rằng có        sự nhiệt tâm thiện pháp về đề mục thiền thì có thể bị        dính mắc. Chi thiền hỷ là chú tâm vào đề mục thiền mà        không có sự dính mắc. Hỷ thiện là hoan hỷ với Tam bảo hoặc        đề mục thiền khác, nó sẽ làm cho tâm mát mẻ và không có        sự bực bội, buồn chán đối với thiện pháp.
Chi thiền nữa là Lạc.        Chi thiền này không phải thân thọ lạc, nhưng nó là tâm thọ        lạc hoặc hỷ. Lạc được tu tập trong thiền chỉ là cảm        thọ lạc về một đề mục thiền định. Tuy nhiên như chúng        ta biết, cảm thọ lạc cũng phát sanh với tâm tham. Trí tuệ        nhận biết rõ ràng khi cảm thọ lạc là thiện hoặc là bất        thiện. Chi thiền Lạc thiện đè nén các triền cái trạo cử        và hối quá. Khi có cảm thọ lạc thiện về một đề mục        thiền định thì không có trạo cử và hối quá.
Hỷ và lạc thì không giống        nhau. Lạc là thọ hỷ (Tam Thọ). Hỷ đôi khi cũng là lạc,        Tam Thọ nó không phải là cảm thọ, không phải là thọ uẩn,        nhưng nó là hành uẩn (Hành Uẩn là tất cả sở hữu tâm trừ        thọ và tưởng [4]. Khi nghiên cứu các bản dịch        tiếng Anh, chúng ta phải nhận ra ngữ cảnh sở hữu tâm là        mát mẻ đối với hỷ hay là lạc.
       Thanh Tịnh đạo        (IV, 100) có giải thích về liên quan khác nhau giữa hỷ và lạc        như sau:
Và bất cứ lúc nào hỷ lạc được liên kết, hỷ có nghĩa là hài lòng vì đạt được điều ao ước, và lạc là kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được. Ở đâu có hỷ ở đó có lạc; nhưng có lạc không cần thiết phải có hỷ. Hỷ được bao gồm trong hành uẩn; lạc thuộc về thọ uẩn. Một người kiệt sức trên sa mạc thấy hoặc nghe một hồ nước trong bìa rừng, người ấy sẽ có hỷ; nếu người ấy đi vào trong bóng mát uống nước, người ấy sẽ có lạc...
Ðịnh chi thiền là sở        hữu nhất hành tâm. Sở hữu này phát sanh với tất cả tâm        và chức năng của nó là tập trung vào một đề mục. Mỗi tâm        chỉ có thể biết một cảnh và sở hữu nhất hành tâm tập        trung vào cảnh đó. Sở hữu nhất hành tâm hay định có thể        là thiện cũng có thể là bất thiện. Ðịnh khi người ta tu        tập trong thiền chỉ là định thiện trên một đề mục thiền        định. Song song với định phải có chánh kiến để nhận biết        rõ ràng khi tâm nào là thiện và tâm nào là bất thiện và biết        phương pháp tu tập an tịnh, nếu không chánh định của thiền        chỉ sẽ không phát triển. Nếu người ta hết sức cố gắng        tập trung nhưng thiếu chánh kiến thì có thể dính mắc vào sự        cố gắng của mình để đạt được sự tập trung, nhưng nếu        họ không đạt được sự tập trung thì sân hận có thể        phát sanh. Như thế an tịnh không thể phát triển. Nếu chúng        ta có chánh kiến thì sẽ có những điều kiện cho Ðịnh        phát triển. Thanh Tịnh đạo (XIV, 139) có đề cập đến        định:
Nó đặt tâm một cách bình thản trên đối tượng, hay nó đặt tâm một cách chân chánh trên đối tượng, hoặc nó chỉ là sự tập trung của tâm, như vậy gọi là Ðịnh. Ðặc tính của nó là không lang thang, không phân tán. Chức năng của nó là hòa hợp các pháp câu sanh giống như nước hòa bột tắm. Nó được biểu hiện như sự an lạc. Thông thường nhân gần của nó là lạc. Ðịnh cần được hiểu là sự vững chải của tâm, như sự vững chải của ngọn đèn khi không có gió lay động.
Ðịnh đè nén Tham dục.        Khi có Chánh Ðịnh trên một đề mục Thiền thiện, vào thời        điểm đó người ta không bị chướng ngại do tham dục.
Tóm tắt 5 chi thiền, những        chi thiền này cần thiết cho việc chứng đắc tầng thiền thứ        nhất, chúng là:
Tầm
Tứ
Hỷ
Lạc
Ðịnh
Chú giải bộ Pháp Tụ        (tập I, phần V, chương I, 165) có đề cập liên quan những        chi thiền mà nó đè nén các triền cái:
... Bởi vì người ta nói rằng các Triền Cái thì đối nghịch với những chi thiền, nó thì thù địch, xua đuổi, và làm mất các chi thiền. Cũng như nó được người ta giải thích trong bộ "Petakopadesa" định thì đối trị tham dục, hỷ thì đối trị với sân, tầm thì đối trị với hôn trầm và thụy miên, lạc thì đối trị với trạo cử và hối quá, tứ thì đối trị với hoài nghi...
Những chi Thiền phải        được tu tập để đọan trừ những Triền Cái tạm thời.        Ðối với người muốn tu tập những chi thiền và thành đạt        nó thì đòi hỏi cần phải có nhiều sự chuẩn bị. Chúng ta        xem trong Thanh Tịnh đạo (II, 1 và III, 1) người muốn tu        tập thiền chỉ phải trau giồi giới hạnh cho được tốt đẹp        và thanh tịnh vì những đặc tính như vậy sẽ làm thiểu dục,        tri túc, viễn ly, độc cư, ở những trú xứ vắng, tinh cần        và ít nhu cầu. Giới sẽ trở nên hòan tòan thanh tịnh (như        được miêu tả trong chương II của Thanh Tịnh đạo) hầu        hết nó được thích hợp cho các thầy Tỳ khưu liên quan với        việc sử dụng y phục, vật thực và trú xứ.
Vào thời của Ðức Phật,        người tại gia cư sĩ cũng có thể đắc được thiền, nếu        họ huân tập thói quen và những khả năng để phát huy nó        và nếu đời sống của họ thích hợp cho việc tu tập [5].        Ðời sống cách ly và những điều kiện thì người ta phải        có đầy đủ. Tham dục là kẻ thù của thiền định. Người        ta hoàn toàn phải ly dục để chứng đắc thiền, như chúng        ta xem trong nhiều kinh điển. [6]
       Thanh Tịnh đạo        (IV, 81) giải thích rằng tham dục là kẻ thù của thiền định.        Việc tu tập thiền định không phải dành cho mọi người.        Thiền định không thể đạt được nếu họ còn "đời        sống thế tục" và nhiều tham dục, thay vì họ phải có        đời sống thiểu dục, ở những trú xứ xa vắng, ít nhu cầu.
       Thanh Tịnh đạo        (III, 129) nói rằng chúng ta nên tách rời công việc nào có thể        làm cản trở sự phát triển thiền định. Ví dụ, những sự        cản trở là đi du lịch, bệnh hoạn và những nơi mà chúng        ta sống có thể bị cản trở. Chúng ta nên tránh xa đời sống        trong các tu viện ồn ào ...có nghĩa là 18 hạng mục chùa chiền:        bị hư sập, chùa sửa chữa, chùa cúng tế hoạt động ồn        ào, chùa gần biên giới...mà trong Mi Tiên vấn đáp có giải        rõ, vì những lý do khác nhau có thể không thích hợp để phát        huy thiền định. Như vậy trước khi chúng ta tu tập thiền chỉ,        chúng ta phải có đầy đủ những điều kiện cần yếu.
Ðối với việc tu tập        thiền chỉ, người ta phải tự mình áp dụng một đề mục        thiền định thích hợp. Có 40 đề mục thiền chỉ mà chúng        có thể làm duyên cho sự an tịnh. 40 đề mục gồm có như        sau:
- 10 đề mục biến xứ (Kasina), ví dụ đề mục màu sắc, đề mục đất hoặc là ánh sáng.
- 10 đề mục tử thi (Asubha)
- 10 đề mục niệm, gồm có niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Bố thí, Chư Thiên, niệm sự Chết, niệm Thân, niệm Hơi thở và niệm Níp bàn.
- 1 đề mục niệm tưởng vật thực ô trược.
- 1 đề mục phân tích tứ đại
- 4 đề mục phạm trú (Brahmavihàra): từ, bi, hỷ, xả
- 4 đề mục thiền vô sắc giới.
Không phải tất cả những        đề mục trên đều thích hợp cho mọi người, nó tùy thuộc        vào cá tính mà đề mục là phương tiện cho chúng ta tu tập        an tịnh. Nếu có sự hiểu biết chân chánh về đề mục tu tập        thì tâm chúng ta trở nên dễ dàng an tịnh nhờ những đề mục        thiền thích hợp, ngay trong đời sống hằng ngày an tịnh có        thể tiến triển. Ví dụ tâm từ và tâm bi, chúng ta phải tu        tập trong đời sống hằng ngày, khi chúng ta giao thiệp với        những người khác, chúng ta nên có những tâm thiện thay vì        những tâm bất thiện. Niệm pháp thì lợi ích cho mọi người;        nó giúp chúng ta hiểu biết về cuộc đời. Trong khi chúng ta        suy niệm giáo pháp với tâm thiện hoặc suy niệm về một        trong những đề mục thiền định khác, thì chúng ta có thể        có những khoảnh khắc an tịnh nếu chúng ta không dính mắc        nó.
Theo Thanh Tịnh đạo        đã giải thích, làm thế nào người ta có thể phát huy những        mức độ an tịnh cao hơn bằng đề mục thiền định. Ðiều        đó được giải thích (Thanh Tịnh đạo III, 119) là đề        mục thiền định được tu tập bằng mắt thấy, bằng thân        đụng chạm và bằng tai nghe thì tùy thuộc vào bản chất của        đề mục thiền định. Ðối với những đề mục được tu        tập bằng mắt thấy (ví như đề mục màu sắc và đề mục        tử thi), Thanh Tịnh đạo (IV, 31) dạy rằng bắt đầu tụ        tâp người ta phải nhìn chăm chú vào đề mục thiền và sau        đó người ta quen dần và chỉ tưởng tượng thôi; người ta        không cần nhìn đề mục ban đầu nữa. Ðầu tiên sự tưởng        tượng vẫn chưa vững chắc và chưa rõ ràng, nhưng sau đó        nó xuất hiện "hàng trăm lần, hàng ngàn lần trong sạch        hơn..." Ví dụ đề mục ban đầu, đề mục màu sắc hay        đề mục đất có thể có nhiều thiếu sót, nhưng sự tưởng        tượng hoàn hảo thì cần thiết khi người ta tiến bộ cao        hơn, khi người mới bắt đầu tu tập phải thực hiện đề        mục ban đầu cho thuần thục. Sự tưởng tượng hoàn hảo        này được người ta gọi là quang tướng (Patibhàganimitta).
Ở khoảnh khắc quang tướng        xuất hiện sẽ có những mức độ an tịnh cao hơn và định        tâm được phát huy nhiều hơn. Ở giai đoạn này được gọi        là cận hành định (Upacàrasamàdhi). Tâm này không phải        là tâm thiền, nó vẫn còn là tâm dục giới, nhưng những triền        cái không có phát sanh ở thời điểm cận hành định. Tuy nhiên        những chi thiền chưa được phát huy đầy đủ để chứng đắc        thiền, và hơn nữa vẫn có những điều kiện khác cần thiết        để đắc chứng. Người ta phải duy trì sự tưởng tượng        để không làm mất sự tưởng tượng hoàn hảo mà người ta        đã tu tập. Cận hành định thì rất khó để thành đạt        được, nhưng cũng rất khó khăn để duy trì sự tưởng tượng        cho việc đắc chứng thiền. Những điều kiện duy trì sự tưởng        tượng là: những người, trú xứ tốt, vật thực ngon và        không nghe những lời nói vô ích. Chúng ta nên quân bình 5 căn        chúng là những sở hữu như sau:
Tín
Tấn
Niệm
Ðịnh
Tuệ
Ðức tin phải được quân        bình với trí tuệ để chúng ta không có tin một cách mù        quáng và thiếu căn cứ. Ðịnh phải quân bình với tinh tấn,        vì nếu có định mà không có đủ tinh tấn thì chúng ta sẽ        trở nên lười biếng và thiền không thể chứng đắc được.        Nếu có quá nhiều tinh tấn và thiếu định thì tâm chúng ta        trở nên phóng túng và như vậy chúng ta không thể đắc thiền.        Tất cả 5 căn phải được quân bình.
Từ những ví dụ điển        hình trên chúng ta thấy rằng thiền chỉ không thể nào tu tập        mà không có sự hiểu biết cơ bản và suy xét chu đáo về những        pháp chân đế đã dạy trong Vi diệu pháp. Chúng ta nên biết        rành mạch khi nào là tâm thiện và khi nào là tâm bất thiện.        Chúng ta nên biết những pháp chân đế nào là những chi thiền        và chúng ta phải nhận thức rằng đối với chính chúng ta những        chi thiền có được tu tập hay không. Chúng ta nên nhận biết        những sở hữu tâm là 5 căn có được tu tập hay không,        chúng có được quân bình hay không. Nếu chúng ta không có sự        hiểu biết đúng đắn về tất cả những yếu tố khác nhau        này và những điều kiện cần thiết cho sự chứng đắc cận        hành định và thiền, điều nguy hiểm là chúng ta cho cận        hành định không phải là cận hành định và cho thiền không        phải là thiền. Không có cận hành định mà cũng không có        thiền nào có thể đạt được mà không có sự tu tập những        điều kiện chánh yếu ở trên.
Không phải tất cả những        đề mục thiền nào cũng dẫn đến thiền được, theo kết        quả được biết chỉ có một số đề mục dẫn đến cận        hành định như niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng. Một số        đề mục thiền chỉ đưa đến sơ thiền [7], một số nữa        thì dẫn đến tất cả những tầng thiền sắc giới. Ðề mục        niệm hơi thở có thể đưa đến tất cả những tầng        thiền sắc giới. Ðề mục thiền này nhiều người cho rằng        tương đối dễ, nhưng nó có một ít khó khăn. Người ta phải        chú ý hơi thở vào và hơi thở ra để ý hơi thở ở chót mũi        hay môi trên. Ðề mục thiền này không được tu tập do thấy        mà tu tập do để ý hơi thở: thở vào thở ra là ấn chứng        (Nimitta) người ta phải liên tục chú tâm. Chúng ta xem Thanh        Tịnh đạo (VIII.208):
Vì trong khi những đề mục thiền định khác trở nên sáng sủa hơn ở mỗi giai đoạn cao hơn, thì đề mục thiền này lại không như thế: trong thực tế khi hành giả tiếp tục tu tập đề mục này nó trở nên mỗi lúc một vi tế hơn đối với vị ấy ở mỗi một giai đoạn cao hơn, và thậm chí đến nỗi đạt đến một điểm nó không còn hiện rõ nữa.
Chúng ta xem thêm (VIII,        221):
Mặc dù bất cứ đề mục thiền nào cũng chỉ thành công nếu hành giả có chánh niệm và tỉnh giác, nhưng đề mục nào cũng trở nên càng ngày rõ rệt hơn khi hành giả tiếp tục tác ý đến nó. Còn pháp niệm hơi thở này thì khó, thật khó để tu tập. Ðó là một địa hạt mà chỉ có tâm của chư Phật, Chư Phật Ðộc giác [8] và Thinh văn giác. Ðó không phải là chuyện tầm thường mà những người tầm thường không thể tu tập được. Càng chú ý đến nó thì càng trở nên an tịnh và vi tế hơn nữa. Bởi thế ở đây cần có niệm và tuệ tăng thịnh.
Pháp niệm hơi thở thì        khó nhất, "điều đó không phải là vấn đề tầm thường"        như Thanh Tịnh đạo nói. Ðức Phật và những Ðại đệ        tử của ngài có nhiều trí tuệ và những đức tính tuyệt vời        khác và như vậy đối với các ngài đó là lãnh vực trong        tâm đã quen thuộc.
Khi chúng ta liên tục niệm        hơi thở, thở vào và thở ra càng trở nên vi tế hơn và như        vậy càng khó chú tâm hơn. Chúng ta vừa xem trong đoạn trích        dẫn thấy rằng, chánh niệm và trí tuệ mạnh mẽ ở đây        thì cần thiết. Không những ở trong thiền quán mà còn ở        trong thiền chỉ, chánh niệm và trí tuệ thì cần thiết, nhưng        trong thiền chỉ đối tượng chú tâm thì khác biệt với đối        tượng chú tâm trong thiền quán. Trong thiền chỉ đối tượng        chú tâm là 1 trong 40 đề mục và mục đích của nó là phát        huy an tịnh. Trong thiền quán, đối tượng chú tâm là danh hoặc        sắc xuất hiện ở thời điểm hiện tại xuyên qua một trong        sáu môn và mục đích của nó là đọan trừ ngã kiến và cuối        cùng đọan trừ tất cả những phiền não. Qua thiền chỉ những        phiền não có thể đọan trừ tạm thời, nhưng những phiền        não ngủ ngầm thì chưa đoạn trừ; khi có những cơ hội cho        tâm bất thiện thì chúng lại phát sanh. Chúng ta xem trong Tăng        Chi Bộ Kinh (pháp 6 chi. chươngVI, §6 Citta hatthi sàriputta)        thậm chí vị Tỳ khưu chứng đắc thiền có thể hoàn tục.        Chúng ta xem thấy rằng khi Ðức Phật đang ngự gần Baranasì,        trong rừng nai, ở Isipatana, các trưởng lão đang đàm luận        về thắng pháp. Tôn giả Citta Hatthisàriputta chen lời        các vị trưởng lão. Tôn giả Mahàkotthita nói với vị        đó:
"Tôn giả Citta hatthisàriputta, trong khi các Tỳ khưu trưởng lão đang thuyết về thắng pháp, chớ có nói chen vào chặn giữa; tôn giả Citta hãy chờ cho đến cuối câu chuyện."Khi được nghe nói như vậy, các Tỳ khưu bạn bè của tôn giả Citta nói: "Tôn giả Mahàkotthita chớ có bất mãn tôn giả Citta Hatthisariputta. Tôn giả Citta là bậc hiền trí và có thể nói chuyện về thắng pháp với các Tỳ khưu trưởng lão."Thật là khó lòng, các hiền giả biết được tâm tư của người khác. Thưa các hiền giả, có hạng người khi còn sống gần vị bổn sư hay sống gần vị đồng phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, trong khi ấy, là người nhu hòa nhất trong những người nhu hòa, là người khiêm tốn nhất trong những người khiêm tốn, là người an tịnh nhất trong những người an tịnh; và khi người ấy rời khỏi bậc đạo sư, rời khỏi các vị đồng phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, vị ấy sống giao thiệp với các Tỳ khưu, các Tỳ khưu ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, với các đại thần của vua, với các ngọai đạo, với các đệ tử ngoại đạo. Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, tham ái tấn công vị ấy; và vị ấy do tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục..."Ví như có hạng người ly dục...chứng và trú sơ thiền.Với suy nghĩ "ta đã được sơ thiền", vị ấy sống giao thiệp. . .do sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, tham ái tấn công vị ấy.Vị ấy với tâm bị tham ái tấn công liền từ bỏ học pháp và hoàn tục..."
Về những tầng thiền        khác, người ta cũng nói tương tự như vậy. Sau đó chúng ta        xem thấy rằng tôn giả Citta Hatthisàriputta từ bỏ học        pháp và hoàn tục. Nhưng không bao lâu sau, vị ấy trở thành        vị Tỳ khưu. Chúng ta xem:
Và tôn giả Citta Hatthisàriputta sống một mình, độc cư, nhiệt tâm, tinh cần, không phóng dật, không bao lâu sau đó, tôn giả đã thành tụ đời sống phạm hạnh –vị ấy ngay trong hiện tại đã tự mình thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú; vị ấy biết rõ rằng: "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."Và tôn giả Citta Hatthisàriputta trở thành một vị A La Hán.
Cho dù chúng ta đạt đến        tầng thiền cao nhất, tâm của chúng ta vẫn còn có thể bị        tham ái chi phối, như chúng ta xem trong kinh điển. Khi tôn giả        Citta Hatthisàriputta đã đắc chứng A La Hán, ngài đã thực        chứng được 'đời sống phạm hạnh'. Những triền cái        không còn phát sanh trở lại nữa.
Xuyên qua Thiền quán, những        triền cái được đoạn trừ trong những giai đoạn giác ngộ.        Bậc Tu Ðà hườn đã đoạn trừ triền cái hoài nghi; bậc A        Na Hàm đã đoạn trừ triền cái tham dục, sân hận và hối        quá; bậc A La Hán đã đoạn trừ hôn trầm thụy miên và trạo        cử, vị ấy đã đoạn trừ tất cả những phiền não.
CÂU HỎI:
1/- Pháp chân đế nào là những chi thiền?
2/- Uẩn nào là hỷ chi thiền?
3/- Uẩn nào là lạc chi thiền?
4/- Khi thấy có sở hữu Nhất Hành Tâm không? Chức năng của nó là gì?
5/- Chức năng của sở hữu nhất hành tâm phát sanh với tâm thiền là gì? Ðối tượng của nó là gì?
6/- Tại sao niệm hơi thở là một trong những đề mục thiền định khó nhất?
7/- Sự khác biệt giữa chánh niệm trong thiền chỉ và chánh niệm trong thiền quán là gì? Những đề mục chú niệm thích hợp của chúng là gì?
8/- Nếu chúng ta tu tập thiền tập thiền chỉ mà không tu tập thiền quán, tại sao các triền cái không được đọan trừ?
Chú thích:
[1] Xem Thanh tịnh đạo        IV, 105, những triền cái được ám chỉ là những điều trở        ngại cho thiền định.
[2] Trong nhiều kinh điển        chúng ta cũng bắt gặp những bản dịch về thiền định (Jhàna)        như là "xuất thần" hoặc là "đăm chiêu".        Tuy nhiên sự xuất thần dẫn đến sự tương quan sai lầm về        mặt ý nghĩa.
[3] Xem chú giải bộ        Pháp Tụ, phần V, chương I, 165
[4] Xem chương 2.
[5] Ðiển hình mẹ của Nanda,        chúng ta xem trong Tăng Chi Bộ Kinh tập 7. Chương V, §10.
[6] Ví dụ trong Trung Bộ        Kinh I, số 21, Kinh Sợ Hải và Khiếp Ðảm.
[7] Cả hai thiền sắc giới        và vô sắc giới được người ta tu tập ở những tầng thiền        khác nhau. Thiền vô sắc giới thì tinh tế hơn thiền sắc giới.
[8] Ðộc giác Phật là        ngài giác ngộ mà không có sự trợ giúp của một vị thầy        nào, nhưng ngài không có tích lũy trí tuệ và những đặc tính        tuyệt vời khác, trong phạm vi mà ngài có thể dạy đạo cho        những người khác là Bát chánh đạo.
-ooOoo-
Những Tâm Thiền
-ooOoo-
Có nhiều        tâm phát sanh trong đời sống hằng mà nó biết cảnh qua năm        căn môn và qua ý môn. Cả hai tiến trình tâm căn môn và ý        môn có những tâm đổng lực là tâm thiện hoặc tâm bất thiện        trong trường hợp không phải là vị A La Hán. Tâm đổng lực        hầu hết là tâm bất thiện bởi vì chúng ta dính mắc vào tất        cả các cảnh được biết qua các căn môn và ý môn. Chúng ta        dính mắc vào cảnh sắc và nhãn thức, âm thanh và nhĩ thức,        đối với tất cả các cảnh chúng ta cảm nhận. Chúng ta        dính mắc vào đời sống, chúng ta muốn tiếp tục sống và cảm        nhận những cảm xúc giác quan. Chúng ta không chú ý rằng sau        khi thấy hoặc nghe có sự dính mắc, đặc biệt là khi chúng        ta cảm thấy buồn phiền về điều mình thấy hoặc nghe. Nhưng        có lẽ có tâm tham căn với thọ xả. Cả hai tiến trình căn        môn và ý môn có lẽ có nhiều khoảnh khắc dính mắc trôi        qua mà chúng ta không chú ý. Nhiều lần cảnh được nhận biết        qua một trong các căn môn và sau đó qua ý môn cũng có những        tiến trình tâm ý môn mà chúng suy nghĩ về những khái niệm        ví như con người, thú vật hoặc các pháp. Dính mắc vào những        khái niệm có lẽ chúng thường phát sanh và như vậy chúng ta        suy nghĩ hầu hết thời gian với tâm bất thiện. Khi chúng ta        không thực hiện bố thí, trì giới, hoặc tham thiền, suy nghĩ        những điều đã làm với tâm bất thiện. Thậm chí ngay khi        chúng ta thực hành những hành động thiện có những tâm bất        thiện chi phối trong giây lát sau tâm thiện, vì nhiều lần        có nhãn thức và nhĩ thức, và sau khi có nhãn thức và nhĩ thức        thì tham ái hoặc sân hận do những điều mà chúng ta thấy        có thể phát sanh. Tâm biết cảnh trần là tâm thiện và tâm        bất thiện phát sanh trong đời sống hằng ngày, chúng được        gọi là tâm dục giới.
Vì biết cảnh trần những        phiền não ngủ ngầm phát sanh, do đó người trí sống thời        Ðức Phật, họ thấy những sự nguy hiểm của những cảm        xúc giác quan phát huy thiền định để giải thoát tạm thời        những cảm xúc giác quan. Tâm thiền không phải là tâm dục        giới, chúng là những tâm của cõi khác, những tâm này cảm        nhận với sự an chỉ định đề mục thiền qua ý môn. Ở        sát na thiền, người ta giải thoát khỏi những cảm xúc giác        quan và những phiền não mà chúng đã trói buộc. Tâm thiền        bao gồm tâm sắc giới và tâm vô sắc giới. Thiền vô sắc        thì vi tế hơn thiền sắc giới, vì đề mục thiền vô sắc        giới không còn tùy thuộc vào sắc pháp nữa. Sau đây tôi sẽ        giải thích sự khác nhau của chúng.
Ngoại trừ tâm dục giới,        tâm sắc giới và tâm vô sắc giới còn có tâm siêu thế mà        có Níp bàn làm cảnh của chúng. Ai giác ngộ sẽ có tâm siêu        thế, tâm này biết cảnh Níp bàn.
Bây giờ tôi sẽ giải        thích Tâm Thiền đầu tiên. Tâm thiền thì không có cảnh sắc,        cảnh thinh hay bất cứ cảnh trần nào khác. Tâm thiền phát        sanh trong những tiến trình tâm nhận biết đề mục thiền        qua ý môn . Trong tiến trình này, đầu tiên có tâm dục giới        biết đề mục thiền và sau đó, trong cùng tiến trình này,        tâm thiền phát sanh. Tiến trình này gồm có như sau:
Khán ý môn Chuẩn bị Cận hành Thuận thứ Chuyển tánh,  |            Tâm dục giới  |          
Tâm thiền  |            
Trong trường hợp này,        đối với một số sát na tâm chuẩn bị thì không cần thiết,        sau tâm khán ý môn thì chỉ có 3 tâm dục giới phát sanh thay        vì 4, trước khi có Tâm Thiền. Chuyển tánh là tâm cuối cùng        trong tiến trình tâm dục giới.
Trong Thanh Tịnh đạo        (IV, 74) chúng ta có thể xem tiến trình tâm thiền phát sanh ở        lúc ban đầu. Thanh Tịnh đạo (IV,78) nói rằng trong trường        hợp đó chỉ có một sát na đơn độc tâm thiền phát sanh        và sau đó nó được nối tiếp bởi tâm hộ kiếp. Sau đó        có tiến trình tâm dục giới quan sát tâm thiền vừa xảy ra        xuyên qua ý môn. Ðối với người đắc thiền mà tâm còn yếu        thì phải liên tục tự mình làm thanh tịnh những triền cái        trong việc phát huy những thiền chi cho đến khi nào nó trở        nên mạnh mẽ. Hơn nữa (Thanh Tịnh đạo IV, 123 và những        đọan sau đó) chúng ta thấy rằng an chỉ định chỉ có thể        tồn tại khi nó hoàn toàn được thanh tịnh các triền cái        mà các triền cái thì làm cản trở tâm chánh định. Ðầu        tiên chúng ta phải hoàn toàn đè nén tham dục bằng cách quán        chiếu những sự nguy hiểm về tham dục và cũng đè nén các        triền cái khác. Khi chúng ta trở nên thuần thục có thể có        những tâm thiền nối tiếp nhau thật lâu. Chúng ta xem (Thanh        Tịnh đạo IV, 125):
Nhưng khi vị ấy chứng một thiền, sau khi đã hoàn toàn thanh lọc tâm cho hết những pháp chướng ngại. Thì vị ấy sẽ trú trong định suốt một ngày giống như con ong bay vào một cái tổ hoàn toàn sạch sẽ...
Tâm thiền là những nghiệp        thiện cao cả. Khi thiền đạt được thì tham dục, sân hận,        hôn trầm, thụy miên, trạo cử, hối quá và hoài nghi đoạn        trừ tạm thời. Như vậy chúng ta thật sự an tịnh ít nhất        ở trong khoảnh khắc đó.
Như chúng ta thấy trong        chương trước, người muốn tu tập thiền chỉ để chứng đắc        được thiền phải tu tập 5 chi thiền mà chúng có thể đoạn        trừ các triền cái, các chi thền là:
Tầm
Tứ
Hỷ
Lạc
Ðịnh.
Thiền thì được người        ta tu tập theo từng giai đọan. Mỗi Tâm thiền tiếp nối, nó        vi tế hơn tâm thiền trước. Có tất cả 5 tâm thiền sắc giới.        Ðối với tầng thiền thứ nhất thì cần thiết có 5 chi thiền        để nó phát sanh với tâm thiền, nhưng ở mỗi giai đọan cao        hơn, lúc chúng ta càng tiến triển thì các chi thiền diệt lần        lần. Khi đạt Tâm Thiền sắc giới thứ hai, chúng ta không cần        chi thiền tầm. Ở thời điểm này tâm thiền có thể biết        đề mục thiền mà không cần tầm, tầm có đặc tính là hướng        tâm đến cảnh và chức năng của nó là biết cảnh. Bốn chi        thiền còn lại vẫn phát sanh với tâm thiền của tầng thiền        thứ nhì.
Ở Tâm thiền sắc giới        thứ ba, tứ được đoạn diệt. Ở tầng thiền này người        ta không cần tầm hoặc tứ nữa để người ta trở nên an chỉ        định trong đề mục thiền. Bây giờ còn có 3 chi thiền: hỷ,        lạc và định. Ở Tâm thiền thứ tư, hỷ đọan diệt. Còn lại        lạc câu hành với tâm thiền, nhưng hỷ không phát sanh. Không        có hỷ thì tâm thiền an tịnh hơn và vi tế hơn. Ở Tâm thiền        thứ năm, lạc cũng đoạn diệt và thay vì chỉ còn thọ xả        câu hành với tâm thiền. Ở tầng thiền này người ta không        còn dính mắc vào thọ lạc nữa. Chỉ còn định chi thiền.
Ở Tâm thiền thứ hai        có người diệt cả tầm lẫn tứ. Dĩ nhiên trong Tâm thiền        thứ ba có thể diệt hỷ và trong Tâm thiền thứ tư diệt lạc.        Như vậy đối với họ, chỉ có 4 tầng thiền Sắc giới mà        có 5 Tâm thiền sắc giới. Do đó thiền sắc giới có thể        tính là 4 tầng và 5 loại Tâm thiền sắc giới và chúng ta        xem trong nhiều kinh điển về 4 tầng thiền , bốn tầng thì        được nói đến.
Còn nói về Tâm thiền sắc        giới thì có 5 loại tâm thiền sắc giới. Tâm Thiền là những        nghiệp thiện cao quý và như vậy kết quả của nó là quả        thiện cao quý. Tâm Thiền không có trổ quả trong kiếp sống        này: kết quả của chúng thì tái sanh ở cõi cao hơn. Kết quả        của Tâm Thiền sắc giới là tái sanh trong cõi Phạm thiên sắc        giới. Tâm thiện sắc giới chỉ có thể trổ quả, nếu khả        năng của họ chứng đắc thiền không thối thất và tâm thiền        phát sanh nhanh chóng trước khi chết. Nếu tâm thiện sắc giới        trổ quả kiếp kế thì có tâm thiền sắc giới phát sanh        nhanh chóng trước tâm tử. Tâm tái tục là tâm quả sắc giới        và tâm này phát sanh trong cõi Phạm thiên phù hợp. Tâm tái tục        biết cùng đề mục Thiền như là tâm Thiền sắc giới phát        sanh nhanh chóng trước tâm tử của kiếp sống trước. 5 loại        tâm thiền sắc giới có thể sản sinh 5 loại tâm quả sắc        giới.
Khi chúng ta tái sanh bằng        tâm tái tục mà tâm Tái tục là tâm quả sắc giới, tất cả        những tâm hộ kiếp và tâm tử của kiếp sống đó thì nó        giống như loại tâm Tái tục. Tâm quả sắc giới chỉ có thể        thực hiện chức năng Tái tục, hộ kiếp và tử.
Có 5 loại Tâm Tố sắc        giới mà nó là những lọai tâm dành cho vị A la hán chứng đắc        thiền sắc giới. Các ngài không có tâm Thiện nhưng thay vào        đó các ngài có Tâm Tố. Cho nên có tất cả 15 tâm sắc giới.        Ðược tóm tắt như sau:
5 tâm thiện sắc giới
5 tâm quả sắc giới
5 tâm tố sắc giới.
Người đã đạt đến tầng        thiền sắc giơiù cao nhất và họ thấy sự bất lợi của        thiền sắc giới, vì Thiền sắc giới vẫn còn bị lệ thuộc        vào sắc pháp [1], cho nên họ muốn tu tập thiền vô sắc giới.        Ðề mục thiền vô sắc giới thì không có liên hệ với sắc        pháp. Có 4 tầng thiền vô sắc giới. Tầng thiền thứ nhất        là không vô biên xứ (Àkàsànancàyatana). Ðể đắc chứng        tầng thiền vô sắc giới này, trước tiên chúng ta phải đạt        được tầng thiền cao nhất của sắc giới trong bất cứ đề        mục thiền biến xứ (Kasina) nào và đạt đến mức độ        thuần thục. Chúng ta xem Thanh Tịnh đạo (X,6):
Khi hành giả đã thấy sự nguy hiểm trong (thiền thứ tư) [2] thuộc sắc giới như vậy và chấm dứt sự ràng buộc với nó, vị ấy tác ý đến "không vô biên xứ" cho là an tịnh. Rồi khi hành giả trải rộng đề mục biến xứ đến giới hạn bầu vủ trụ hay đến mức xa theo ý muốn, vi ấy bỏ đề mục biến xứ sắc pháp nhờ tác ý đến không gian mà sắc ấy chạm đến, nhìn nó như là không gian hay không vô biên xứ.
Ðối với không vô biên        xứ, Thanh Tịnh đạo (X,8) giải thích về việc bỏ đề        mục biến xứ:
Và khi đề mục biến xứ bị bỏ, nó không cuộn lên, hay lăn đi. Người ta gọi rằng đề mục biến xứ bị bỏ chỉ vì hành giả không chú ý đến nó, vì sự chú ý bây giờ hướng đến khoảng không, khoảng này được quan niệm như là khoảng trống để lại khi từ bỏ đề mục biến xứ sắc pháp...
Theo cách này hành giả        có thể vượt qua sắc pháp của đề mục biến xứ và đạt        được Thiền Vô Sắc thứ nhất là không vô biên xứ. Còn        có 3 tầng thiền vô sắc nữa, và mỗi một tầng thiền này        nó vi tế và an tịnh hơn tầng thiền trước. Tầng thiền vô        sắc giới thứ hai là: "thức vô biên xứ" (Vinnànancàyatana).        Ðề mục của tầng thiền vô sắc giới này là Thức mà nó        là Tâm thiền vô sắc giới thứ nhất, Tâm này có đề mục        của nó như là "không vô biên". Người muốn đạt đến        tầng Thiền vô sắc giới thứ hai này trước tiên phải thuần        thục tầng thiền "không vô biên xứ"; vị ấy phải        thấy rằng sự bất lợi của tầng thiền này và chấm dứt        lòng tham của mình đối với nó. Chúng ta xem trong Thanh Tịnh        đạo (X, 25):
... Bởi thế sau khi chấm dứt lòng ham muốn của mình đối với không vô biên xứ, vị ấy phải tác ý Thức vô biên xứ như là an tịnh, tác ý nhiều lần thức, với Thức biến mãn không gian làm đối tượng...
Tầng Thiền vô sắc giới        thứ ba là Vô sở hữu xứ (Àkincannàyatana). Chúng ta xem        trong Thanh Tịnh đạo (X, 32) thấy rằng ai muốn chứng        đắc tầng thiền này phải tác ý đến sự không hiện hữu        của Thức quá khứ mà nó đã biến mãn không vô biên mà là        đề mục Thiền vô sắc giới thứ hai "Thức vô biên xứ".        Chúng ta xem (X, 33):
Không còn tác ý đến Thức này nữa, bây giờ hành giả phải chú ý nhiều lần như sau, "không có gì cả’ hoặc "không, không", và tác ý đến nó, tác động lên nó với tầm và tứ.
Xa hơn nữa (X,35) chúng        ta xem:
... hành giả chỉ trú và quán sự không tồn tại của nó, nói khác đi là sự ra đi của thức ấy, khi thức này đã khởi lên trong Thiền Ðịnh.
Tầng thiền Vô sắc giới        thứ tư là Phi Tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasannanà        sannàyatana). Ðề mục của tầng thiền này là 4 danh uẩn        mà nó đạt được do Vô sở hữu xứ. Chúng ta xem trong Thanh        Tịnh đạo (X, 49):
Ý nghĩa danh từ ở đây là: Thiền ấy, với các trạng thái liên hệ của nó "không có Tưởng" mà cũng "không phi tưởng" do bởi vắng bóng những thô tưởng và có mặt những tưởng vi tế, nên gọi là "phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Xa hơn nữa (X, 50) chúng        ta xem:
... hoặc: tưởng ở đây không phải là tưởng, vì nó không thể làm nhiệm vụ quyết định của tưởng, mà nó cũng không phải là phi tưởng, vì nó hiện diện trong một trạng thái vi tế như một hành còn sót lại, nên nó là phi tưởng phi phi tưởng...
Ðiều đó cũng được        giải thích rằng cảm thọ phát sanh với tâm thiền là cảm        thọ hoặc không phải cảm thọ; giống như việc ứng dụng với        Thức, xúc và những sở hữu khác phát sanh với tâm Thiền.
Vì có 4 tầng Thiền vô        sắc giới nên có loại tâm thiện vô sắc giới. Chúng có thể        trổ quả trong hình thức tái sanh vào cõi vui mà đó là cõi        Phạm thiên vô sắc giới. 4 loại tâm thiện vô sắc giới sản        sinh 4 loại tâm quả vô sắc giới. Khi tâm tái tục là tâm quả        vô sắc giới, tất cả Tâm Hộ kiếp và Tâm Tử của kiếp sống        đó thì tương đương loại tâm quả vô sắc giới. Tâm quả        vô sắc giới chỉ có thể thực hiện chức năng tái tục, hộ        kiếp và tử [3].
Có 4 loại tâm tố vô sắc        giới, đây là tâm của vị A la hán đã chứng đắc thiền vô        sắc. Như vậy có tất cả 12 tâm vô sắc giới. Chúng được        tóm tắt như sau:
4 tâm thiện vô sắc giới
4 tâm quả vô sắc giới
4 tâm tố vô sắc giới.
Ai đã tu tập Thiền thì        có thể phát huy những lọai thắng trí khác nhau (Abhinna).        Chúng ta phải đạt được tầng thiền sắc giới cao nhất        trong đề mục biến xứ, và phải thực tập "kiểm sóat        tâm hòan hảo trong 14 cách" (miêu tả trong Thanh Tịnh đạo,        chương XII ). Ví dụ đối với những đề mục Thiền biến xứ        khác, chúng ta có thể đạt được những tầng Thiền sắc giới        thuận và nghịch theo sau. Trong việc phát huy những loại Thắng        Trí hoặc siêu trí, chánh định của hành giả sẽ trở nên        tiến bộ hơn. Thắng trí là:
1. Thần thông: như đi xuyên qua tường, đi trên mặt nước, bay trên hư không.2. Thiên nhĩ thông: có thể nghe tiếng nói của Chư Thiên và loài người, xa hoặc gần.3. Tha tâm thông: biết tâm của người khác.4. Thiên nhãn thông: thấy được sự sanh diệt của chúng sanh .5. Túc mạng thông: nhớ lại tiền kiếp của chúng sanh.
Ðây là 5 loại thắng        trí. Tuy nhiên có loại thắng trí thứ sáu mà được nhận biết        do Tâm siêu thế là việc đoạn trừ tất cả các phiền não,        khi chúng ta thành đạt quả vị A la hán. Thắng trí thứ sáu        là cao nhất và để thực chứng nó là Thiền quán phải được        tu tập đầy đủ.
Người đã tu tập những        điều kiện đúng đắn này có thể chứng đắc thần thông. Tăng        Chi Bộ Kinh (pháp 3 chi, chương VI, § 60, III, Sangàrava)        chúng ta xem Thắng Trí cao nhất. Ðức Phật hỏi ông Bà la        môn Sangàrava về chủ đề đối thoại của hoàng gia,        khi họ sống với nhau trong cung điện. Bà la môn Sangàrava        trả lời rằng họ đang nói chuyện về kiếp quá khứ các thầy        Tỳ khưu thì rất ít, nhưng những vị này có nhiều Thắng        Trí hơn, và bây giờ thì trái ngược lại. Ðức Phật nói với        ông ta:
"Này Bà la môn, có 3 loại Thần thông. Thế nào là 3? Thần thông biến hóa, thần thông ký thuyết, thần thông giáo hóa. Và này Bà la môn thế nào là thần thông biến hóa?"Ở đây, này Bà la môn, có người chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, cũng như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước, không nứt nẻ như trên đất liền, ngồi kiết già, đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại thần thông như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Này Bà la môn, như vậy được gọi là thần thông."Và này Bà la môn, thế nào là thần thông ký thuyết? Ở đây có người tuyên bố nhớ tướng: "như vậy là ý của ông, như thế này là ý của ông, như thế này là tâm của ông..."
Ðức Phật giải thích        thêm về ký thuyết, và sau đó ngài dạy:
"Và này Bà la môn, thế nào là Thần Thông giáo hóa? Ở đây này Bà la môn, có người giáo giới như sau: "hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy. Hãy tác ý như vậy, chớ tác ý như vậy. Hãy từ bỏ cái này, hãy đạt đến cái này và an trú." Này Bà la môn, đây gọi là thần thông giáo hóa. Này Bà la môn, có 3 loại thần thông này. Trong 3 loại thần thông này, ông có thể chấp nhận loại thần thông nào là hy hữu hơn, thù diệu hơn?""Ở đây, thưa tôn giả Gotama, loại thần thông này... đối với tôi được xem tánh chất như là huyển hóa. Lại nữa đối với loại thần thông ký thuyết... thưa tôn giả Gotama, đối với tôi điều này dường như tánh chất như huyển hóa. Nhưng đối với thần thông giáo hóa... 3 loại thần thông này tôi có thể chấp nhận là hy hữu hơn và thù diệu hơn."
Sau đó Sangàrava hỏi        Ðức Phật Ngài có đắc 3 loại thần thông này không và Ðức        Phật nói với ông ta rằng ngài đã chứng đắc. Sangàrava        cũng hỏi các vị Tỳ khưu khác có chứng đắc 3 loại thần        thông đó không và Ðức Phật trả lời:
"Thật vậy này Bà la môn, chư Tỳ khưu đã chứng đắc 3 loại thần thông này không phải 1 hoặc 2 hoặc 3, 4, hoặc 500 mà con số còn nhiều hơn thế nữa."
Sau đó ông Bà la môn Sangàrava        bày tỏ lòng tin của mình đối với Ðức Phật và ông xin Ðức        Phật qui y Tam bảo trở thành một cận sự nam.
Thời Ðức Phật có nhiều        Tỳ khưu đã trau giồi những điều kiện cho phép thuật thần        thông. Tuy nhiên thần thông cao nhất này là thần thông giáo        hóa, vì nó có thể đoạn trừ tất cả phiền não và chấm dứt        khổ đau.
Ðối với ai có tu tập        Thiền định thì sẽ có nhiều sự lợi ích bởi vì Thiền định        thì phước báu cao quý. Một trong những sự lợi ích đó là        tái sanh an vui, ngay cả đối với người chỉ đạt đến cận        hành định (Thanh Tịnh đạo XI, 123). Tuy nhiên tái sanh        trong cõi an vui có thể là khổ vì đời sống trong cõi an vui        có thể gắn liền với cõi khổ nếu không tu tập. Do đó        không tái sanh thì vô cùng hạnh phúc. Ðiều này chứng tỏ rằng,        chúng ta phải phát huy trí tuệ để đọan trừ tất cả phiền        não.
Trong Giáo pháp, Thiền        được gọi là "hiện tại lạc trú" (ví dụ trong        Kinh Ðoạn giảm, Trung Bộ Kinh I, số 8). Người đã thuần thục        trong việc phát huy an tịnh thì sẽ có nhiều Tâm Thiền nối        tiếp nhau, bởi vì họ đã trau giồi những điều kiện cho công        việc này. Thật sự hiện tại họ đang lạc trú. Tuy nhiên Ðức        Phật đã cho thấy rằng lạc trú không có giống như đoạn        giảm. Chúng ta xem trong Kinh Ðoạn giảm khi Ðức Phật dạy        cho Cunda liên hệ với vị Tỳ khưu đã chứng đắc Thiền        sắc giới như sau:
Này Cunda sự kiện này xảy ra ở đây, một Tỳ khưu ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm với tứ. Vị ấy có thể nghĩ: "ta sống với hạnh đoạn giảm" này Cunda, các quả chứng ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc thánh. Chúng được gọi là hiện tại lạc trú trong giới luật của bậc thánh.
Ðức Phật dạy tương tự        như người đắc chứng với những tầng Thiền sắc giới khác.        Liên quan với vị Tỳ kheo đã đạt Thiền vô sắc giới,        ngài dạy:
... Vị ấy có thể nghĩ: "ta sống với hạnh đoạn giảm". Nhưng này Cunda, điều này không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc thánh; điều này được gọi là "tịch tịnh trú" trong giới luật của bậc thánh...
Người đã tu tập thiền        thuần thục và phát huy thiền quán có thể giác ngộ với        tâm thiền siêu thế, tâm này câu hành với các chi thiền của        một trong những tầng thiền khác nhau, theo sự tu tập của        chúng ta [4]. Thay vì đề mục của thiền chỉ, Níp bàn là cảnh        được nhận biết bằng an chỉ định do tâm Thiền siêu thế.        Trong tiến trình giác ngộ, chúng ta đạt được tâm đạo thì        ngay lập tức tâm quả theo sau. Khi tâm quả đã diệt thì tiến        trình tâm đó chấm dứt. Tâm đạo của giai đoạn giác ngộ        không thể phát sanh trở lại nữa, nhưng đối với người đã        tu tập thiền và đã giác ngộ với tâm thiền siêu thế, tâm        quả có thể phát sanh trở lại, thậm chí nhiều lần trong đời        sống và tâm siêu thế thực chứng Níp bàn bằng an chỉ định.
Ai đạt được tầng Thiền        vô sắc giới thứ tư, (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) và cũng        đã thực chứng được bậc thánh A na hàm hoặc bậc thánh A        la hán, như vậy vị đó mới có thể nhập được Thiền diệt        (Nirodhasamàpatti), thiền này thì chấm dứt tạm thời        thân và tâm hành.
Vị nhập thiền diệt        thì khác biệt với một tử thi. Chúng ta xem trong Kinh Ðại        Phương Quảng (Trung bộ Kinh I, số 43) Ðại đức Mahà        kotthita hỏi ngài Xá Lợi Phất một số câu hỏi. Ðại đức        cũng hỏi những câu hỏi về tử thi và về sự khác nhau giữa        tử thi và vị Tỳ khưu nhập thiền diệt. Chúng ta xem Ðại        đức Mahà kotthita hỏi:
"Này hiền giả, đối với thân này, khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống, quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?""Này hiền giả, đối với thân này, khi nào 3 pháp được từ bỏ: tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri.""Này hiền giả, có sự sai khác gì giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỳ kheo thành tựu Thiền diệt thọ tưởng?""Này hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỳ khưu thành tựu Thiền diệt thọ tưởng, thì thân hành của vị này chấm dứt, được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Này hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỳ kheo thành tựu Thiền diệt thọ tưởng."
Ai xả Thiền diệt, tâm        đầu tiên phát sanh là tâm quả siêu thế có Níp bàn là cảnh        của nó. Trường hợp bậc thánh A na hàm là tâm quả A na hàm        và trường hợp bậc thánh A la hán là tâm quả A la hán. Thanh        Tịnh đạo (XXIII,50) nói rằng tâm của các ngài hướng đến        Níp bàn. Chúng ta xem:
Tâm của vị xả Thiền diệt hướng về cái gì? Hướng về Níp bàn. Như kinh đã dạy: "khi một vị Tỳ khưu xả thiền diệt , này hiền giả Visàkha, thì tâm vị ấy nghiêng về viễn ly, tựa vào viễn ly, khuynh hướng viễn ly." (Trung Bộ Kinh I, số 44, 302).
Trong "Tiểu Kinh Rừng        sừng bò" (Trung Bộ Kinh I, số 31) chúng ta xem thấy rằng        Ðức Phật đến thăm Anuruddha, Nandiya và Kimbila        khi các vị đang cư ngụ trong rừng Gosiíga. Ðức Phật        hỏi các vị về đời sống của các vị ở trong rừng. Các        thầy có thể chứng đắc các tầng Thiền sắc giới và vô sắc        giới và các thầy có thể an trú trong các tầng thiền cho đến        khi nào các thầy mong muốn. Ðức Phật dạy:
"Lành thay, lành thay, này các vị. Này các vị, các thầy có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia và chứng được một pháp Thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc thánh, và sống thoải mái, an lạc không?""Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con vượt lên phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Thiền diệt thọ tưởng. Sau khi thấy nhờ trí tuệ, các lậu hoặc của chúng con được đoạn trừ. Bạch Ðức Thế Tôn chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp Thượng nhân này, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc thánh và sống thoải mái, an lạc. Bạch Ðức Thế Tôn, nhưng chúng con không thấy một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn lạc trú này.""Lành thay, lành thay, này các vị. Không có một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn."
CÂU HỎI:
1/- Sự thuận lợi của thiền vô sắc giới so với thiền sắc giới là gì?
2/- Sự khác nhau giữa thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ và thiền diệt là gì?
3/- Ai tu tập tầng thiền vô sắc giới thứ tư có thể chứng đắc thiền diệt không?
4/- Mục đích của những thắng trí là gì?
5/- Khi 6 thắng trí được nói đến thắng trí nào cao thượng nhất?
6/- Người tu tập Thiền Chỉ lẫn Thiền Quán và đạt đến sự giác ngộ có lợi ích gì?
7/- Ðối tượng của tâm ở sát na thiền là gì?
8/- Qua môn nào tâm Thiền có thể biết cảnh?
9/- Ðối tượng của tâm thiền siêu thế là gì?
Chú thích:
[1] Những đề mục thiền        sắc giới thì liên hệ với sắc pháp, chúng ta tu tập bằng        cách thấy, đụng hoặc nghe.
[2] Thiền sắc giới thứ        tư. Ở đây tính theo 4 lọai.
[3] Cũng như trong trường        hợp tâm thiện sắc giới, tâm thiện vô sắc giới không thể        trổ quả trong cùng kiếp sống. Do đó, nó chỉ thực hiện        nhiệm vụ tái tục, hộ kiếp và tử.
[4] Ðiều này sẽ giải        thích thêm ở chương 23.
-ooOoo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét