Ứng dụng thiền: Bệnh Tâm Thần Và Thiền Định

Dr. Dhananjay Chavan - Dịch Việt : Mỹ Thanh
Bất cứ người nào theo học khoá Thiền Vipassana trong vòng mười ngày, đều có thể nhìn thấy sự sai lầm về mặt nầy của khoa tâm lý học hiện đại . Anh ta biết ngay từ kinh nghiệm bản thân là các sự kiện tâm lý nội tại có thể được quan sát trực tiếp. Mỗi thiền sinh của Vipassana đều trở thành một bác sĩ tâm lý thực thụ cho chính mình. Và xuyên qua môn khoa học thuần khiết về quán sát tự thân, anh ta bắt đầu thoát khỏi đau khổ.

Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết , tranh cãi về bệnh tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài nầy.  Các chuyên gia về sức khoẻ thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề nghiệp của họ.  Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối với một người bình thường họ sẽ rất bối rối.


Cả hai chữ « tâm thần »  và « thiền định » cũng mang những hào quang thần bí. Nói tóm lại, bệnh tâm thần là một khoa học rất mới mẻ, chưa đến trăm năm, trong khi vô số cách thức thiền đã bắt nguồn từ thuở xa xưa.  Tuy vậy, đôi lúc có lời tuyên bố là thiền định không có tính cách khoa học.  Thật ra, thiền định là một môn khoa học, một phương pháp được thực tập và hoàn hảo hoá mấy thế kỷ về trước bởi các khoa học gia về tinh thần và thể chất, bởi các vị Rishis, Munis, và các vị Phật.  Sau rốt, khoa học là gì ? Khoa học là sự quan sát một cách khách quan về sự phân tích các dữ kiện, và sự ứng dụng. Khoa học tìm kiếm để biết sự thật.  Chúng ta sẽ thấy trong bài xã luận nầy, dựa cả vào tiêu chuẩn tân thời, thiền Vipassana (Minh Sát) thật là một môn khoa học .
Người ta thường nghĩ đến bệnh tâm thần là môn khoa học chuyên giải quyết những tâm thần bất bình thường.  Nhưng sẽ chính xác hơn nếu sử dụng từ « hành vi » thay thế cho hai từ « tâm thần »  trong việc định nghĩa, bởi vì bệnh tâm thần định nghĩa là « Một môn học về hành vi bất thường. Bây giờ, để định nghĩa sự bình thường thì thật là một nhiệm vụ khó khăn.  Bình thường nói chúng có nghĩa « trung bình » .  Hành vi ám chỉ những hành động thuộc về lời nói hay vịêc làm, như hành vi nói năng, hành vi xử sự. Trong môn học về bệnh tâm thần và tâm lý, cách suy nghĩ được nghiên cứu chỉ bằng một kết luận sau khi những hành động về lời nói, việc làm được thể hiện.  Mục đích của các môn khoa học nầy là để giúp sửa đổi hành vi của một người trở lại bình thường (thông thường nghĩa là sự trung bình.)
Chúng ta cũng có thể sử dụng một định nghĩa tân thời cho bệnh tâm thần như : một phương thức áp dụng môn khoa học về thần kinh cho việc chữa trị bệnh tâm thần của một nhóm bệnh nhân tâm thần.  Thật ra ngay từ ban đầu, phạm vi của bậnh tâm thần đã không được định nghĩa đúng đắn.  Kết quả các bác sĩ chuyên môn về tâm thần thường chỉ chữa cho những bệnh tâm thần thứ yếu. Trong những năm 60 và 70, các bác sĩ về tâm thần ở phương Tây đều thực hành phân tâm lý học.  Những bệnh nhân của họ thường không có những triệu chứng, vấn đề nghiêm trọng; rất ít bệnh nhân bị loạn trí.  Trong khoảng thời gian nầy, trong tâm thần học có ấn tượng là bệnh tâm thần có thể chữa trị tất cả những vấn đề khó khăn của con người.  Nhưng thực tế thì tâm thần học không đóng góp được gì quan trọng, trong sự hài hoà của xã hội nói chung, ngoại trừ giúp đỡ được cho một số ít bệnh nhân.
Các bác sĩ tâm thần học có lý trí đã dần dần hiểu được biên giới của bệnh tâm thần không bao quát song song cùng với hoạt động tinh thần của mọi con người. Sự hiểu biết nầy là một ý nghĩa to tác,  bởi vì nó giúp cho bác sĩ tâm thần học và một người bình thường định nghĩa phạm vi của bệnh tâm thần.  Sự thiếu hiểu biết về điều nầy của một người bình thường tạo nên nhiều vấn đề khó khăn khác nhau.  Thí dụ, đôi lúc bác sĩ tâm thần được mời xem bệnh, trong khi bệnh ấy lại không thụôc về tâm thần, bắt nguồn từ sự tin tưởng, đòi hỏi vô lý, rằng bác sĩ tâm thần học phải biết hết mọi vấn đề liên quan đến thần trí.  Ngược lại với quan niệm hiểu biết hết của bác sĩ tâm thần học, mặt khác của đồng tiền là sự thiếu hiểu biết toàn bộ về môn đặc biệt nầy, kể luôn cả vài thành phần chuyên gia về mặt sức khoẻ, với kết quả là … ngay cả khi cần thiết và có lợi ích người ta cũng không chịu tìm đến sự giúp đỡ của bác sĩ tâm thần.
Trong thời gian vừa qua, bệnh tâm thần đã gia nhập vào một chuyên ngành của y học, với trọng tâm chuyên trị những bệnh tâm thần nặng.  Điều nầy đã xác định lại vai trò của bệnh tâm thần như là một môn khoa sinh học, và bác sĩ tâm thần học hiện nay đã giữ vai trò thích hợp hơn, họ là những chuyên gia trị liệu về rối loạn sinh học, và tâm lý.  Điều nầy không có nghĩa là vai trò của bác sĩ tâm thần chỉ giới hạn trong việc viết toa thuốc ; bác sĩ tâm thần cũng sử dụng những phương thức trị liệu khác nhau.  Nhưng ngày càng nhiều, các bác sĩ tâm thần bắt đầu tự thu hẹp chuyên ngành của họ : trị liệu những rối loạn thần kinh nặng. Những điều kiện để giúp đỡ việc trị liệu cho các bác sĩ tâm thần là trang bị đầy đủ dụng cụ, và tay nghề cao.  Các bác sĩ tâm thần được huấn luyện để giải quyết các hành vi  « bất bình thường » .  Trong những trường hợp căn bệnh gần với hành vi bình thường ( hoặc trung bình), hiệu quả của việc trị liệu tâm thần khác nhau rất xa giữa việc trị liệu và phương cách trị liệu .
WHO - World Health Organization (Hội Đoàn Sức Khoẻ Thế Giới) liên tục cố gắng cải thiện tiêu chuẩn chẩn đoán cho các bệnh tâm thần.  Liệt kê danh sách các chứng bệnh quốc tế (International Classification of Diseases – ICD-10) là một bước tiến quan trọng.  Người ta đang cố gắng để phân ranh giới một cách hệ thống trong lĩnh vực bệnh tâm thần.  Việc nầy giúp cho các bác sĩ tâm thần có thể chú tâm đến một số nhỏ dân chúng đặc biệt, đê giúp các nhà nghiên cứu tìm ra những phương thuốc để chữa các chứng bệnh rối loạn tâm thần, và có thể bảo vệ dân chúng khỏi bị gán cho cái tên bệnh nhân tâm thần. Tuy vậy, ranh giới vẫn còn mơ hồ. Kể cả một bác sĩ tâm thần giỏi đôi lúc cũng cảm thấy khó khăn khi phải quyết định nên chữa trị một bệnh nhân đặc biệt nào đó, hay là cho rằng người ấy không cần sự trị liệu.
Mọi người đều chịu đau khổ từ những điều bất hạnh khác nhau.  Khi đối diện với những vấn đề thương mại, một người có thể dễ nổi giận, trong khi người khác thì nghiêng về sự buồn rầu.  Trong những lúc nầy, một cá nhân có thể nói là không bị bệnh tâm thần. Họ có thể được lợi ích từ lời khuyên, sự nâng đỡ của bạn hay thân quyến, hoặc là bác sĩ tâm thần.  Kể cả như vậy, trong cuộc sống, mỗi con người đều luôn bị dính chặt vào các cuộc thử thách, và đau khổ cứ liên tục xảy ra.
Một người phải làm thế nào khi đối diện với những khó khăn trong cuộc sống ? Mỗi một cá nhân cảm thấy đau khổ khi gặp phải những việc không muốn vẫn xảy ra, và những việc muốn thì không thành; khi một người có được vật mà họ không thích, hoặc mất đi vật gì họ thích.  Tìm kiếm giải pháp ở đâu đây ?
Tâm thức là một nguyên nhân chánh. Chúng ta cần phải tìm hiểu, thăm dò cho đến tận chiều sâu của nó để có thể điều khiển nó – để giải quyết các khó khăn của chúng ta.  Đây chính xác là một môn khoa học của thiền định.  Thiền định là một môn khoa học nghiên cứu về hịên tượng tâm thức và vật chất.  Môn tâm thần học chỉ tìm hiểu về tâm thức một cách gián tiếp và chỉ trong phạm vi có thể khảo sát được qua những hành vi từ lời nói và việc làm.  Trong môn khoa học về thiền định, tâm thức được tìm hiểu một cách trực tiếp. Môn khoa học nầy đã được thực tập cùng khắp xứ Ấn Độ từ thời xa xưa.
Sự thật tất cả các hành động đều bắt nguồn từ tâm thức. Nhưng không phải tất cả những gì xuất hiện nơi tâm thức đều biểu lộ qua lời nói hay cử chỉ. Những hành động dường như là tương xứng có thể bắt nguồn từ những ý muốn thầm kín khác.  Thí dụ, một người đứng chết trân khi thấy một con rắn có thể có hai lý do cho hành động nầy.  Có lẽ anh ta quá sợ hãi; hoặc anh ta có thể rất bình tĩnh và đứng yên để không làm con rắn sợ, hoặc để quan sát con rắn.  Tương tự như thế, một người có thể cho kẻ nghèo một đồng bạc, với tâm lượng từ bi; để họ đi cho khuất mắt, hoặc để cho những người khác không xem anh ta là một người keo kiết.
Vì thế, vấn đề trước nhất là rất khó để giải thích môn tâm thần học, chiếu theo các kết quả về tâm thức bắt nguồn từ lời nói và hành động. Tâm thức cần được tìm hiểu trực tiếp.  Một vấn đề khác là các kết quả của cái được gọi là “ thuyết nhị nguyên của Des Cartes”, sự phân chia tuỳ ý về tâm và thân.  Trong một thời gian rất lâu, các nghề y khoa chuyên môn về thân thể, đã bỏ qua việc tìm hiểu về tâm thức. Và khi các bác sĩ tâm thần học bắt đầu tìm hiểu về tâm thức, trong bất cứ phương cách nào, họ bác bỏ thân người.  Ngày nay, tầm quan trọng của phương pháp giải quyết vấn đề có tính cách thánh thiện được chấp nhận.  Tuy vậy, không có một phương thức thẩm vấn nào được đầy đủ, không có sự hiểu biết thích đáng cho sự tương tác giữa tâm thần và vật chất, với kết quả là có rất nhiều lý thuyết, nhưng ít dữ kiện. Hiện tượng thân-tâm không được tìm hiểu một cách đúng đắn.
Những vấn đề nầy được giải quyết xuyên qua sự hiểu biết đúng đắn về thiền định.  Chữ « thiền định »  rất đa dạng trong nhiều định nghĩa. Trong tiếng Anh, từ nầy được sử dụng một cách thoải mái để chỉ đến việc suy nghĩ về một cái gì đó.  Các tự điển định nghĩa là « trầm tư mặc tưởng » : luyện tập tâm thức trong sự trầm mặc, chuyên chú đến một chủ đề của sự trầm mặc ; để suy nghĩ, suy tư và nghiền ngẫm. Khi chúng ta nói đến thiền ở đây, chúng ta không sử dụng từ nầy trong ý nghĩa chán ngắt đó.
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần.  từ nầyy được dịch đại khái là thiền định.  Thiền nói về những thực tập đặc biệt cho tinh thần, những phương thức chính xác để chú tâm và thanh tịnh hoá tinh thần.  Khi chúng ta sử dụng từ « thiền định » ở đây, chúng ta sử dụng từ nầy trong ý nghĩa chuyên môn nầy.  Hầu hết trong các ngôn ngữ Ấn Độ, có những từ rất đặc biệt dành cho nhiều loại thực tập thiền khác nhau, bởi vì Ấn Độ có một truyền thống phong phú về thiền. Những từ như dhyana, japa, traa.taka, saadhandaa, vipassanaa, (vidarshanaa), bhaavanaa, v..v..., nói về những loại thực tập khác nhau. Nói chung, thiền là một thực tập về sự chú tâm của tinh thần về những đối tượng khác nhau.  Bởi vì sự chú tâm của tinh thần là điều kiện trước hết cho bất cứ một nhiệm vụ nào, đó là một nhân tố rất quan trọng trong việc khám phá hiện tượng thân tâm. Sự chú tâm có thể thực hành với vô số đối tượng : mắt thấy, tai nghe, sự tưởng tượng, lời nói, v..v…
Bậc Giác Ngộ đã cho chúng ta một đối tượng kỳ diệu để chú tâm, hơi thở tự nhiên của chúng ta. Không giống với những đối tượng khác bên ngoài hoặc không có liên quan trực tiếp đến tâm thân của chúng ta, hơi thở là một đối thượng có nhiều tiện lợi. Hơi thở trong ta, và luôn luôn hiện hữu từ lúc sanh ra cho đến lúc chết.  Đây là một thực tế hiển nhiên, rõ ràng.  Hơi thở ý thức và vô thức, có chủ tâm và không chủ tâm. Nhịp điệu của hơi thở liên quan mật thiết đến trạng thái tinh thần và biết rõ ô uế nào đang xuất hiện nơi ý thức, kể cả sự loạn động nhỏ nất, cũng làm nhiễu loạn nhịp hơi thở. Chúng ta không thể tìm thấy một đối tượng để chú tâm nào khác hơn là hơi thở, vì hơi thở liên quan mật thiết với hiện tượng thân-tâm và nhất là quá dễ dàng cho việc quan sát.
Tuy vậy, sự chú tâm không phải là mục đích của thiền định ; nó chỉ là một dụng cụ. Dụng cụ để làm gì ?
Ở đây chúng ta gặp cái khó khăn thứ ba về định nghĩa của thiền nơi khoa học tân tiến. Bốn chân lý huyền diệu về khổ rất đơn giản, hợp lý và phổ dụng : đau khổ hiện hữu ; nó có một nguyên nhân ; nguyên nhân nầy có thể bị nhổ tận gốc ; và có con Đường dành cho việc nhổ gốc đau khổ.  Tuy nhiên, những chân lý phổ dụng nầy không được các bác sĩ tâm thần học tân tiến hoan nghinh, vì tâm lý học chú trọng nhiều đến « tại sao » hơn là « làm sao » .  Thái độ tìm kiếm định nghĩa trong khi không hiểu chút gì về cơ cấu căn bản của thực tế, làm cho khó hiểu hơn là nâng cao sự học hỏi về các vấn đề tinh thần của con người.
Bậc Giác Ngộ là một khoa học gia chân chính, một khoa học gia lỗi lạc về thân và tâm.  Chính Ngài đã không những khám phá hiện tượng thân-tâm và toàn bộ của nó, Ngài lại còn chỉ đường cho những người khác, để họ có thể thoát khỏi đau khổ. Ngài dạy phương thức quan sát tinh thần hoạt động ra sao, như thế nào thân và tâm tương tác. Ngài dạy Vipassana. (Thiền Minh Sát)
Vipassana có nghĩa là thấy, thấy một cách đặc biệt, quan sát bên trong.  Đây là một sự quan sát có đối tượng của thực tại bên trong. Việc phát triển về sự nhận biết sâu sắc về bản thể tự nhiên của một cá nhân .  Nó không có những giả thiết ; chỉ là sự quan sát. Đây là cách thực tiễn để hiểu khó khăn của chúng ta là đau khổ và giải quyết việc nầy.  Khó khăn chung của mọi người cũng giống như thế, và thuốc giải cũng phổ dụng.  Trong Vipassana, chúng ta học quan sát những cảm xúc của chính chúng ta một cách khách quan. Các cảm giác là địa điểm gặp mặt của sự tương tác thân mật giữa thân-tâm. Xuyên qua các cảm giác xuất hiện nơi thân, chúng được cảm nhận nơi tinh thần.  Mỗi một người trong chúng ta là một khoa học gia của thân và tâm.  Chúng ta có sự hiểu biết trực tiếp.  Bậc Giác Ngộ đã trình bày bốn giai đoạn căn bản của tinh thần (tâm) : ý thức, nhận biết, cảm thọ, và những điều kiện.  Về mặt trí thức, không có người nào phải chấp nhận những giai đoạn nầy ; chúng sẽ trở nên rõ ràng một khi chúng ta bắt đầu kiểm nghiệm được chân lý nội tại.
Khi chúng ta học quan sát được các cảm thọ nội tại, theo kinh nghiệm, việc nầy thật rõ ràng là chúng ta tiếp tục phản ứng theo những cảm thọ nầy.  Các cảm thọ là căn bản để các điều kiện, mô hình cũ của ham muốn và ghét bỏ tăng trưởng. Sự khám phá sâu sắc nầy là trụ cột cho việc giải thoát, mà Bậc Giác Ngộ đã đưa ra. Chính điều kiện của chúng ta làm cho chúng ta mãi đau khổ, và chúng sẽ bị nhổ bỏ tận gốc bằng cách thực tập quan sát đối tượng của cảm thọ.  Thực tập Vipassana, chúng ta không học để phát huy các điều kiện mới của ham muốn và ghét bỏ các cảm thọ ; và như vậy, chúng ta bắt đầu tiêu diệt các điều kiện cũ. Sự thực tập là một hành trình từng bước một để tiêu diệt các ô uế của tâm thức. Do đó, đây là một tiến trình để tiêu diệt đau khổ.
Không nằm trong môn phái khoa học, kỹ thuật nầy rất hữu dụng trong việc giúp tất cả mọi người có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, an lạc hơn .  Những ai đã từng theo học lớp Vipassana trong vòng mười ngày, dưới sự chỉ dẫn của một vị thầy giỏi, lớp học nầy là một kinh nghiệm đổi đời.
Thực tập để khám phá thân tâm ở mức độ sâu xa nhất thật là không phải dễ. Việc nầy đòi hỏi một sự ổn định, vững chãi về mặt thân và tâm.  Một người cầu đạo chân chính mong cầu được thực tập thiền Vipassana, họ cần có sức khoẻ tối thiểu ở nơi thân và tâm.  Thông thường, tất cả đều học được, trừ những người bị bệnh tâm thần. ( Nên liên lạc với bộ quản lý lớp Vipassana trước khi ghi danh để xem học viên có bệnh, có thể thích hợp cho khoá học hay không.)
Thiền Vipassana là phương thuốc chữa bệnh phổ biến cho nỗi đau khổ chung. Nhưng điều nầy không có nghĩa là khoa tâm thần học không có chỗ đứng trong việc giúp đỡ nhân loại đang đau khổ. Đối với những người điên, không có khả năng để theo học thiền Vipassana, một công việc hết sức tế nhị.  Các bác sĩ chuyên môn về tâm thần học có thể giúp đỡ, làm giảm nỗi đau khổ của những người bệnh tâm thần.  Ngoại trừ một nhóm nhỏ với các bệnh tâm thần quá nặng, thiền Vipassana rất hữu dụng cho tất cả mọi người.
Phạm vi của khoa tâm thần học giới hạn vào một số nhỏ dân số.  Nhưng thiền Vipassana thì phổ biến bao gồm tất cả mọi mặt hoạt động về tâm thần của con người.  Khoa tâm lý học ngụ ý tìm hiểu hoàn toàn về hoạt động tinh thần của con người, như chúng ta đã bàn qua, đây là môn “khoa học về thái độ cư xử”, và như vậy nó bị giới hạn.  Thái độ cư xử trong ý nghĩa nầy được định nghĩa như bất kỳ một hành động phản ứng nào cũng có thể bị quan sát bằng cách nầy hay cách khác . Luận điểm là hành động đó, khác với tâm thức, ý nghĩ hoặc cảm giác, có thể bị quan sát và nghiên cứu. Ý là ở đây, người quan sát luôn là người ở ngoài cuộc, một người khác.  Các tâm lý gia hiện đại tin tưởng rằng thái độ cư xử là con đường duy nhất mà các sự kiện tâm lý nội tại có thể được nghiên cứu kỹ.
Bất cứ người nào theo học khoá Thiền Vipassana trong vòng mười ngày, đều có thể nhìn thấy sự sai lầm về mặt nầy của khoa tâm lý học hiện đại . Anh ta biết ngay từ kinh nghiệm bản thân là các sự kiện tâm lý nội tại có thể được quan sát trực tiếp.  Mỗi thiền sinh của Vipassana đều trở thành một bác sĩ tâm lý thực thụ cho chính mình.  Và xuyên qua môn khoa học thuần khiết về quán sát tự thân, anh ta bắt đầu thoát khỏi đau khổ.
Nguyện cầu cho nhiều người được bước đi trên con đường do Bậc Giác Ngộ chỉ dẫn.  Nguyện cầu cho nhiều người học tập quán sát thực tại bên trong. Nguyện cầu cho mọi chúng sinh đều hạnh phúc, mọi chúng sinh đều an lạc .

Tù Nhân Mỹ Tập Thiền

Từ một tay sát nhân ưa bạo lực nay trở thành một người tập thiền ưa chuộng hòa bình? Nhiều tù nhân ở Alabama đã biến đổi như thế.
Ẩn sâu trong một nhà tù đông người  vốn khét tiếng đầy bạo động -- một nhóm tù nhân toàn là sát nhân, cướp của, và hiếp dâm bây giờ đã trở thành những thiền sinh chăm chỉ. Mắt nhắm, họ ngồi lặng lẽ nhìn vào các tâm niệm của họ.
Đời sống ngày thường của họ là các khu nhà vây quanh bằng chấn song sắt, nơi tiếng ồn liên tục.
Nhà tù có tên là William E. Donaldson Correctional Facility, tại thị trấn Birmingham, đã trở thành mô hình cho một chương trình thiền tập để giúp tù nhân học cách tự chế và học cách giao tiếp xã hội kiểu Phật Giáo mà họ không học được ngoài đời.
Đó là khóa thiền Vipassana (Minh Sát Thiền), đã dạy cho 10% tù nhân ở đây.
Mỗi khóa thiền kéo dài 10 ngày. Dạy 4 lần trong một năm tại sân vận động nhà tù, nơi mỗi khóa có 40 tù nhân ngồi thiền 10 giờ/ngày. Hầu hết ngồi trên toạ cụ, vài người ngồi ghế. Không được nói chuyện.
Các khóa thiền này dạy từ năm 2002 tại Donaldson, nhưng gián đoạn vì bị các tín đồ Tin Lành chống đối, nhưng rồi mở lại từ 2006.
Đã có 380 tù nhân hoàn tất khóa thiền này. Bộ Cải Huấn đưa thống kê rằng, sau khóa thiền, các hình phạt kỷ luật trong tù đã giảm 20%.


 Ứng dụng thiền: Thiền Vipassana Tuyên Chiến Với Ma Tuý

Thiền Vipassana đã truyền dạy chúng ta một phương châm sống, "hãy tự chiến thắng chính mình." Phương tiện hành trì duy nhất và thực hành điều gì là hai vũ khí thiền (Anapana) "Tỉnh giác hơi thở" và thiền (Vipassana) "tỉnh giác thân cảm thọ".
Lần đầu tiên nghe nói về Thiền Vipassana, phản ứng của tôi cũng giống đa số thanh niên trẻ tuổi khác, "Thiền định! Điều đó chỉ dành cho người già cả." Nhưng không hiểu sao nó lại ẩn chứa mãi trong đầu óc của tôi. Với tánh hiếu kỳ ham hiểu biết, tôi tìm cách thu thập nhiều thông tin hơn và quyết định thực hành thử xem. Một vài người khuyên cản tôi, nhưng hạt giống thiền lại được gieo vào tâm tôi.
Tôi đến Trung Tâm Thiền "Dhamma Giri" tham dự một khóa thiền Vipassana và đã thực hành "trọn vẹn" mãn khóa. Tôi muốn nhấn mạnh từ "trọn vẹn" vì người bịnh nghiện sống một cuộc đời lãng phí như khối thịt vô dụng, không đem lại lợi ích cho người khác cũng như với chính mình. Chẳng hạn như, bây giờ tôi đã bắt đầu có nhiều suy tư hướng thiện nhưng do bịnh nghiện khiến tôi không hoàn thành ước nguyện nào cả. Sớm hay muộn tôi dễ bị chán nản, buông xuôi và bỏ cuộc những gì tôi muốn thực hiện, rồi gây ra biết bao điều căng thẳng cho mọi người xung quanh tôi. Vì thế, ý nghĩa "trọn vẹn" trong khóa thiền đầu tiên giống như một sự tái sanh mới, "niềm tự tin - chính mình" trong tâm tôi.
Trong suốt khóa thiền, tôi đã nhiều lần phản tỉnh, quán chiếu về quá khứ; nhưng quan trọng nhất là phải tỉnh giác trong phương pháp thiền quán. Tự tánh sẽ hiện khởi dễ dàng nếu tôi thực sự tỉnh giác hành thiền. (Dĩ nhiên điều này không đơn giản) mà phải nỗ lực hành trì miên mật. Thiền đã khai sáng nôi tâm tôi hiểu về những sự thật như tham ái, sân giận và tự ngã đều mang lại đau khổ (dukkha). Tôi cảm thấy pháp thiền này đặc biệt giảng dạy dành cho tôi, trong lúc tôi đang đau khổ với những thói quen tật xấu mà tôi chẳng hề nhận biết.
Vấn đề bị bịnh "xì ke ma túy" của tôi, nếu phân tích kỷ sẽ thấy kết quả từ nguyên nhân chính là tâm đam mê (khao khát), rồi sau đó dẫn đến thân xác ham muốn. Thật ra, tâm thèm muốn vẫn còn kéo dài sau khi đã trải qua thời gian cai nghiện Ma Túy. Hiện nay, thiền Vipassana đã đến tận nơi hướng dẫn người cai nghiện phương cách điều trị khi chứng bịnh lên cơn. Hơn nữa, các bài pháp thoại buổi tối thường trợ duyên làm sáng tỏ bất cứ nghi ngờ nào. Nói chung, sau khi mãn khóa thiền tôi thực sự cảm thấy giờ đây mình có "năng lực" gì đó, không những điều trị được cơn nghiện mà còn tạo nên cho mình nếp sống hằng ngày bao quanh trong bầu không khí thân mật hơn.
Trở về nhà một thời gian mọi thứ đều thật sự an lành. Tôi nhận thấy tự mình sống thảnh thơi hơn và đó là trạng thái tâm vô ngã. Nhưng tôi vẫn chưa thể bỏ hẳn bịnh nghiện của tôi. Bây giờ tôi không dùng (á phiện) hằng ngày, nhưng thỉnh thoảng lại phải dùng nó. Tâm đam mê vẫn chưa trừ dứt và đôi khi tôi không thể chống nổi cơn nghiện. Vào thời điểm đó, tôi biết mình còn yếu đuối và không giải quyết được điều gì cả (tức là bước thứ hai của ‘Chương Trình Cai Nghiện Ma Túy Cho Người Ẩn Danh – Narcotics Anonymous Programme’).
Tôi trở lại tham dự khóa thiền khác and xin đăng ký cư trú một thời gian dài trong phạm vi Trung Tâm Thiền "Dhamma Giri." Sống nơi đây, tôi được tăng trưởng trong Chánh Pháp, tham dự các khóa thiền và nhận chân được thực tại sự sống. Hãy tin tôi, chánh pháp thật tuyệt diệu (nhưng đây cũng là điều tham muốn). Vì tôi bắt đầu am hiểu về chánh pháp nhiều hơn và biết áp dụng thiền trong mọi sinh hoạt đời sống hằng ngày. Nhưng mục tiêu "hoàn toàn" cai nghiện Ma Túy vẫn còn xa vợi. Suốt thời gian dài ở Trung Tâm Tu Thiền, thỉnh thoảng tôi muốn trờ về nhà nghĩ ngơi nhưng khi về đến nhà thì "chứng nào lại tật nấy."
Bản chất ‘thương – ghét’ hay ‘tham ái’ chính là cố tật tiềm ẩn sâu bên trong nội tâm tạo nên bịnh nghiện ngập. Ngay khi giải thoát khỏi điều này, con người sẽ được hạnh phúc hơn. Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi có thể nói rằng ranh giới giữa người nghiện và không nghiện khoảng cách chẳng bao xa giống như ‘đường tơ kẻ tóc,’ và giờ đây tôi hiểu rõ cốt tủy vấn đề ‘nghiện hay không’ hoàn toàn tùy thuộc chính nơi tôi. Hiện nay tôi sống an trú tại thành phố Bombay, tôi có nghề nghiệp và làm việc sáu ngày trong một tuần. Một cuộc sống mà trước đây tôi chưa hề nghĩ tới, nhưng tôi thật sự vui thích. Tôi sống trong ý niệm thoải mái, với một ý thức thành tựu và thoát khỏi ngõ cụt của cuộc đời nhờ trở về nội tâm và suy nghĩ chính chắn.
Tóm lại, tôi có thể nói rằng thiền Vipassana đã truyền dạy chúng ta một phương châm sống, "hãy tự chiến thắng chính mình." Phương tiện hành trì duy nhất và thực hành điều gì là hai vũ khí thiền (Anapana) "Tỉnh giác hơi thở" và thiền (Vipassana) "tỉnh giác thân cảm thọ". Phần còn lại tùy thuộc vào khả năng chiến đấu (nội tâm) của chính mình. Không được phép bào chữa (với bất cứ lý do nào), vì vũ khí luôn sẵn có bên trong tự thân mỗi người. Và nếu hành trì Chánh pháp với sự nhiệt tâm và tinh cần không ai có thể thất bại, vì thiền Vipassana thật sự chính là "Nghệ Thuật Sống."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét