HỌC THUYẾT CĂN BẢN
-ooOoo-
(a)
(b)
- Tam Tạng Kinh Điển
- Luật Tạng
- Kinh Tạng
- Luận Tạng
- Vi Diệu Pháp Là Gì?
- Danh Và Sắc
- Tứ Diệu Đế
- Bát Chánh Đạo
- Mọi Vật Đều Thay Đổi
- Nghiệp Là Gì?
- Tái Sanh
- Niết Bàn
- Lý Nhân Duyên
- Thường Kiến Và Đoạn Kiến
- Có Thể Biết Được Nguyên Nhân Đầu Tiên Không?
- Có Một Linh Hồn Bất Diệt Không?
TAM TẠNG KINH ĐIỂN
Tam Tạng Kinh Điển là sự tổng hợp những lời dạy của Đức Phật thuyết giảng trên 45 năm bằng tiếng Pali, gồm có Kinh - lời dạy có tính cách qui ước, Luật - Giới luật, và Luận (Vi Diệu Pháp) - Tâm Lý Đạo Đức.
Tạm Tạng Kinh Điển được kết tập và soạn thành hình thức ngày nay là do các bậc A La Hán, những bậc thánh đã liên hệ trực tiếp với chính Đức Phật.
Đức Phật đã qua đời, nhưng Giáo Pháp siêu phàm của Ngài để lại cho nhân loại vẫn hiện hữu và thuần khiết như lúc ban đầu.
Mặc dù Đấng Đại Đạo Sư không để lại bút tích trong hồ sơ giáo lý, nhưng các đệ tử xuất chúng của Ngài đã gìn giữ các tài liệu này bằng trí nhớ và đã truyền khẩu lại từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, 500 Vị A La Hán ưu tú triệu tập Đại Hội Kiết Tập lần thứ nhất để ghi lại học thuyết do Ngài dạy. Đức A Nan, thị giả thân tín một dạ trung thành, luôn luôn kề cận Đức Phật, nên đã được nghe tất cả những bài thuyết giảng của Ngài; Đức A Nan là người đọc lại Kinh (Pháp), Đức U Bà Ly đọc Luật, giới luật của Tăng Già.
Một trăm năm sau lần Đại Hội Kiết Tập lần thứ nhất, trong thời Vua Kalasoka, một số đệ tử nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi một vài khinh giới. Các nhà sư chính thống cho là không có gì cần phải thay đổi trong khi các nhà sư khác đòi hỏi thay đổi một vài giới luật. Cuối cùng, sau lần kiết tập này, nhiều trường phái Phật Giáo khác biệt xuất hiện. Trong Kỳ Đại Hội lần thứ hai này, chỉ thảo luận, những vấn đề trong Luật Tạng còn về Kinh Tạng không có gì thay đổi.
Vào Thế Kỷ Thứ Ba trước Tây Nguyên, trong thời Hoàng Đế A Dục, Đại Hội Thứ Ba được triệu tập để thảo luận những quan điểm dị biệt của Tăng Già. Tại Đại Hội này không những chỉ thảo luận hạn chế về Luật Tạng, mà cũng thảo luận đến Kinh Tạng. Khi Đại Hội bế mạc, Chủ tịch Đại Hội, Đức Moggaliputta Tissa, soạn thảo một cuốn sách gọi là Kathavatthu bác bỏ các quan điểm và lý thuyết dị giáo sai lầm của một số đệ tử. Giáo lý được phê chuẩn và chấp thuận gọi là Nguyên Thủy (Theravada). Luận Tạng cũng được đem bàn cãi trong Kỳ Đại hội này. Đại Hội Lần Thứ Tư được triệu tập tại Sri Lanka năm 80 trư?c Tây Nguyên dưới sự bảo trợ của Hoàng Đế Vattagamini Abbaya, một vì Vua rất hiếu thảo. Tam Tạng Kinh Điển lần thứ nhất được kiết tập thành văn bản tại Đại Hội Sri Lanka này.
Tam Tạng Kinh Điển gồm ba phần giáo lý của Đức Phật: Luật, Kinh, và Luận.
Luật Tạng chuyên về các vấn đề luật lệ và quy tắc của Đoàn thể Tăng và Ni. Luật Tạng trình bày chi tiết sự phát triển của hệ thống Phật Giáo Đoàn. Cuộc đời Đức Phật và sứ mệnh hoằng pháp của Ngài được ghi nhận. Gián tiếp, Luật Tạng nêu lên vài sự kiện rất hữu ích về lịch sử thời cổ, phong tục của người Ấn, mỹ thuật, khoa học vân vân...
Gần hai mươi năm sau khi giác ngộ. Đức Phật không đặt giới luật để kiểm soát đoàn thể Tăng Già. Sau này, do hoàn cảnh gây nên, Ngài mới ban bố luật lệ cho đồ đệ tương lai của Tăng Già.
LUẬT TẠNG
Luật Tạng gồm năm cuốn sau:
1. Parajika Pali (Đại tội)
2. Pacittiya Pali (Khinh tội)
3. Mahavagga Pali (Đại Phẩm)
4. Cullavagga Pali (Tiểu Phẩm)
5. Parivara Pali (Phần Linh Tinh)
KINH TẠNG
Kinh Tạng gồm hầu hết các bài kinh giảng bởi chính Đức Phật trong nhiều dịp. Cũng có một vài bài kinh do các Đại Đệ Tử của Ngài thuyết giảng như các Ngài Xá Lợi Phất, A Nan, Mục Kiền Liên vân vân ...Các kinh này giống như cuốn sách gồm các toa thuốc, là những bài thuyết pháp diễn giảng thích hợp cho hoàn cảnh và tính chất tùy theo hạng người. Đôi khi hình như có vẻ mâu thuẫn, nhưng không nên hiểu lầm vì là các câu này do chính Đức Phật nói ra để phù hợp vào mục đích đặc biệt nào đó.
Kinh Tạng gồm năm bộ
1. Digha Nikaya (Trường Bộ Kinh)
2. Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh)
3. Samyutta Nikaya (Tương Ứng Bộ Kinh)
4. Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh)
5. Khuddaka Nikaya (Tạp Bộ Kinh)
Bộ thứ năm phân chia thành 15 cuốn:
1. Khaddakapatha (Shorter Text, Tiểu Phẩm)
2. Dhammapada (The Way of Truth, Pháp Cú Kinh)
3. Udana (Heartfelt sayings or Peacon of Joy, Tự Thuyết Kinh)
4. Iti Vuttaka('Thus said' Discourses, Phật thuyết như vậy)
5. Sutta Nipata (Collected Discourses, Kinh tập)
6. Vimana Vatthu (Stories if Celestial Mansions, Các câu chuyện về Thiên cung)
7. Peta Vatthu (Stories of Peta, Câu chuyện về Ngạ quỷ)
8. Theragatha (Psalms of Brethren, Trưởng Lão Tăng Kệ)
9. Therigatha (Palsms of the Sisters, Trưởng Lão Ni Kệ)
10. Jatakha (Birth Stories, Túc Sanh Truyện)
11. Niddesa (Expositions, Nghĩa thích)
12. Patisambhida (Analytical Knowledge, Tuệ Phân Tích)
13. Apadana (Lives of Saint, Đời Sống các Vị Thánh)
14. Buddhavamsa (The History of Buddha, Lịch Sử Đức Phật)
15. Cariya Pitaka (Modes of Conduct, Sở hạnh tạng)
LUẬN TẠNG
Đối với một nhà tư tưởng uyên thâm, Luận Tạng quan trọng và đáng chú ý nhất vì Luận Tạng hàm chứa triết lý thâm của giáo lý Đức Phật không giống như những bài thuyết giảng có tính cách làm sáng tỏ nhưng đơn giản hơn trong Kinh Tạng.
Trong Kinh Tạng ta thường thấy đề cập đến cá nhân, chúng sinh vân vân...nhưng trong Luận Tạng, thay vì những thuật ngữ quy ước, chúng ta thấy những thuật ngữ về chân đế như uẩn, tâm, sắc, vân vân...
Trong Kinh Tạng, ta thấy Giáo lý theo Tục Đế nhưng trong Luận tạng, ta thấy Nguyên Lý Chân Đế.
Trong Luận Tạng mỗi vấn đề đều được phân tích và giải thích chi tiết, cho nên ta gọi đó là Giáo Pháp Thậm Thâm (Vi Diệu Pháp).
Bốn Pháp Chân Đế trong Luận Tạng là Tâm, Tâm Sở, Sắc và Niết Bàn.
Cái được gọi là chúng sanh được phân tích dưới lăng kính hiển vi và các thành phần được miêu tả chi tiết. Cuối cùng mục tiêu tối hậu, và phương pháp đạt mục tiêu được giải thích với những chi tiết hết sức cặn kẽ.
Luận Tạng gồm có các tác phẩm sau đây:
1. Dhamma-Sangani (Enumeration of Phenomina, Pháp Tựu)
2. Vubhanga (The Book of the Treatise, Phân Biệt (giải từng phần khác nhau)
3. Katha Vatthu (Point of Controversy, Kệ Thuyết)
4. Puggala Pannati (Description of Individuals, Nhân Duyên Thuyết)
5. Dhatu Katha (Discussion with Reference to Elements, Giới Thuyết)
6. Yamaka (The Book of Pairs, Song Đối)
7. Pattana (The Book of Relations, Liên Đới)
Theo một cách phân loại khác do chính Đức Phật ghi nhận Giáo Lý được chia làm chín nhóm: 1- Sutta, 2- Geyy, 3- Veyyakarama, 4- Gatha, 5- Udana, 6- Itivuttaka, 7- Jataka, 8- Abbhutadhama, 9-Vedalla.
1. Sutta - (Kinh) Là những bài pháp, dài, ngắn, trung bình do Đúc phật thuyết giảng trong nhiều trường hợp như Kinh Mangala Sutta (Discourses on Blessings, Hạnh Phúc Kinh) Ratana Sutta (The Jewel Discourse, Trân Bảo Kinh), Metta Sutta (Discourse on GoodWill, Kinh về Tâm Từ) vân vân... Theo lời dẫn giải, toàn bộ Luật Tạng cũng nằm trong Kinh này.2. Geyya - Những bài thuyết giảng lẩn lộn những câu kệ và những bài thơ như Sagathavagga của Kinh Samyutta (Tương Ưng Bộ Kinh).3. Veyyakarana - có nghĩa Trình Bày - Toàn bộ Luận tạng gồm những bài thuyết pháp không thơ kệ, và tất cả những gì còn lại không nằm trong phân loại của bộ này.4. Gatha - Gồm có những bài kệ trong Kinh Pháp Cú, Theragatha (Psalms of the Brethren, Trưởng lão kệ), Therigatha (Psalms of the Sisters, Trưởng lão ni kệ), và những bài kệ không có trong các Kinh.5. Udana - Gồm Paeans of Joy ghi trong Udana, một phần Khuddaka Nikaya6. Itivuttaka - Gồm 112 bài thuyết pháp bắt đầu với câu "Một thuở nọ, Đức Phật ...." Itivuttaka là một trong 15 bộ Kinh trong Khuddaka Nikaya.7. Jataka - Gồm 547 chuyện về tiền thân của Đức Phật.8. Abbhutadhamma - Một số bài giảng nói về những điều đẹp đẽ tuyệt vời thí dụ như Kinh Acchariya-Abbhutadhamma trong bộ Majjihima Nikaya (No 123)9. Vedalla - Gồm có những bài thuyết pháp, như Chulla Vedalla, Maha Vedalla (M.N. Nos 43, 44), Samma Ditthi Sutta (M.N. No. 9) vân vân . Trong một vài bài thuyết pháp, một số giải đáp các câu hỏi được ghi nhận trong niềm hoan hỉ.
LUẬN TẠNG (VI DIỆU PHÁP) LÀ GÌ?
Luận Tạng (Vi Diệu Pháp) là giáo lý phân tích khả năng tinh thần và các yếu tố liên hệ.
Luận Tạng hàm chứa tâm lý đạo đức và triết lý sâu xa của Giáo Lý Đức Phật, trái ngược với các bài thuyết pháp đơn giản trong Kinh Tạng.
Kiến thức đạt được từ Kinh chắc chắn giúp ta vượt qua các khó khăn trở ngại, cũng như giúp ta phát triển tinh thần và rèn luyện tâm ý. Có được kiến thức này giúp ta có một đời sống bình an, đáng kính, hữu ích và cao thượng. Nghe những bài thuyết giảng, chúng ta phát triển sự hiểu biết Pháp và có thể điều hòa cuộc sống hàng ngày theo đó. Quan niệm đằng sau của một vài chữ hay từ ngữ dùng trong Kinh Tạng, có thể nên thay đổi và phải được giải nghĩa trong phạm vi môi trường thời Đức Phật tại thế. Quan niệm sử dụng trong Kinh Tạng giống như những từ ngữ quy ước mà người cư sĩ thường dùng để giải thích các đề tài khoa học. Trong khi quan niệm trong kinh theo quy ước phải được hiểu với ý nghĩ thông thường, còn quan niệm về Luận tạng phải được hiểu theo ý nghĩa rốt ráo. Quan niệm trong Luận Tạng giống như những từ ngữ hay thuật ngữ khoa học chính xác dùng bởi các khoa học gia để ngăn ngừa sự giải thích sai lầm.
Chỉ trong Luận Tạng mới thấy sự giải thích về vì sao và nơi nào đã khiến con người tạo ý tùy theo tham ái hay tâm sở khác. Những sự giải thích rõ ràng về bản chất của khả năng tinh thần khác nhau, và cách lý giải chính xác các yếu tố tạo thành được tìm thấy trong các tập thuyết giảng quan trọng.
Hiểu Phật Pháp qua kiến thức đạt được từ Kinh điển giống như kiến thức đạt được trong việc nghiên cứu các toa thuốc áp dụng cho các loại bệnh tật. Kiến thức như vậy chắc chắn là có thể chữa được một số bệnh. Mặt khác, một lương y giỏi, với kiến thức chính xác, có thể chẩn đoán một số lớn các bệnh tật, khám phá ra các nguyên nhân gây bệnh. Kiến thức đặc biệt giúp vị lương y này có vị thế tốt đẹp hơn để có thể chữa bệnh hữu hiệu hơn. Tương tự như vậy, một người nghiên cứu Luận Tạng, có thể hiểu rõ bản chất của tâm, phân tách các thái độ tinh thần khiến con người phạm lỗi, hay làm cho con người phát triển thiện ý tránh các tội lỗi.
Luận Tạng dạy rằng những niềm tin ích kỷ, và những ý niệm và cái 'Tôi" 'Anh', 'Người', và 'Thế gian' mà chúng ta thường hàng ngày hay nói tới, không diễn tả nổi đầy đủ tính chất thực sự của cuộc sống. Quan niệm thông thường không phản ảnh cái tính chất phù du của lạc thú, những cái bất trắc, vô thường của thành phần mọi sự vật duyên hợp, sự đối kháng giữa những phân tử và thực chất năng lượng nằm bên trong tất cả các vật hữu tình và vô tình.. Giáo lý của Luận Tạng trình bày rõ ràng bản chất rốt ráo của con người và đem sự phân tích về thân phận của con người xa hơn những sự nghiên cứu khác mà con người đã biết.
Luận Tạng nêu lên những thực thể hiện hữu trong ý nghĩa rốt ráo hay paramattha (đệ nhất nghĩa đế) dhamma tiếng Pali. Có bốn thực thể đó là:
1. Citta, (Tâm hay Tâm Vương ) được giải nghĩa là cái biết hay hiểu biết một đối tượng. Tâm Vương sanh khởi như những trạng thái riêng biệt của thức.2. Cetasika, Tâm Sở: những trạng thái của tâm sanh khởi cùng một lúc với Tâm Vương.3. Sắc, hiện tượng vật chất, hay dạng thức vật chất.4. Niết Bàn: trạng thái hạnh phúc hoàn toàn không điều kiện, mục tiêu cuối cùng.
Citta (Tâm Vương) và Cetasika (Tâm Sở) và sắc là thực thể có điều kiện. Chúng trỗi lên vì những điều kiện, và mất đi vì những điều kiện hỗ trợ chúng ngưng không tiếp tục nữa. Chúng ở trong tình trạng vô thuờng. Niết Bàn, mặt khác, là một sự thực không điều kiện. Niết Bàn không trỗi lên, cho nên không mất đi. Bốn sự thực này có thể chứng nghiệm dù chúng ta đặt cho chúng danh xưng nào. Ngoài bốn thực thể đó, mọi sự vật dù trong nơi chúng ta hay không nơi chúng ta, dù trong quá khứ, hiện tại hay vị lai, dù là thô sơ hay vi tế, dù là thấp hay cao, xa hay gần - vẫn là một ý niệm và không phải là một sự thực tối hậu.
Citta (Tâm Vương) và Cetisaka (Tâm Sở) và Nibbana (Niết Bàn) được gọi là Nama (Danh). Niết Bàn là một nama không điều kiện. Hai nama có điều kiện là Citta (Tâm Vương) và Cetasika (Tâm Sở), cùng với rupa (sắc) tạo thành cơ quan tâm-vật-lý, gồm cả con người. Tâm và vật hay danh sắc, được lý giải trong Luận Tạng giống như được khảo sát dưới lăng kính hiển vi. Những biến chuyển liên kết với tiến trình của sanh tử được phân tách chi tiết. Luận Tạng làm sáng tỏ những điểm phức tạp của Phật Pháp, gíúp cho hiểu được sự thật, và dẫn đến con Đường Giải Thoát. Sự hiểu biết đạt được từ Luận Tạng về cuộc sống của chúng ta và thế giới không phải trong ý nghĩa có tính cách quy ước, nhưng trong ý nghĩa của sự thật tuyệt đối.
Sự trình bày sáng sủa về những vận hành của tâm thức trong Luận Tạng không tìm thấy ở bất cứ một luận thuyết tâm lý nào ở phương Đông cũng như phía trời Tây. Thức thì được định nghĩa, trong khi những tư tưởng thì được phân tách và xếp loại từ một lập trưòng đạo đức. Thành phần của mỗi loại thức được thiết lập chi tiết. Thức trôi chảy như một dòng suối, quan điểm này được chứng minh bởi những nhà tâm lý học như William Jones, trở nên hết sức rõ ràng cho người hiểu Luận Tạng. Hơn nữa, ngưòi học Luận Tạng có thể thấu đáo thuyết Vô-Ngã, một thuyết rất quan trọng từ quan điểm triết lý lẫn đạo lý.
Luận tạng giải thích tiến trình của tái sanh trong nhiều cảnh giới sau khi chết không có một thứ gì mất đi từ kiếp này qua kiếp khác. Sự giải thích này hỗ trợ lý thuyết về Nghiệp và Tái Sanh. Nó cũng đem lại nhiều chi tiết phong phú về tâm, về những yếu tố của sức mạnh tinh thần và vật chất, đặc tính và nguồn gốc của vật, sự tương quan giữa vật và tâm.
Trong bộ luận Abhidhamma Sangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), một tác phẩm Luận Tạng, trình bày khái quát về Định Luật của Lý Nhân Duyên, với phần mô tả về sự tương quan của các nguyên nhân mà không tìm thấy tại một học thuyết nào của nhân loại trên thế giới. Vì sự phân tích và trình bày sâu xa, Luận tạng không phải là một đề tài hời hợt để cho người đọc chỉ phớt qua mà hiểu được.
Đến một mức độ nào chúng ta có thể so sánh được tâm lý học hiện đại với những lý giải của Luận Tạng? Tâm lý học hiện đại chỉ giới hạn cho đến nay trong các lãnh vực của Luận Tạng về những vấn đề tâm thức - tư tưởng, tiến trình của tư tưởng, và các tâm sở.
Sự khác biệt là Luận Tạng không chấp nhận quan niệm về linh hồn. Chưa có nguồn tư liệu nào có được sự phân tích về bản chất của tâm thức như trong Luận Tạng. Cả đến những nhà tâm lý học hiện đại cũng vẫn mờ mịt về những vấn đề như các chập tư tưởng (Javana Citta) được trình bày trong Luận tạng. Tiến Sĩ Graham Howe, một nhà Tâm Lý Học nổi tiếng của Harley Street, viết trong tác phẩm "Khoa Giải Phẫu Vô Hình" của ông như sau:
'Nhiều nhà tâm lý học, trong công cuộc nghiên cứu của họ, như nhà Tâm Lý Học C.G. Jung tiền phong trong lãnh vực này, đã thấy rằng chúng ta rất gần gữi với Đức Phật. Chỉ đọc một ít về Phật Giáo là đã thấy người Phật Tử từ hơn hai ngàn năm trăm năm đã biết nhiều về những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta hơn người ta tưởng. Họ đã nghiên cứu từ lâu những vấn đề này và đã tìm được những câu giải đáp. Chúng ta bây giờ chỉ là khơi lại Trí Tuệ Cổ Xưa mà Phương Đông đã có.
Một số học giả quyết đoán là Luận Tạng không phải là giáo lý của Đức Phật, nhưng nó phát xuất từ những chú giải về giáo lý căn bản của Đức Phật. Người ta nói những chú giải này là những tác phẩm của các vị sư học giả có tầm vóc lớn. Tuy nhiên, theo truyền thống, người ta qui trọng tâm của Luận Tạng về chính Đức Phật.
Những nhà chú giải ghi rằng để nhớ ơn mẫu thân Ngài tái sanh làm chư thiên ở cõi trời, Đức Phật thuyết giảng về Luận Tạng cho mẹ Ngài cùng với các chư thiên trong ba tháng. Phần chính trong giáo lý cao thâm chẳng hạn như thiện pháp và bất thiện pháp đã được Đức Phật nhắc lại nhiều lần cho Ngài Xá Lợi Phất. Vị Đại Đệ Tử này đã tỷ mỷ ghi lại lời dạy của Đức Phật và sau này đã biên soạn thành sáu cuốn.
Từ thời thượng cổ, đã có những cuộc tranh luận về việc Đức Phật có dạy Luận Tạng không. Trong khi các cuộc bàn cãi này có thể gây chú ý về mục đích văn học, nhưng điều quan trọng cho chúng ta là kinh nghiệm và hiểu thấu được những sự thật miêu tả trong Luận Tạng. Ta sẽ chứng nghiệm đưọc rằng những chân lý thâm sâu đầy xác chứng như vậy chỉ có thể xuất phát từ một nguồn giác ngộ tối thượng, từ một Đức Phật. Đa số những gì dung chứa trong Luận Tạng cũng tìm thấy trong Kinh Tạng, và những bài thuyết giảng này chưa bao giờ được nghe thấy cho đến khi nghe được từ kim khẩu Đức Phật. Cho nên, những ai cho là Luận Tạng không do nơi Đức Phật thì cũng phải nói là Kinh Tạng không phải của Đức Phật. Lẽ dĩ nhiên, nhận xét trên đây không cung cấp đủ bằng cớ.
Theo truyền thống của Nguyên Thủy, cốt lõi, nền tảng và cơ bản chủ yếu của Luận Tạng đều do nơi Đức Phật và phần sắp xếp và phân loại là công trình của các đệ tử Ngài làm sau này. Điều quan trọng nhất là cốt lõi. Đó là điều mà chúng ta phải tự chứng nghiệm. Rõ‚ ràng chính Đức Phật đã tự mình sử dụng kiến thức của Luận Tạng để làm sáng tỏ những vấn đề tâm lý, siêu hình và triết lý. Ngụy biện về việc phải hay không phải Đức Phật đã dạy Luận Tạng không giúp ích gì chúng ta trong việc tìm hiểu chân lý.
Câu hỏi đặt ra là Luận Tạng có thật thiết yếu cho việc thực hành Pháp không. Câu trả lời là thiết yếu hay không thiết yếu là do nơi hành giả. Mức độ hiểu biết, tính khí, và phát triển tinh thần của mỗi người đều khác nhau. Một cách lý tưởng thì tất cả các khả năng tinh thần phải được hài hòa, nhưng một số người lại chỉ bằng lòng với cách tu tập căn cứ theo niềm tin, một số khác lại giỏi về việc phát triển tuệ giác (minh sát tuệ). Luận Tạng rất hữu ích cho những ai muốn hiểu Pháp sâu rộng và chi tiết. Luận Tạng giúp việc phát triển tuệ giác (minh sát tuệ) qua ba đặc tính của cuộc sống: vô thường, bất-toại-nguyện và vô ngã. Nó không những giúp ích trong lúc tu tập thiền định, mà cũng giúp ích ngoài giờ tu tập trong suốt thời gian làm những công việc linh tinh hàng ngày ngoài đời. Học nơi Luận Tạng chúng ta thu được lợi ích lớn lao từ khi chúng ta chứng nghiệm chân lý tuyệt đối. Ngoài ra, việc hiểu thấu Luận Tạng rất hữu ích cho những ai muốn dạy giáo lý và giảng Pháp. Tóm lại, ý nghĩa thật sự của các thuật ngữ Phật Giáo quan trọng như Pháp, Nghiệp, Luân Hồi, Hành, Duyên Sinh và Niết Bàn, không thể hiểu được nếu không có kiến thúc về Vi Diệu Pháp.
DANH VÀ SẮC (NAMA-RUPA)
Theo Phật Giáo, đời sống là sự phối hợp giữa tâm (danh) và thân (sắc). Tâm gồm sự phối hợp của cảm giác (thọ), nhận thức (tưởng), hoạt động có tác ý (hành) và thức. Sắc (thân) là sự phối hợp của bốn thành phần: đất nước, gíó lửa.
Sự sống là sự kết hợp của tâm và thân. Sự suy tàn là do thiếu sự phối hợp của tâm và sắc. Chết là sự xa lìa giữa tâm và thân. Tái sanh là sự tái phối hợp của tâm và thân. Sau khi thân xác chết đi, tâm lực tái phối hợp và nắm giữ sự phối hợp mới trong một dạng thức vật chất khác và tạo điều kiện cho một sự sống khác.
Sự tương quan giữa danh và sắc giống như sự tương quan của bình điện với bộ máy xe hơi. Bình điện giúp cho máy nổ. Máy giúp nạp điện vào bình điện. Sự phối hợp của bình điện và máy làm xe chạy. Cũng như vậy, sắc giúp tâm điều động và tâm giúp sắc hoạt động.
Phật Giáo dạy rằng sự sống không phải chỉ đơn độc yếu tố vật chất và tiến trình của cuộc sống tiếp diễn hay trôi chẩy do kết quả của tương quan nhân quả. Những yếu tố vật chất và tinh thần hình thành chúng sanh từ những vi khuẩn (amoeba) đến con voi, con người, đều đã hiện hữu từ trước dưới một dạng thức khác. Mặc dù một số người vẫn quan niệm là sự sống bắt nguồn trong vật chất mà thôi, nhưng những nhà khoa học lừng danh đã chấp nhận là tâm (thức) có trước để đời sống bắt nguồn. Trong Phật Giáo, ý niệm này được gọi là "sự tái tiếp nối của nguồn tâm thức (kiết sanh thức)".
Mỗi người trong chúng ta, theo ý nghĩa rốt ráo, không có gì ngoài danh và sắc, một tập hợp (tâm và thân) của các hiện tượng tinh thần và vật chất. Ngoài những thực thể trên tạo nên tập hợp tâm (danh) và thân, không có cái ta và cũng không có linh hồn. Phần tâm của tập hợp là cái kinh nghiệm được đối tượng. Phần sắc không kinh nghiệm được thứ gì cả . Khi thân xác bị thương, thân không cảm thấy đau đớn mà chính là phía tinh thần cảm thấy đau đớn. Khi chúng ta đói, bao tử không thấy đói, mà tâm ta cảm thấy đói. Tuy nhiên, tâm ta không ăn được để khỏi đói. Tâm và các yếu tố của nó, làm thân xác tiêu hóa đồ ăn. Cho nên cả tâm (danh) lẫn sắc đều không tự nó có sức mạnh hiệu quả gì. Cái này tùy thuộc cái kia và hỗ trợ cho nhau. Tâm và sắc trỗi lên do các điều kiện và tàn ngay đi, sự kiện trên tiếp diễn không ngừng trong sự sống của chúng ta. Bằng nghiên cứu và chứng nghiệm các thực thể trên, chúng ta sẽ đi vào tuệ giác để thấu hiểu: (1) Chúng ta thực sự là gì; (2) Chúng ta thấy gì chung quanh chúng ta; (3) Tại sao và thế nào chúng ta phản ứng với những gì trong và ngoài chúng ta; (4) Và chúng ta nên mong muốn gì để đạt tới mục tiêu tinh thần.
Đạt được tuệ giác về bản chất của sự sống tâm - vật lý là thấu hiểu rằng đời sống chỉ là một ảo ảnh, một ảo tưởng, một bọt nước, chỉ là một tiến trình hợp tan hay sinh diệt. Bất cứ gì hiện hữu, đều sanh khởi từ những nguyên nhân và điều kiện.
BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ (TỨ DIỆU ĐẾ)
Tại sao chúng ta ở đây? Tại sao chúng ta không có hạnh phúc với đời sống của chúng ta? Nguyên nhân của bất-toại-nguyện là gì? Làm sao ta có thể chấm dứt bất toại nguyện và đạt an lạc trường cửu?
Giáo lý của Đức Phật căn cứ vào Bốn Chân Lý Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Muốn hiểu những chân lý này là phải hiểu và đi sâu vào bản chất thực sự của sự sống, kể cả kiến thức đầy đủ về chính bản thân mình. Khi chúng ta thấy rằng tất cả các hiện tượng của mọi vật chỉ là tạm bợ, phải chịu khổ đau, trống rỗng không có thực thể, chúng ta mới nhận thức sự thật và hạnh phúc bền vững không thể tìm thấy được trong của cải vật chất và thành tựu thế gian, và hạnh phúc thực sự chỉ đạt được bằng tâm thanh tịnh và sự rèn luyện trí tuệ.
Tứ Diệu Đế là một khía cạnh rất quan trọng trong giáo lý của Đức Phật. Đức Phật dạy rằng vì không hiểu Tứ Diệu Đế nên chúng ta cứ phải trôi lăn trong vòng sinh tử. Ngay trong thời Pháp đầu tiên Ngài giảng về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo trong Kinh Chuyển Pháp Luân cho năm thầy tu tại Vườn Lộc Uyển ở Sarnath. Tứ Diệu Đế là gì? Đó là:
- Chân Lý về Khổ
- Chân Lý về Nguyên Nhân của Khổ
- Chân Lý về Chấm Dứt Khổ
- Chân Lý về Con Đuờng dẫn đến chấm dứt Khổ
Từ ngữ Dukkha (Khổ) trong Phạn Ngữ có nhiều nghĩa. Từ ngữ "Dukkha" này được phiên dịch là Khổ hay bất toại nguyện, nhưng từ ngữ dùng trong Tứ Diệu Đế có nghĩa sâu rộng hơn. Ngoài nghĩa thông thường là Khổ, Dukkha còn bao gồm ý niệm thâm sâu hơn như sự bất toàn, đau đớn, vô thường, bất hòa, bất an, bứt rứt, hoặc cảm thấy không hoàn toàn, không đầy đủ (mặc cảm). Với tất cả những ý nghĩa trên, Dukkha bao hàm khổ về vật chất và về tinh thần: sanh, già, bệnh, chết, phải gần với những gì không thích, phải xa lìa những gì ưa thích, không đạt được điều mong cầu. Tuy nhiên, nhiều người không hiểu được rằng ngay trong những lúc vui và hạnh phúc, vẫn có khổ vì tất cả những lúc đó cũng đều vô thường và sẽ qua đi khi các điều kiện thay đổi. Cho nên chân lý về Khổ, bao gồm cả kiếp sống, trong tất cả các nỗi vui buồn, trong mọi khía cạnh của cuộc đời chúng ta. Chừng nào mà chúng ta còn sống là chúng ta còn phải lệ thuộc hoàn toàn vào chân lý này.
Đối với một số người cách nhìn đời là khổ như thế có vẻ hơi yếm thế. Đó không phải là bi quan mà là cách nhìn đời một cách thực tiễn. Nếu một người bị bệnh mà không nhìn nhận là mình bệnh, không tìm phương cách chữa trị thì ta sẽ không cho thái độ tinh thần của người đó là lạc quan mà là người rồ dại. Cho nên dù lạc quan hay bi quan nếu không hiểu rõ bản chất thực sự của sự sống ta không thể nào hành xử đúng trước những khó khăn trong cuộc đời. Tứ Diệu Đế khởi đầu xác nhận khổ, tiếp đến phân tích nguyên nhân khổ và cách diệt khổ. Nếu như Đức Phật ngưng lại tại Chân Lý Khổ, người ta có thể cho rằng Phật Giáo nhận biết có khổ mà không có phương sách chữa trị; nếu như vậy nhân loại sẽ ở trong tình trạng vô vọng. Nhưng Đức Phật không chỉ xác nhận Chân Lý về Khổ, Đức Phật đi đến phân tích nguyên nhân của nó, và dạy phương cách chữa trị nó. Làm sao ta có thể nói Phật Giáo bi quan nếu đã đưa ra được phương cách diệt khổ? Tóm lại, đó là một giáo lý tràn đầy niềm hy vọng.
Ngoài ra, dù Khổ Đế là một chân lý, đó không có nghĩa là không có hạnh phúc, không có vui thích hay lạc thú trong cuộc sống. Đức Phật dạy có nhiều phương pháp để đạt hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên trong phần lý giải cuối cùng, thì tựu trung mọi lạc thú hay hạnh phúc mà ta kinh nghiệm trong đời sống đều là không vĩnh cửu (vô thường). Chúng ta có thể hưởng hạnh phúc, hoặc có người thương yêu kề bên, hoặc chúng ta vui sống với tuổi thanh xuân và sức khỏe. Không chóng thì chầy tình trạng trên cũng sẽ thay đổi và chúng ta phải chịu khổ đau. Cho nên mỗi khi cảm thấy vui thú khi ta hưởng hạnh phúc do bất cứ lý do nào, chúng ta không nên bám níu vào tình trạng hạnh phúc ấy, hoặc bị chệch hướng, và quên đi phương cách thực hành để đạt Giải Thoát hoàn toàn.
Nếu chúng ta mong muốn tự mình thoát khỏi khổ đau, trước hết phải tìm ra nguyên nhân. Theo Đức Phật, ái dục hay tham đắm là nguyên nhân của khổ đau. Đây là Diệu Đế Thứ Hai. Con người khao khát được lạc thú, khao khát vật chất, khao khát cuộc sống trường cửu, và khi thất vọng, khao khát được an giấc ngàn thu. Họ không chỉ dính mắc vào dục lạc, của cải và quyền thế, mà còn bám níu vào ý kiến, lập trường, quan điểm, ý niệm và tín ngưỡng. Và ái dục thì liên hệ với vô minh, có nghĩa là không nhìn sự vật đúng như chúng thế nào, hoặc không hiểu thực chất của kinh nghiệm và sự sống. Dưới ảo tưởng của cái Ta, và vì không chứng nghiệm được Vô-Ngã, con người bám níu vào những thứ vô thường, thay đổi, tàn lụi. Khi không thỏa mãn được tham ái đối với những thứ này sẽ đưa tới thất vọng và khổ đau .
SỰ NGUY HIỂM CỦA VỊ KỶ
Tham ái là ngọn lửa đang cháy trong mỗi chúng sinh: mỗi hành động đều thúc đẩy bỏi lòng ham muốn .
Tham ái đi từ cái đòi hỏi sinh lý đơn giản của thú vật đến cái ham muốn phúc tạp, và thường là nhân tạo của con người văn minh. Để thỏa mãn tham dục, thú vật săn mồi giết tróc lẫn nhau, và con người thì đánh đập, giết tróc, lừa gạt, dối trá và sử dụng đủ mọi hình thức hành động bất thiện đối với nhau. Tham ái là một sức mạnh tinh thần mạnh mẽ thể hiện trong mọi dạng thức sự sống, và là nguyên nhân chính của những thói xấu. Chính tham ái dẫn đến những tái sanh tiếp diễn trong vòng luân hồi.
Một khi nhận thức được nguyên nhân của khổ đau, chúng ta có thể chấm dứt được khổ đau. Vậy thì, làm sao ta có thể chấm dứt được khổ đau. Hãy loại bỏ khổ đau tận gốc rễ bằng cách diệt tham ái ngay trong tâm. Đó là Diệu Đế Thứ Ba. Trạng thái khi tham ái không còn nữa gọi là Nibbana (Niết Bàn). Từ ngữ Nibbana gồm có "Ni" và "vana", có nghĩa là sự thoát khỏi hay chấm dứt tham ái. Đó là một trạng thái thoát khỏi khổ đau và vòng sanh tử luân hồi. Đó là trạng thái không bị lệ thuộc bởi định luật sanh, bệnh, gìà và chết. Trạng thái này quá siêu phàm không ngôn ngữ nhân gian nào có thể diễn tả được. Niết Bàn là không sanh, không khởi, không tạo, không thành. Nếu không có cái không sanh, không khởi, không tạo, không thành này thì việc thoát khỏi thế gian do duyên hợp không thể làm được.
Niết Bàn vượt ngoài khả năng của luận lý và tư duy (không thể nghĩ bàn). Chúng ta có thể bàn cãi sâu rộng về Niết Bàn hay sự thật tối thượng nhưng đó không phải là phương cách để có thể thấu hiểu được nó. Muốn hiểu và nhận thức rõ được chân lý Niết Bàn, việc cần thiết cho chúng ta là phải đi vào Bát Chánh Đạo, chuyên cần và kiên nhẫn rèn luyện và tự thanh tịnh hóa. Qua sự phát triển và viên mãn tinh thần, chúng ta mới có thể chứng nghiệmđược Đế Thứ Ba.
Bát Chánh Đạo là Diệu Đế thứ tư dẫn đến Niết Bàn. Đó là một lối sống gồm có tám yếu tố. Đi trên con đường này giúp chúng ta tìm thấy được sự chấm dứt khổ đau. Vì Giáo lý của Đạo Phật hợp lý và vững chắc bao gồm mọi khía cạnh cuộc đời nên con Đường cao quý này cũng là kim chỉ nam dẫn đến một đời sống hạnh phúc. Tu tập Bát Chánh Đạo đem lợi lạc cho chính mình và cho người khác, Bát Chánh Đạo không phải là con Đường chỉ dành riêng cho người Phật Tử tu tập, mà cả cho bất cứ những ai có hiểu biết, bất kể tín ngưỡng thuộc tôn giáo nào.
BÁT CHÁNH ĐẠO - TRUNG ĐẠO
Đây là Con Đường để sống một đời đạo hạnh mà không đi tới cực đoan.
Một khía cạnh nổi bật trong Giáo Lý của Đức Phật là việc áp dụng Bát Chánh Đạo như một lối sống cao thượng. Bát Chánh Đạo cũng được gọi là Trung Đạo. Đức Phật khuyên các đệ tử tu tập con đường này để tránh cái cực đoan về hưởng lạc và khổ hạnh. Trung Đạo là một cách sống đứng đắn, không chủ trương chấp nhận mệnh lệnh do một người nào đó ngoài chính mình. Người tu tập Trung Đạo, hành trì giới hạnh, không phải do sợ hãi một sức mạnh siêu nhân bên ngoài, mà do giá trị thực chất theo sau mỗi hành động. Người đó chọn kỷ luật tự giác để đạt một cứu cánh nhất định: đó là sự tự thanh tịnh hóa.
Trung Đạo là một chương trình trau dồi tri thức và tiến bộ nội tâm. Một người có thể tiến bộ thực sự về đạo hạnh và tuệ giác bằng cách tu tập con Đưòng này, chứ không phải bằng cách thực hành các nghi lễ và cầu nguyện bên ngoài. Theo Đức Phật, người sống theo đúng Pháp, sẽ được huớng dẫn và che chở bởi chính Định Luật này. Một người khi sống đúng theo Pháp, người đó cũng sống hòa hợp với đinh luật thiên nhiên.
Đức Phật khuyến khích mỗi Phật Tử nên uốn nắn nếp sống theo khuôn khổ Bát Chánh Đạo do Ngài giảng dạy. Người nào biết điều chỉnh đời sống theo con đường cao thượng này sẽ thoát khỏi thống khổ và tai ương ngay trong kiếp sống này và những kiếp sau. Người đó có thể mở mang tâm ý bằng cách tránh dữ làm lành.
Bát Chánh Đạo có thể so sánh với bản đồ chỉ đường. Giống như một người du hành cần có bản đồ để đi tới mục tiêu, tất cả chúng ta đều cần sử dụng Bát Chánh Đạo để đạt đến Niết Bàn, mục tiêu tối hậu của đời sống con người. Muốn đạt cứu cánh này, có ba mặt của Bát Chánh Đạo mà người tu tập cần phải phát triển: đó là Giới, Định, và Huệ. Trong khi ba phương diện này cần phải được vun bồi cùng một lúc thì cường độ huân tập một trong ba lãnh vực ấy có thể thay đổi tùy theo căn cơ phát triển của mỗi người. Hành giả phải trau dồi Giới trước nhất, có nghĩa là các hành động của mình phải đem lợi ích cho các chúng sinh khác. Người đó làm như vậy do tin tưởng triệt để vào việc giữ giới như không giết hại, phỉ báng, trộm cắp, tà dâm hay dùng các chất say. Khi trau dồi giới hạnh người đó có thể kiểm soát tâm ý dễ dàng, do đó vun bồi được định lực. Cuối cùng với định tâm phát triển, trí huệ sẽ khởi sanh.
PHÁT HUY TỪNG BƯỚC MỘT
Với trí huệ vô luợng vô biên, Đức Phật hiểu rằng không phải tất cả mọi người đều cùng có một khả năng có thể đạt ngay tới mức viên mãn về tâm linh. Cho nên Ngài vận dụng Bát Chánh Đạo để phát huy lối sống tinh thần từng bước bằng phương cách thực tiễn. Ngài biết rằng không phải mọi người đều có thể trở nên toàn bích ngay trong kiếp sống này. Ngài dạy Giới Định, Huệ phải được huân tập qua nhiều kiếp sống với nỗ lực không ngừng. Cuối cùng Bát Chánh Đạo sẽ dẫn đến mức đạt đưọc sự an lạc tối thượng không còn bất- toại- nguyện nữa.
ĐỜI SỐNG CHÍNH ĐÁNG
Bát Chánh Đạo gồm có tám yếu tố sau:
GIỚI: Chánh Ngữ , Chánh Nghiệp, Chánh Mạng
ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định
HUỆ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy
Chánh Kiến là gì? Chánh Kiến được giải thích là có sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế. Nói một cách khác là hiểu sự vật đúng như chúng là vậy. Chánh Kiến cũng có nghĩa là hiểu biết bản chất của các thiện Nghiệp và bất thiện Nghiệp, và cũng ảnh hưởng của chúng đối với thân, khẩu ý như thế nào. Do hiểu Nghiệp, ta sẽ học được cách tránh việc ác, làm việc lành, tạo kết quả tốt đẹp trong đời sống. Khi một người đạt được Chánh Kiến, người ấy sẽ hiểu được Ba Đặc Tính của Sự Sống (Vô Thuờng, Khổ và Vô Ngã), và hiểu được định luật của Lý Nhân Duyên. Người có Chánh Kiến viên mãn là người thoát khỏi vô minh, và do bản chất của sự giác ngộ này, sẽ nhổ hết gốc rễ các tội lỗi trong tâm ý và đạt giải thoát. Mục đích cao thượng của một hành giả tu Phật là trau dồi Trí Tuệ và đạt được Chánh Kiến về chính bản thân, về đời sống và về tất cả các hiện tượng.
Một người có Chánh Kiến cũng phát triển hoàn mãn Chánh Tư Duy. Yếu tố này đôi khi được g?i là "Chánh Giải Pháp", "Nguyện Vọng Chân Chánh", hay "Suy Tư Chân Chánh". Nó đưa đến trạng thái tinh thần, có công năng loại bỏ những tà kiến hay khái niệm sai lầm và bồi dưỡng các yếu tố khác nhằm tiến đến Niết Bàn. Yếu tố này có hai công dụng cùng một lúc : loại bỏ các tư tưởng tội lỗi và phát triển các tu tưởng trong sạch.Chánh Tư Duy rất quan trọng vì tư tưởng của một người có thể làm cho người ấy có thể thanh tịnh hay bất tịnh.
Chánh Tư Duy có ba khía cạnh. Trước nhất, ta phải duy trì thái độ buông bỏ lạc thú thế gian, không ích kỷ bám níu vào chúng. Ta không nên có tư tưởng vị kỷ mà nên nghĩ đến phúc lợi của người khác. Thứ hai, ta phải luôn duy trì tâm từ ái, thiện chí, và bao dung, ngược lại với sân hận, ác ý, hay thù nghịch. Thứ ba, ta nên hành động với tác ý không làm hại ai, và từ bi với mọi chúng sanh, ngược lại với tính hung bạo và thiếu tôn trọng kẻ khác. Theo đà tiến trên con đuờng tu tập, tâm ta sẽ càng ngày càng thấm nhuần tính nhân ái, hiền hòa, vị tha, và lòng ta sẽ tràn đầy tình thương yêu và bi mẫn.
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy là các yếu tố Trí Tuệ dẫn đến giới hạnh trong sạch. Có ba yếu tố trong giới hạnh: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng. Chánh Ngữ tôn trọng chân lý và tôn trọng phúc lợi của người khác. Đó có nghĩa là tránh nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thô ác, và nói chuyện vô ích. Chúng ta thường coi thường lời nói và có khuynh hướng không để ý đến khả năng của lời nói. Nhưng đôi khi chúng ta cũng bị đau đớn hoặc cũng được phấn khởi bởi lời nói của người nào đó. Có câu: một lời nói tàn nhẫn gây tổn thương còn hơn vũ khí trong khi một lời nói dịu dàng có thể cảm hóa trái tim, và trí óc của kẻ tội phạm bướng bỉnh chai đá nhất. Cho nên để phát huy một xã hội hòa hợp, chúng ta nên kiểm soát, trau dồi và sử dụng lòi nói một cách tích cực. Chúng ta nói những lòi trung thực, hài hòa, thân ái, và ý nghĩa. Có lần Đức Phật dạy: "lời nói dịu dàng như mật ngọt, lời nói ngay thẳng đẹp như cánh hoa, lời nói sai trái như rác rưới".
Yếu tố tiếp theo của giới hạnh là Chánh Nghiệp. Chánh Nghiệp tôn trọng đời sống, tôn trọng tài sản, tôn trọng sự giao tế cá nhân. Nó tương ứng với ba điều đầu tiên trong năm giới tu tập của mỗi người Phật Tử, đó là tránh xa sự giết hại, trộm cắp, và tà dâm. Đời sống quý giá với tất cả mọi người, ai cũng run sợ trước hình phạt, ai cũng sợ chết, và quý trọng mạng sống. Vậy nên, chúng ta không nên tước đoạt mạng sống mà chúng ta không thể cho được, và không nên làm hại các chúng sanh khác. Tôn trọng tài sản có nghĩa là không lấy bất cứ gì không được phép lấy bằng cách trộm cắp, lừa đảo và ép buộc. Tôn trọng tương quan cá nhân có nghĩa là không nên ngoại tình và tà dâm. Điều này quan trọng vì nó duy trì tình thương và tin tưởng giữa những người thân yêu của mình, làm xã hội trở thành một nơi tốt đẹp hơn để chung sống.
Chánh Mạng là yếu tố của đức hạnh liên quan đến cách mưu sinh trong xã hội. Nó là sự mở rộng của Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp nhằm tôn trọng sự thật, mạng sống, tài sản, và sự tuơng quan cá nhân. Chánh Mạng có nghĩa là chúng ta nên mưu sinh mà không vi phạm những nguyên tắc của giới đức. Người Phật Tử nên tránh năm loại sanh kế: buôn bán nô lệ, buôn bán vũ khí, buôn bán súc vật để đem giết, buôn bán rượu và ma túy, và buôn bán độc dược. Một số người nói rằng vì sanh nhai nên phải buôn bán các nghề trên, cho nên họ không có gì sai quấy cả . Nhưng lý luận bào chữa này hoàn toàn vô căn cứ vì nếu việc này được chấp nhận thì những kẻ trộm cắp, giết người, cướp bác, buôn lậu và lừa đảo cũng có thể dễ dàng mà nói rằng họ làm các việc phi pháp cũng chỉ vì mưu sinh, như vậy lối sống của họ có gì là sai quấy.
Một số người tin rằng câu cá, săn thú để tiêu khiển và giết súc vật để lấy thực phẩm không trái với giới cấm của người Phật Tử. Đây cũng là một quan niệm sai lầm phát sanh do thiếu kiến thức về Pháp. Những hành đ?ng trên không chính đáng và chỉ gây đau khổ cho chúng sanh khác. Trong những hành động ấy, kẻ nào bị thiệt hại nhất chính là kẻ đã làm điều bất thiện. Duy trì cuộc sống bằng những phương tiện sai lầm không phù hợp với giáo lý của Đức Phật. Một lần Đức Phật dạy: "Nếu phải sống đến trăm tuổi cuộc đời buông lung và không tự chế, tốt hơn, quả thực vậy, thà sống một ngày đời sống đạo hạnh và biết quán tưởng (Kinh Pháp Cú, Câu 103). Thà chết là một người đức hạnh và đáng kính còn hơn sống là người tội lỗi.
Ba yếu tố còn lại của Bát Chánh Đạo là các yếu tố phát triển trí tuệ bằng cách thanh lọc tâm ý. Đó là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Hành tập những yếu tố này giúp ta củng cố và kiểm soát được tâm, giữ vững ý chí tiếp tục làm điều thiện gíúp tâm chuẩn bị chứng ngộ được Chân Lý, mở cửa đến giải thoát, đến Giác Ngộ.
Chánh Tinh Tấn là trau dồi thái độ tích cực và nhiệt tình trong công việc làm, hoặc trong nghề nghiệp,học hành, hoặc trong việc hành đạo. Với nhiệt tâm bền bỉ, và quyết tâm hoan hỷ, ta mới thành công trong việc ta làm. Chánh Tinh Tấn có bốn khía cạnh: hai khía cạnh liên quan đến bất thiện pháp và hai liên quan đến thiện pháp. Trước tiên, tinh tấn loại bỏ điều bất thiện đã phát sinh, và thứ nhì là ngăn chặn điều bất thiện phát sinh. Thứ ba là phát triển điều thiện chưa phát sinh, và thứ tư làduy trì điều thiện đã phát sinh. Áp dụng Chánh Tinh Tấn vào đời sống, chúng ta có thể tiết giảm hay loại bỏ tư tưởng bất thiện, tăng truởng và quyết tâm huân tập các tư tưởng thiện lành thành một phần tự nhiên trong tâm ý chúng ta.
Chánh Tinh Tấn liên hệ khăng khít với Chánh Niệm. Trong Đạo Phật tu Tập Chánh Niệm là tối cần thiết. Đức Phật dạy Chánh Niệm là con đuờng duy nhất để chấm dứt khổ đau. Chánh Niệm phát triển do sự chú tâm vào bốn lãnh vực đặc biệt (Tứ Niệm Xứ). Đó là dùng Chánh Niệm để ghi nhận về thân (oai nghi, hít thở vân vân..), về thọ (lạc, khổ, trung tính), về tâm (tham, sân, si hay không), và về pháp (các đối tượng của tâm như chướng ngại của tâm định hay Tứ Diệu Đế, vân vân.). Chánh Niệm rất cần thiết ngay cho đời sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn phải chú tâm vào các hành động, cảm nghĩ và tư tưởng cũng như vào hoàn cảnh chung quanh chúng ta. Tâm luôn luôn phải sáng suốt, ý tứ không phóng dật hay mờ mịt và phiền muộn.
Trong khi Chánh Niệm là hướng tâm chú ý đến thân, cảm nghĩ (thọ), tâm và pháp (các đối tượng của tâm), hay ghi nhận các sự việc khác, nói một cách khác đó là đem tâm chú ý hướng đến đối tượng ta chọn, thì Chánh Định là dán chắc sự chú tâm trên đối tượng, không để tâm bị xao lãng. Định là công phu hành trì để phát triển khả năng gom tâm thành một điểm (nhất điểm tâm) trên một đối tượng duy nhất về vật chất hay về tinh thần. Tâm hoàn toàn tập trung vào đề mục, không bị phân tán, giao động, bất an hay hôn trầm. Tu tập duới sự huớng dẫn của một vị thầy kinh nghiệm, Chánh Định đem lại hai điều lợi ích. Thứ nhất, tinh thần và thể chất được lành mạnh, thoải mát, hoan hỉ, bình tĩnh, và tịch tịnh. Thứ hai, Chánh Định chuyển tâm trở thành một dụng cụ có khả năng nhìn sự vật đúng như chúng là, và chuẩn bị cho tâm đạt trí tuệ.
Bát Chánh Đạo là chân lý quan trọng thứ tư do Đức Phật dạy. Như một lương y giỏi về tâm linh, Ngài đã tìm ra căn bệnh gây tai họa cho tất cả mọi thứ trong đời sống, đó là Khổ hay Bất-toại-nguyện. Rồi Ngài tìm ra nguyên nhân bất-toại-nguyện là do lòng tham vị kỷ và bám níu. Ngài khám phá ra có một phưong cách chữa khỏi bệnh này: Niết Bàn, trạng thái chấm dứt tất cả bất-toại-nguyện và toa thuốc đó là Bát Chánh Đạo. Khi một bác sĩ giỏi chữa một bệnh nhân mắc bệnh nặng, toa thuốc chữa trị không những về thân bệnh mà còn về tâm bệnh nữa. Bát Chánh Đạo, con đường chấm dứt khổ đau, là một phương pháp trị liệu có hệ thống chuyên chữa bệnh luân hồi sinh tử bằng cách rèn luyện Thân và Khẩu, phát triển tâm ý, và thay đổi toàn bộ mức độ hiểu biết và giá trị tư tưởng của một con người. Bát Chánh Đạo chỉ dạy đường lối đạt đến mức toàn hảo về tâm linh, và giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau.
MỌI VẬT ĐỀU THAY ĐỔI
Cái gì có hiện hữu đều thay đổi và cái gì không thay đổi thì không hiện hữu.
Nhìn vào đời sống, chúng ta nhận thấy mọi thứ hiện hữu không ngừng thay đổi giữa những cực đoan và tương phản. Ta chứng kiến mọi thăng trầm, mọi thành công và thất bại, mọi được thua; ta kinh nghiệm mọi vinh nhục, mọi khen chê; ta đã cảm thấy tâm ta đáp ứng như thế nào trước tất cả những nỗi vui buồn ấy, thích thú và chán chường, thất vọng và thỏa mãn, sợ hãi và hy vọng. Những luồng sóng hùng mạnh của cảm xúc đó đem chúng ta lên cao, dìm chúng ta xuống đáy, không mấy chốc chúng ta chẳng còn an lạc, rồi chúng ta lại bị đẩy đưa bởi sức mạnh của luồng sóng mới. Làm sao chúng ta có thể đứng vững vàng trên đầu những ngọn sóng ấy? Nơi đâu chúng ta sẽ xây dựng được lâu đài của cuộc sống giữa cái chao đảo không bao giờ ngừng nghỉ của đại dương?
Đó chính là một thế giới mà niềm vui thì ít mà chỉ thấy nhiều thất vọng, chán chường, và thất bại. Đó là một thế giới mà niềm vui lại rất ít giữa bệnh não, thất vọng và tử thần. Đó là một thế giới mà chúng sanh mới giao tiếp với ta bằng niềm vui trìu mến thì ngay sau đó lại cần đến lòng bi mẫn. Với một thế giới như vậy. sự trầm tĩnh rất cần thiết. Đó là bản chất của thế giới mà chúng ta đang sống thân thích với các bạn bè hôm nay nhưng hôm sau họ lại trở thành kẻ thù hãm hại chúng ta.
Đức Phật miêu tả thế giới như một dòng bất tận của sự tái sanh. Mọi thứ đều thay đổi, chuyển hóa liên tục, đột biến không ngừng và như một dòng suối tuôn chảy. Mọi thứ lúc có lúc không. Mọi thứ tuần hoàn hiện hữu rồi lại biến mất khỏi cuộc sống. Mọi thứ đều chuyển động từ lúc sanh đến lúc ch?t. Sự sống là một sự chuyển động liên tục của sự thay đổi tiến đến cái chết. Vật chất (Sắc Pháp) hay các dạng thức vật chất biểu lộ hay không biểu lộ trong đời sống, cũng là một chuyển động không ngừng của sự thay đổi đi đến tàn lụi hoại diệt. Giáo lý về tính chất vô thường của mọi sự vật này là một trọng điểm then chốt của Đạo Phật. Không có gì trên trái đất này có thể chia sẻ được tính chất của sự thật tuyệt đối. Sự thật đó là không thể có cái gì có sanh ra mà không có chết. Bất cứ gì lệ thuộc vào sự duyên hợp thì cũng phải lệ thuộc vào sự tan rã. Thay đổi chính nó là thành phần của mọi thực thể.
Công nhận định luật vô thường, Đức Phật bác bỏ sự hiện hữu của những sự vật trường cửu. Vật chất và tinh thần đều là các ý niệm trừu tượng không thật, thật sự chỉ là những yếu tố luôn thay đổi (Pháp), liên hệ lẫn nhau, sanh khởi tùy thuộc lẫn nhau.
Ngày nay các khoa học gia đều công nhận Đức Phật là người khám phá ra định luật vô thường. Khoa học gia mặc nhận không một thứ gì có thực chất, vững chắc và xác thực trong thế giới này. Mọi sự vật chỉ là cơn lốc của nhiệt lượng, không bao giờ giữ nguyên không thay đổi trong hai giây phút liên tiếp. Cả thế giới rộng lớn này đều bị xoáy vào vòng gió cuốn và cơn lốc của vô thường. Một trong những nguyên lý mặc nhận bởi các khoa học gia là viễn tượng của sự nguội lạnh cực điểm, và theo sau là cái chết hay sự tiêu diệt của mặt trời. Người Phật Tử không bị mất tinh thần vì viễn tượng ấy. Đức Phật đã dạy rằng các vũ trụ hay các chu kỳ của thế giới, cứ tiếp tục trỗi lên và mất đi vô cùng tận. giống như đời sống của con người. Thế giới của chúng ta chắc chắn sẽ có ngày cùng tận. Việc này đã sẩy ra cho những thế giới trước đây, và lại sẽ sẩy ra sau này.
Thế giới là một hiện tượng đang trôi qua. Tất cả chúng ta đều thuộc về thế gi?i của thời gian. Mỗi chữ viết, mỗi viên đá chạm, mỗi bức tranh vẽ, mỗi cấu trúc của nền văn minh, mỗi thế hệ của loài người, tan tác đi qua giống như hoa, lá tàn tạ cuối hè. "Cái gì hiện hữu thì thay đổi, cái gì không thay đổi thì không hiện hữu."
Tất cả chư thiên, con người, thú vật và tất cả dạng thức vật chất - tất cả mọi thú trong vũ trụ - đều bị chi phối bởi luật vô thường. Đạo Phật dạy:
"Sắc Thân như bèo bọt;
Thọ như bóng nước;
Tưởng như ảo giác ;
Hành như thân cây chuối (tách ra chẳng còn gì)
Và Thức như trò múa rối" - (Tương Ưng Bộ Kinh)
-ooOoo-
NGHIỆP LÀ GÌ?
Nghiệp là một luật thiên nhiên khách quan, tác động tùy theo hành vi của chúng ta. Nghiệp là luật tự trong chính nó và không ai là người ban hành luật này. Nghiệp tác động trong lãnh vực riêng của nó, độc lập, như một tác nhân không có sự can thiệp bên ngoài.
Nghiệp có thể nói theo ngôn ngữ giản dị của trẻ thơ, là làm tốt, tốt sẽ đến với bạn, ngay bây giờ, và sau này. Làm xấu, xấu sẽ đến với bạn, ngay bây giờ và sau này.
Nói theo ngôn ngữ đồng áng, Nghiệp có thể được giải nghĩa như sau: nếu bạn gieo hạt giống tốt, bạn sẽ thu hoặch được một mùa gặt hái tốt. Nếu bạn gieo hạt giống xấu, mùa gặt sẽ thất thu.
Nói theo ngôn ngữ khoa học, Nghiệp được gọi là luật nhân quả; mỗi nguyên nhân đều có hậu quả. Một tên khác gọi là luật của nguyên nhân luân lý. Nguyên nhân luân lý tác động trong lãnh vực tinh thần giống như luật vật lý tác động và phản tác động trong lãnh vực vật lý. Trong kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú), Nghiệp được giải thích như sau: "Tâm dẫn đầu mọi pháp, tâm chủ, tâm tạo tác". Nếu bạn nói năng hay hành động với tâm thiện hay bất thiện, hạnh phúc hay bất hạnh sẽ theo bạn như chiếc xe theo dấu chân xe, như bóng vói hình không bao giờ rời nhau.
Nghiệp chỉ đơn giản là một hành động. Trong hệ thống cơ cấu hoạt động của cơ thể, có một sức mạnh hay lực mang nhiều tên gọi khác nhau như bản năng, khuynh hướng, thức vân vân.. Sức mạnh của thiên hướng bẩm sinh đó điều động mỗi chúng sanh luôn trong trạng thái chuyển động về tinh thần lẫn vật chất. Sự chuyển động đó là hành động. Những hành động tái diễn tạo thói quen, và thói quen trở thành cá tính của người đó. Trong Phật Giáo, tiến trình trên gọi là Nghiệp.
Trong ý nghĩa ý nghĩa rốt ráo, Nghiệp bao gồm các tâm hành (hay tác ý) tốt lẫn xấu. Đức Phật nói: "Nghiệp là Tác ý". Nghiệp không phải một thực thể mà là một tiến trình, hành động, năng lực, và sức mạnh. Một số người giải thích lực này là "hành-động-ảnh-hưởng". Nó chính là những gì do chính chúng ta làm phản ứng lại chúng ta. Đau đớn hay hạnh phúc mà con người kinh nghiệm là do kết quả của hành vi, lời nói, và tư tưởng của chính người ấy phản ứng lại. Hành vi, lời nói, và tư tưởng của chúng ta tạo sự thành công hay thất bại, hạnh phúc hay nghèo khổ.
Nghiệp là luật tự nhiên, khách quan, tác động tùy theo hành vi của chúng ta. Nó là một định luật tự tác, không ai ban hành ra nó cả. Nghiệp tác động trong lãnh vực riêng của nó không bị chi phối bởi một tác nhân độc lập, có thẩm quyền nào bên ngoài vào nó cả, nó độc lập như một cơ quan có thẩm quyền điều khiển. Tin là không một đấng thiêng liêng bí ẩn nào chỉ huy hay ban hành thưởng phạt, người Phật Tử không ỷ vào sự cầu nguyện sức mạnh siêu nhiên đó để ảnh hưởng kết quả của Nghiệp. Theo Đức Phật, Nghiệp chẳng phải là tiền định và cũng chẳng phải một loại phán quyết nào đó áp đặt trên chúng ta bằng sức mạnh thần bí mà chúng ta không cưỡng lại được.
Người Phật Tử tin rằng gieo gì gặt nấy. Chúng ta là kết quả những việc chúng ta làm ở quá khứ, và chúng ta sẽ là kết quả của những việc chúng ta làm bây giờ. Nói một cách khác, ta không phải tuyệt đối sẽ là con người trong quá khứ, và cũng sẽ không mãi mãi là con người như hiện tại. Trên đây đơn giản có nghĩa là Nghiệp không cố định. Đức Phật nhấn mạnh là nếu mọi thứ đều cố định thì ý chí, đạo đức và đời sống tinh thần sẽ không còn tự do, chúng ta tùy thuộc vào quá khứ của chúng ta. Trái lại, nếu mọi thứ không cố định, thì việc rèn luyện đạo đức, tinh thần có thể sẽ không có. Cho nên Đức Phật không chấp nhận thuyết cố định tuyệt đối lẫn không cố định tuyệt đối.
NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ NGHIỆP
Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) có nói đến những sự giải thích sai lầm, những quan niệm không hữu lý về Nghiệp, khuyên người trí nên tìm hiểu và bác bỏ những quan điểm sau đây:
1. Tin rằng mọi sự đều do kết quả hành động của những kiếp trước;
2. Tin rằng tất cả là kết quả sáng tạo của một Đấng Tối Thượng Trị Vì; và
3. Tin rằng mọi sự vật xuất hiện không có lý do hay nguyên nhân.
Nếu một người trở thành kẻ giết người, trộm cắp, hay gian dâm, và nếu hành động của kẻ đó là do các hành động trong quá khứ, hay do tạo tác của Đấng Thượng Đế Trị Vì, hay chuyện xẩy ra chỉ vì tình cờ, thì kẻ đó ắt không chịu trách nhiệm về các tội lỗi đã gây ra .
Một giải thích sai lầm nữa về Nghiệp là Nghiệp chỉ tác động trên những người nào đó tùy theo niềm tin của họ. Nhưng số phận của một con người ở kiếp sau không tùy thuộc vào tôn giáo nào mà người đó chọn lựa. Dù theo bất cứ tôn giáo nào, định mệnh của người đó hoàn toàn tùy thuộc vào hành động của thân, khẩu và ý. Dù người đó mang bất cứ nhãn hiệu tôn giáo nào, người đó sẽ được ở một thế giới hạnh phúc trong kiếp sau nếu người đó làm những điều thiện, sống một cuộc đời thuần khiết. Người đó sẽ sanh vào nơi bất hạnh sống một cuộc đời thống khổ, nếu người đó phạm các tội lỗi, nuôi dưỡng tư tư?ng xấu xa trong tâm ý. Cho nên người Phật Tử không bao giờ tuyên bố là chỉ mình mới có diễm phúc lên thiên đàng sau khi chết. Dù theo bất cứ tôn giáo nào, Nghiệp của con người xác quyết số mệnh của mình cả trong đời sống hiện tại lẫn kiếp sau. Giáo Lý về Nghiệp không nêu lên một công lý thực hiện sau khi chết. Đức Phật không dạy Nghiệp Luật để bảo vệ người giàu có và an ủi kẻ khốn cùng bằng cách hứa hẹn hạnh phúc hão huyền sau khi chết.
Theo Đạo Phật, Nghiệp giải thích những bất bình đẳng giữa con người. Các dị biệt này không những do di truyền, môi trường và bản chất mà cũng do Nghiệp hay các hành động của chính mình. Quả thực Nghiệp là một những yếu tố trách nhiệm về sự thành công hay thất bại của đời sống chúng ta.
Vì Nghiệp là một sức mạnh vô hình ta không thể nhìn thấy nó tác động với mắt thường. Muốn tìm hiểu Nghiệp tác dụng ra sao, chúng ta hãy so sánh nó với các hạt giống: kết quả của Nghiệp được tồn trữ trong tiềm thức giống như lá cây, hoa, trái và thân cây tồn trữ trong hạt giống. Trong điều kiện thuận lợi, quả của Nghiệp nẩy sanh giống như khi gặp ẩm ưót và ánh sáng thì lá cây, thân cây sẽ nẩy mầm từ hạt giống nhỏ bé.
Tác dụng của Nghiệp có thể so sánh với một tài khoản trong ngân hàng: một người đạo đức, bác ái và nhân từ trong đời sống hiện tại giống như một người vun bồi Nghiệp thiện của mình. Thiện Nghiệp tăng trưởng của người đó giúp người đó vượt qua các khó khăn của cuộc đời. Nhưng người đó phải thay thế vào đó số tiền người đó đã lấy đi, nếu không một ngày nào đó tài khoản sẽ cạn đi và sẽ bị phá sản. Vậy thì người đó đổ lỗi cho ai đây về tình cảnh nghèo khổ của mình? Người đó chẳng thể đổ lỗi cho người khác và cũng chẳng phải cho là số phận của mình. Chính người đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Cho nên người Phật Tử tốt không thể là kẻ đào tẩu. Người Phật Tử phải đối mặt với cuộc sống đúng như nó là vậy và không trốn tránh nó. Nghiệp lực không thể kiểm soát được bằng sụ thụ động. Gia tăng mạnh mẽ làm các điều thiện rất cần thiết cho hạnh phúc của chính.mình. Trốn tránh là phương sách của kẻ yếu hèn, và kẻ trốn tránh cũng không thể thoát được các hậu quả của Nghiệp Luật.
Đức Phật dạy: "Không nơi nào ta có thể lẩn trốn để tránh khỏi hậu quả của Nghiệp (Kinh Pháp Cú, Câu 127).
KINH NGHIỆM BẢN THÂN
Hiểu được Nghiệp Luật là tự nhận thức được rằng chính chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc hay bất hạnh của mình. Chúng ta là kiến trúc sư Nghiệp của chúng ta. Phật Giáo giải thích con người có đầy đủ khả năng uốn nắn cho Nghiệp của mình, và do đó ảnh hưởng đường hướng cuộc sống của mình. Mặt khác, con người không hoàn toàn là tù nhân phải chịu khuất phục do hành động của mình, và cũng không là nô lệ cho Nghiệp của mình. Con người cũng chẳng phải là một bộ máy tự động phát ra những sức mạnh theo bản năng để nô dịch hóa mình. Con người cũng chẳng phải là một sản phẩm của tạo hóa. Bên trong con người có sức mạnh và khả năng để thay đổi Nghiệp. Tâm của con người mạnh hơn Nghiệp, cho nên Nghiệp luật có thể được làm ra để phục vụ cho con người. Ta không đánh mất hy vọng và nỗ lực để đầu hàng nghiệp lực của mình. Muốn bù đắp lại phản ứng gây ra do nghiệp xấu tích lữy từ trước, ta phải tạo nhiều điều thiện hơn nữa, và thanh lọc tâm ý thay vì cầu nguyện, lễ bái, thực hành lễ nghi hay hành xác để tránh nghiệp quả. Cho nên con người có thể tránh được hậu quả của các hành động tội lỗi nếu hành động khôn ngoan bằng cách sống một cuộc đời cao thượng.
Con người phải dùng vật chất để xúc tiến lý tưởng của mình. Những con cờ của cuộc sống xấu hay tốt trong tay ta. Ta không chọn chúng. Chúng là những dấu vết từ những nghiệp trong quá khứ; nhưng nếu ta thích ta cứ đặt tiền xuống, làm những gì hợp với ta, và khi chơi cờ ta sẽ hoặc thắng hoặc bại.
Nghiệp nặng hay nhẹ tùy hành động của con người. Hành động này cũng tạo thành số nghiệp quả. Nhưng bất cứ mỗi một hành động nào thực hiện vô tình không cố ý không thể trở thành một thiện nghiệp (hành động khéo léo) hay bất thiện nghiệp (không khéo léo) Do đó tại sao Đức Phật dạy Nghiệp là các hành động do tác ý. Có nghĩa là bất cứ điều lành hay điều dữ do chúng ta vô tình tạo ra không cố ý, thì không đủ mạnh để bị kéo đến kiếp sau. Tuy nhiên, không hiểu biết bản chất của Nghiệp luật không thể là một lý do để điều chỉnh hay tránh được Nghiệp quả gây nên do những hành động có chủ ý. Một em bé hay một người ngu si có thể phạm hành động tội lỗi. Nhưng nếu họ hành động tội lỗi với chủ ý làm hại người hay làm người khác bị thương, thì khó mà có thể nói rằng những người đó tránh được Nghiệp quả. Nếu đứa trẻ chạm tay vào một thanh sắt nóng, nhất định em đó không thể tránh được phỏng tay. Nghiệp lực tác dụng đúng như vậy. Nghiệp lực không thiên vị, giống như trọng lực.
Sự thay đổi tận gốc rễ về tâm tính của Angulimala và Asoka (Vua A Dục) chứng minh tiềm lực của con người có thể kiểm soát được Nghiệp lực của mình.
Angulimala là tên đạo tặc đã giết hơn một ngàn người đồng hương. Chúng ta có thể phán xét về những hành động bề ngoài được không? Chỉ trong một đời sau khi hối cải Angulimala đã trở thành bậc A La Hán chuộc lại những hành động tội lỗi gây ra trong quá khứ.
Asoka, Vị Hoàng Đế của Ấn, đã giết hàng ngàn vạn người trong các chiến trận để mở mang bờ cõi. Thế mà, sau khi thắng trận, ông đã tự mình hoàn toàn chuyển hóa, thay đổi hẳn lối sống để danh thơm lại ngày nay: "Trong cả chục ngàn tên tuổi các vương tước, các vua chúa, các bậc khanh tướng trong lịch sử, tên Vua A Dục chói sáng, chói sáng một mình như một vì tinh tú". Đó là lời nhận xét của sử gia thế giới H.G. Wells.
NHỮNG YẾU TỐ HỖ TRỢ NGHIỆP
Mặc dù Đạo Phật có nói là con người có thể kiểm soát nghiệp lực, nhưng không có nghĩa là mọi thứ đều do Nghiệp cả. Đạo Phật không quên vai trò của các sức mạnh thiên nhiên khác. Theo Đạo Phật, có năm động lực hay tiến trình của Luật thiên nhiên tác động trong thế giới vật lý và tâm lý:
1. Những định luật vật lý vô cơ từng mùa như các hiện tượng thời tiết về mưa gió vân vân...
2. Những định luật sinh vật học liên quan đến sự thay đổi theo từng mùa vân vân...
3. Nghiệp luật liên quan nguyên nhân luân lý hay nhân quả
4. Hiện tượng thiên nhiên liên quan đến điện lực, nước thủy triều vân vân... và
5. Định luật tâm lý tác động sự vận hành của Thức.
Như trên, Nghiệp chỉ là một trong năm định luật thiên nhiên giải thích tính cách đa dạng trong thế giới này.
CÓ THỂ THAY ĐỔI NGHIỆP ĐƯỢC KHÔNG?
Nghiệp thường bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh: tác động của các thiện lực và ác lực để chống lại và hỗ trợ định luật tự tác này (Nghiệp). Những lực khác hỗ trợ hoặc cản trở Nghiệp này là sự sanh thời điểm hay điều kiện, tướng mạo và nỗ lực.
Sự sanh ra đời thuận lợi hay không thuận lợi có thể phát triển hay làm trở ngại đến Nghiệp quả.
Chẳng hạn, nếu một người được sanh ra từ một gia đình quý phái, hay trong một gia đình hạnh phúc, việc sanh thuận lợi này giúp cho người đó cơ hội thuận tiện để Nghiệp thiện tác động. Một người kém thông minh, nhưng bởi Nghiệp thiện được sanh trong một gia đình vương giả, nhờ sự liên hệ gia đình được người ta trọng vọng. Nếu cũng con người ấy vì sanh trong hoàn cảnh không thuận lợi, sẽ không được người ta đối xử tương tự.
Tướng mạo đẹp đẽ hay xấu xí là hai yếu tố khác ảnh hưởng làm trở ngại hay hỗ trợ sự tác động của Nghiệp. Nếu do một số thiện Nghiệp, một người đưọc sanh thuận lợi, nhưng bị dị hình vì một số ác nghiệp, người đó không thể hoàn toàn hưởng kết quả lợi lạc do thiện nghiệp của mình. Cả đến là vị hoàng tử chính thức sẽ nối ngôi vua cũng không thể đạt ngôi vị này nếu bị sanh dị dạng hay tâm trí bất thường. Mặt khác, sắc đẹp là một tài sản quý báu cho sở hữu chủ. Một đứa con trai tuấn tú của gia đình nghèo vẫn làm nhiều người khác chú ý và có thể tự mình làm nổi bật nhờ ảnh hưởng của người chung quanh. Chúng ta cũng tìm thấy nhiều trường hợp những người từ những gia đình nghèo, dòng dõi hạ tiện, trở nên nổi tiếng như các tài tử đóng phim và các hoa hậu.
Thời điểm và điều kiện cũng là những yếu tố khác ảnh hưởng đến sự tác động của Nghiệp. Trong thời kỳ nạn đói hay trong thời kỳ chiến tranh, tất cả mọi người đều chịu chung số phận. Những điều kiện bất thuận lợi dễ gây nên khả năng phát triển ác Nghiệp tác động. Mặt khác, những điều kiện thuận lợi, sẽ ngăn chặn tác động ác nghiệp.
Nỗ lực hay trí thông minh là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự tác động của Nghiệp. Không có nỗ lực thì tiến bộ về đời và đạo không thể có được. Nếu một người không tự mình nỗ lực để chữa bệnh, hay tự cứu lấy mình khỏi những khó khăn, hay cố gắng chuyên cần để tiến bộ, ác nghiệp sẽ có cơ hội để phát triển hậu quả. Tuy nhiên nếu người đó gắng sức vượt các khó khăn, thiện nghiệp sẽ phát triển và hỗ trợ. Một lần trong những tiền kiếp, khi một con thuyền bị đắm trong biển cả, Đức Bồ Tát đã cố gắng cứu mình và mẹ già, trong khi những người khác cầu nguyện thánh thần và phó mặc số phận mình trong tay thần thánh. Kết quả là Đức Bồ Tát thoát hiểm trong khi những người khác đều bị chết chìm.
Như vậy tác động của Nghiệp ảnh hưởng bởi sự sanh, vẻ đẹp, hoàn cảnh và nỗ lực cá nhân, hay trí thông minh. Tuy nhiên, con người có thể vượt qua ngay được hậu quả của Nghiệp bằng cách áp dụng một số phương thức. Nhưng người đó chưa thoát khỏi hậu quả của Nghiệp nếu người đó cứ ở trong vòng sanh tử luân hồi. Bất cứ lúc nào nhân duyên hội đủ, nghiệp quả ấy mà người đó đã từng vượt qua được vẫn c có thể trở lại ảnh hưởng đến người ấy. Đó là sự không chắc của đời sống nhân gian. Cả đến các Đức Phật và các Bậc A la Hán cũng vẫn bị ảnh hưởng của một số Nghiệp, mặc dù ở trong lần sanh cuối cùng của các Ngài.
Yếu tố thời gian cũng là một khía cạnh quan trọng của Nghiệp lực cho con người kinh nghiệm các hậu quả tốt và xấu. Con người chứng nghiệm Nghiệp quả ngay trong hiện kiếp trong khi một số Nghiệp quả trổ sanh ngay ở kiếp tới. Một số Nghiệp quả theo người tạo nghiệp mãi trong vòng sanh tử luân hồi cho đến khi nào không còn tái sanh nữa sau khi đạt Niết Bàn. Lý do chính về sự khác biệt này là do sự thúc đẩy của tâm thức của con người vào thời điểm mà một tư tưởng sanh khởi trong tâm muốn làm điều thiện hay bất thiện.
NĂNG LỰC VÔ TƯ
Những ai không tin có một năng lực gọi là Nghiệp nên hiểu rằng Nghiệp lực không phải là một sản phẩm phụ của một tôn giáo đặc biệt nào dù là Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Jainism xác nhận và giải thích bản chất của sinh lực ấy. Đó là một định luật thiên nhiên đang hiện hữu không mang một nhãn hiệu tôn giáo nào. Tất cả những ai vi phạm định luật này, phải chịu hậu quả dù theo tín ngưỡng nào đi nữa, và những ai sống hài hòa với định luật này sẽ chúng nghiệm an lạc và hạnh phúc trong đời sống. Cho nên Nghiệp Luật ấy vô tư, không thiên vị đối với bất cứ ai tin hay không tin, có tôn giáo hay không tôn giáo. Luật ấy giống như bất cứ một định luật vũ trụ hiện hữu nào. Xin nhớ là Nghiệp không phải là tài sản độc quyền của Phật Giáo.
Nếu chúng ta hiểu Nghiệp là một sức mạnh hay một hình thức của năng lực, chúng ta có thể nhận thức được sự không có khởi đầu. Hỏi nơi đâu bắt đầu Nghiệp thì chẳng khác gì hỏi chỗ nào bắt đầu dòng điện. Nghiệp giống như điện không có chỗ bắt đầu. Nghiệp hiện hữu trong một số điều kiện. Một cách quy ước, chúng ta nói nguồn gốc của Nghiệp là tác ý nhưng nói vậy cũng quá quy ước như nói rằng nguồn gốc của một con sông là một đỉnh núi.
Giống những làn sóng trên đại dương trùng trùng điệp điệp lên nhau, làn sóng của thức chảy lên một làn sóng khác và sự hợp nhất của những làn thức chảy chồng chất lên nhau gọi là sự tác động của Nghiệp. Tóm lại, theo Phật Giáo, mỗi chúng sanh là một luồng điện của cuộc sống hành hoạt theo cái nút chuyển điện tự động của Nghiệp.
Nghiệp là một dạng năng lực không tìm thấy bất kỳ tại đâu trong suối tâm thức hay trong cơ thể. Giống như trái soài không tích trữ nơi nào trên cây soài cả, nhưng tùy thuộc một số điều kiện, trái soài trổ sanh, Nghiệp cũng như vậy. Nghiệp tựa như gió hay lửa. Nó không được tích trữ nơi nào trong Vũ Trụ nhưng sẽ xuất hiện khi đủ một số điều kiện.
TÁI SANH
Không thỏa mãn được ham muốn về sự sống còn và về dục lạc là nguyên nhân của tái sanh.
Người Phật Tử nhìn thuyết tái sanh không chỉ là lý thuyết suông mà là một sự kiện có thể kiểm chứng được. Niềm tin vào tái sanh tạo thành một nguyên lý căn bản của Phật Giáo. Tuy nhiên, sự tin tưởng này không chỉ giới hạn nơi người Phật tử,mà còn đưọc thấy tại nhiều quốc gia, trong những tôn giáo khác, và cả nơi những nhà tư tưởng tự do. Pythogaras có thể nhớ lại kiếp trước của ông. Plato nhớ được một số tiền kiếp của ông. Theo Plato, con người có thể tái sanh mười lần. Plato cũng tin là việc tái sanh có thể có trong thế giới loài vật. Dân tộc Ai Cập và Trung Hoa thời cổ thường tin là chỉ có các nhân vật nổi tiếng như hoàng đế, vua chúa mới có tái sanh. Một chức quyền nổi tiếng Ki Tô Giáo Origen, sống khoảng 185-254 sau Tây Nguyên, tin có tái sanh. Theo ông, không có sự đọa đầy khổ sở vĩnh viễn tại địa ngục. Gorana Bruno, sống trong thế kỷ thứ 16, tin là mỗi người và mỗi con vật đều chuyển linh hồn vào chúng sanh khác sau khi chết. Năm 1788, triết gia nổi tiếng Kant công kích quan niệm hình phạt đọa đầy vĩnh viễn. Kant cũng tin tưởng việc có thể tái sanh thành chư thiên. Schopenhaumer (1788-1860), một triết gia vĩ đại nói nơi nào có ý chí muốn sống còn thì nơi đó phải có đời sống. Khát vọng muốn sống còn tự nó biểu lộ liên tục trong nhiều hình thức mới. Đức Phật giải thích "ý chí muốn hiện hữu" này là lòng tham sống.
Thật ra chúng ta có thể kiểm chứng được tiền kiếp của mình nhưng không phải là dễ dàng. Bản chất của tâm ý không cho phép mọi người nhớ lại tiền kiếp. Tâm ý của chúng ta bị áp đảo bởi năm chướng ngại: tham lam, sân hận, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ. Vì những chướng ngại trên, cái nhìn của chúng ta bị cản trở cho nên chúng ta không hình dung được tái sanh. Giống như gương không phản ảnh được hình bóng vì bị bụi bậm che phủ, tâm ý bị che ám không cho phép hầu hết mọi người nhớ lại tiền kiếp của mình. Ban ngày chúng ta không nhìn thấy các vì sao, không phải là vì chúng không có trong bầu trời, nhưng vì bị ánh sáng của mặt trời chói nhòa. Giống như vậy, chúng ta không nhớ được tiền kiếp vì tâm của chúng ta hiện tại lúc nào cũng nặng chĩu với bao suy tư, bao biến chuyển ngày lại ngày, và bao hoàn cảnh phàm tục.
Nhận định được sự ngắn ngủi của kiếp sống chúng ta trên thế gian này giúp ta phản ảnh được tái sanh. Nếu chúng ta chiêm nghiệm đời sống, mục tiêu và ý nghĩa tối hậu của nó, và tất cả những kinh nghiệm đủ loại mà con người có thể trải qua, phải kết luận rằng chỉ trong một kiếp sống, chúng ta không có đủ thì giờ để hoàn thành những gì mà con người phải làm theo bản năng thiên nhiên, chưa nói đến những ham thích mà người đó muốn làm. Mức độ của kinh nghi?m thật là to lớn. Có rất nhiều nhiều năng lực khác nhau tiềm ẩn nơi con người mà chúng ta nhìn thấy và phát triển khi có cơ hội. Nhất là ngày nay điều đó rất đúng nếu tiến hành một cuộc điều tra đặc biệt. Chúng ta tìm thấy nơi chúng ta những hoài bão to lớn, nhưng không có thì giờ để đạt được chúng. Trong lúc đó, đoàn quân hùng vĩ của đam mê và khao khát, ích kỷ và dục vọng, hoành hành nơi chúng ta và với những người khác. Những sức mạnh ấy nối tiếp nhau theo ta cho đến lúc chết. Tất cả những sức mạnh ấy phải được chế ngự, khuất phục, và sử dụng. Một kiếp sống thật ngắn ngủi không đủ cho ta làm hết được các điều đó.
Học thuyết tái sanh trong Phật giáo khác biệt giáo lý về chuyển kiếp và đầu thai của các tôn giáo khác. Đạo Phật bác bỏ sự hiện hữu trường cửu của một linh hồn do thánh thần tạo nên hay một thực thể không thay đổi được chuyển từ kiếp này đến kiếp khác.Tương tự như một cá nhân có thể đưọc tạo ra do nhân duyên chứ không do một bản ngã hay linh hồn, thì tái sanh có thể bắt nguồn từ cái chết mà không cần có một linh hồn chuyển tiếp. Suốt một kiếp sống, cứ mỗi một chập tư tưởng lóe lên rồi tắt đi, nó tạo sự sanh khởi cho một chập tư tưởng kế tiếp bằng chính sự hoại diệt của nó. Nói một cách chính xác sự trỗi lên và mất đi của một tư tưỏng là sanh và tử. Cho nên trong một kiếp người, chúng ta có hằng hà sa số sanh và tử trong mỗi giây. Nhưng vì tiến trình tâm ý tiếp tục với sự hỗ trợ của một thân xác vật lý nên chúng ta coi luồng tiếp nối của thân tâm như sự hình thành một kiếp sống.
Cái mà chúng ta thường hiểu về cái chết là sự ngưng hoạt động của các chức năng sống còn của thân xác. Khi xác thân mất sinh lực, nó không còn có thể hỗ trợ được dòng tâm thức là mặt tinh thần của tiến trình. Nhưng chừng nào nó còn có một sự bám níu vào đời sống, còn lòng ham muốn được sống còn thì dòng tâm thức sẽ không ngừng với xác thân đã chết. Khi cái chết đến, khi xác thân hoại diệt, dòng tâm thức khao khát muốn sống còn lại gá vào một xác thân mới xuất hiện qua sự gặp gỡ của tinh trùng và trứng. Cho nên, tái sanh xuất hiện ngay sau khi chết. Dòng suối ký ức có thể bị gián đoạn và nhân dạng được chuyển hóa sang tình trạng mới, nhưng tất cả những tích lữy về kinh nghiệm và tính khí được truyền trao sang cho thai nhi, và chu kỳ của sự tái sanh lại bắt đầu quay một vòng khác.
Với Phật Giáo, chết không có nghĩa là đi vào cuộc sống trường cửu hay một sự đoạn diệt hoàn toàn. Đúng hơn chết là cửa ngõ của tái sanh mới tiếp nối lớn lên, suy tàn rồi chết.
Vào giây phút cuối cùng, chức năng tái tạo của thể xác không còn hoạt động được trong tâm của một người đang chết. Giống như người tài xế nhả ga trước khi ngưng, cho nên động lực không còn chuyển đến máy. Tuơng tự như vậy, những đạc tính về vật chất của Nghiệp không còn sanh khởi nữa.
Người Phật tử không xác nhận kiếp sống hiện tại là kiếp sống duy nhất giữa hai cái vô tận của thống khổ và hạnh phúc và cũng chẳng tin là các thiên thần sẽ mang họ đến thiên đường để họ sống bất diệt tại đó. Người Phật tử tin rằng kiếp hiện tại chỉ là một trong nhiều vô số kiếp, và một kiếp sống trên cõi nhân gian này chỉ là một giai đoạn của nhiều đoạn khác mà thôi. Họ tin rằng tất cả chúng sanh sẽ tái sanh đâu đó trong một thời gian khi mà ác nghiệp hay thiện nghiệp vẫn còn trong tiềm thức, trong dạng thức của năng lượng tâm linh. Sự giải thích về tiềm thức trong phạm vi Phật Giáo không phải là loại tiềm thức giải thích bởi các nhà tâm lý học hiện đại vì các ý niệm trên không đồng nghĩa hoàn toàn.
Cái gì là nguyên nhân của tái sanh? Đức Phật dạy rằng vô minh sanh tham dục. Tham dục không được toại nguyện là nguyên nhân của tái sanh. Khi tất cả tham dục bất-toại-nguyện bị dập tắt, tái sanh không còn phát sanh. Muốn dập tắt tham dục, cần thiết phải phá vỡ vô minh. Khi vô minh bị phá vỡ, ta sẽ nhận ra được sự vô ích của mỗi lần tái sanh, như thế đồng thời cũng tự ý thức được sự tối cần thiết phải áp dụng một nếp sống như thế nào để có thể triệt tiêu được hẳn lòng ham muốn tái sanh kia.
Vô minh cũng mang ý tưởng viển vông và phi lý là mỗi người chỉ có một kiếp sống mà thôi và còn có ảo tưởng khác nữa là kiếp sống này của con người sẽ được theo sau bằng những cảnh giới của lạc thú bất diệt hoặc cảnh giới đọa đầy vĩnh viễn.
Đức Phật dạy rằng vô minh sẽ bị xua tan và đau khổ sẽ chấm dứt khi ta hiểu rõ Tứ Diệu Đế, và không bằng bất cứ con đường nào khác. Muốn diệt vô minh, ta phải kiên trì thực hành hạnh vị tha đến mọi loài, phát triển thông minh và trí tuệ. Ta phải tận trừ dục lạc cá nhân thấp hèn và ham muốn vị kỷ.
Tái sanh diễn ra như thế nào? Khi xác thân vật chất không còn đủ sức để hoạt động, các năng lực không chết theo với nó nhưng tiếp tục dưới hình thức nào đó mà ta gọi là kiếp khác. Nghiệp lực tự nó biểu hiện trong hình thái một con người hay trong hình thái một con vật. Trường hợp sau có thể xảy ra nếu một người không có duyên để phát triển những nghiệp-lực tích lữy của mình. Lực đó gọi là chấp thủ, ái dục, tác ý, tham sống, chưa chấm dứt cùng với cái xác thân không còn hoạt động, nhưng vẫn tiếp tục biểu hiện dưới một hình thái khác, tạo ra một sự sống mới gọi là tái sanh.
Ngày nay ở nhiều nước khác nhau, có nhiều người tự nhiên nhớ được tiền kiếp của họ. Những kinh nghiệm của những người này được nghiên cứu cẩn thận trong các tài liệu, báo chí, tập san. Một số trong những người này trước đây không bao giờ chấp nhận tái sanh cho đến khi họ nhớ rải rác được kiếp trước của họ, họ mới công nhận. Nhiều những tin tức về kiếp trước của họ được điều tra và công nhận là đúng.
Bằng thôi miên, một số người đi đến kết quả biết tin tức về những kiếp trước. Một số trạng thái thôi miên đi sâu vào tiềm thức khiến có thể nhớ lại tiền kiếp.
Chuỗi dài của tái sanh trở thành một diễn tiến tự nhiên, không phải được tạo ra bởi một tôn giáo đặc biệt nào hay bởi một thánh thần nào. Tin hay không tin tái sanh cũng không làm sai biệt gì đến tiến trình hay tránh được tái sanh. Tái sanh phát sanh chừng nào mà con người còn tham sống, ái dục, và luyến chấp còn hiện hữu trong tâm. Năng lực tâm linh mạnh mẽ đó chiếm ưu thế nơi mỗi chúng sanh trong vũ trụ. Những ai hy vọng và cầu nguyện khỏi tái sanh, phải hiểu là lời mong mỏi không thể thực hiện được cho đến khi nào họ nỗ lực nhổ tất cả gốc rễ của tham ái và luyến chấp. Nhìn thấy và chứng nghiệm sự bấp bênh và bất toại nguyện của đời sống trong thân phận nhân gian, người trí tự mình tìm cách tránh khỏi vòng sanh tử, tử sanh bằng cách thực hành chánh đạo. Những ai không chịu giảm thiểu tham ái, và luyến chấp, nhất định phải đương đầu với tất cả tình trạng bất-toại-nguyện và bấp bênh gắn liền với tái sanh và tái sanh cứ tiếp diễn.
TÁI SANH CÓ ĐỒNG THỜI KHÔNG?
Một điều khó hiểu về tái sanh là sự phát xuất tái sanh có tức khắc đồng thời hay không. Đó là một vấn đề gây nhiều tranh luận cả đến các nhà học giả Phật Tử ưu tú. Theo Vi Diệu Pháp, tái sanh (sự thụ thai) phát xuất liền ngay sau cái chết của một chúng sanh không có giai đoạn chuyển tiếp. Một số người lại tin tưởng rằng sau khi chết thần thức còn ở lại một số ngày trước khi tái sanh. Một cách lý giải khác về tín ngưỡng này không phải thần thức mà là tâm thức hay năng lực tinh thần của người chết của tham ái và luyến chấp còn ở lại trong không gian hỗ trợ bởi năng lượng tham ái và luyến chấp của người đó. Tuy nhiên sớm hay muộn gì thì tái sanh cũng vẫn phát xuất. Những hồn ma tức các chúng sanh sinh trong hình tướng ma quỷ là những chúng sanh vô phước, và kiếp sống của họ dưới hình thái này cũng không vĩnh viễn. Đó cũng chỉ là một dạng thức tái sanh tạm thời.
Một quan niệm khác mà nhiều người không hiểu là trong tiến trình tái sanh, con người có thể tái sanh thành con vật và con vật có thể tái sanh thành con người. Thú tính trong tâm của một người, và lối sống như con vật áp của người đó có thể khiến người đó tái sanh thành con vật. Hoàn cảnh và hạnh kiểm tinh thần là yếu tố trách nhiệm cho kiếp sau. Mặt khác, một người thác sanh thành thú do những bất thiện tâm ở kiếp trước, có thể tái sanh trở lại thành người, nếu con vật ấy không phạm tội ác nghiêm trọng nào. Dữ kiện cho thấy một số con vật rất thông minh và hiểu biết. Đó là bằng chứng rõ ràng con vật này có khả năng tái sanh thành người. Một người sanh thành con vật vẫn có thể trở lại kiếp người, khi bất thiện nghiệp khiến người đó sanh thành con vật đã cạn và thiện nghiệp tích lữy chiếm ưu thế.
LÚC SẮP CHẾT
Trong tâm thức của người sắp chết, có ba dạng dòng thức hoạt động: dòng thức liên-hệ-tái-sanh, dòng thức thụ động hay dòng thức liên tục của sự sống tiếp diễn (dòng hộ kiếp), và dòng tử thức (thức gián đoạn với kiếp sống hiện tại). Trong giây phút cuối cùng của kiếp sống hiện tại của một con người, dòng thức liên-hệ-tái-sanh trỗi lên với ba dấu hiệu làm đối tượng. Thúc tái sanh lưu lại ở tâm nhận thức chỉ trong năm chập tư tưởng mờ nhạt và rồi lại chìm vào dòng hộ kiếp. Đến lúc cuối cùng của dòng hộ kiếp thì tử thức trỗi lên, cắt đứt liên hệ với sự sống hiện tại và lại chìm vào dòng hộ kiếp. Ngay đây là lúc cuộc đời hiện tại chấm dứt. Vào giây phút cuối cùng của dòng hộ kiếp, thức tái sanh trỗi lên cho đời sống kế tiếp và ngay lúc này đây kiếp sống mới bắt đầu. Trên đây là tiến trình của tử và tái sanh theo Phật Giáo và chỉ trong Phật Giáo mới có sự giải thích cặn kẽ về những hiện tượng thiên nhiên ấy.
Đối đầu với cái chết, người Phật Tử không sợ chết mà chỉ coi chết như một biến cố bình thường vì hiểu rằng bất cứ ai sanh ra cũng phải chịu khổ đau, "suy tàn", và cuối cùng phải chết. Hay như người nào đó nói một cách thích hơn rằng: "Mỗi người sanh ra là đã mang ngay giấy khai tử khi lọt lòng". Nếu tất cả chúng ta nhìn cái chết với đuờng lối trí tuệ và hữu lý như vậy chúng ta không nên bám chặt vào đời sống như trước nữa.
"Đây là lần sanh cuối cùng của ta và ta sẽ không còn tái sanh nữa"
(Kinh Chuyển Pháp Luân)
NIẾT BÀN
Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng, một trạng thái siêu thế của hạnh phúc bất diệt. Hạnh Phúc Niết Bàn không thể chứng nghiệm được bằng cách thỏa mãn các giác quan mà là làm cho chúng lắng xuống.
Niết Bàn là mục tiêu cuối cùng của Phật Giáo. Vậy Niết Bàn là gì? Biết thực sự Niết Bàn là gì thì khó; còn biết cái gì không phải là Niết Bàn thì tương đối dễ hơn.
Niết Bàn không phải là hư vô hay sự dập tắt. Phải chăng Đức Phật bỏ gia đình, vương quốc và hoằng pháp trong 45 năm - tất cả là cho hư vô?
Niết Bản không phải là thiên đường. Một vài thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, một số giáo phái Phật Giáo bắt đầu trình bày Niết Bàn như một thiên đường. Mục đích xem Niết Bàn ngang với một cảnh giới thần tiên là mong thuyết phục những đầu óc kém hiểu biết và để lôi cuốn những người này vào giáo phái của họ. Phấn đấu đến Niết Bàn thành ra có nghĩa là tìm một nơi thích thú mà mọi thứ đều đẹp đẽ, và mọi người đều hạnh phúc đời đời. Đây có thể là một mẩu truyện dân gian bình dị mà thôi chứ không phải là Niết Bàn mà Đức Phật chứng nghiệm và tiến dẫn. Lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài không phủ nhận ý kiến về thiên đuờng như các tôn giáo sơ khai Ấn trình bày. Nhưng Ngài biết rằng thiên đuờng này vẫn nằm trong vòng luân hồi và sự giải thoát cuối cùng phải vượt qua phạm vi luân hồi. Đức Phật có thể nhìn thấy là Con Đường dẫn đến Niết Bàn vượt trên mọi thiên đàng.
Nếu Niết Bàn không phải là một nơi chốn, vậy Niết Bàn ở đâu? Niết Bàn hiện hữu cũng giống như lửa hiện hữu. Không có chốn nào chứa sẵn lửa, hoặc chứa sẵn Niết Bàn. Nhưng khi bạn cọ sát hai miếng đá vào nhau, sự cọ sát tạo điều kiện cho lửa phát sanh. Cũng giống như vậy, khi bản chất trong tâm con người thoát khỏi mọi ô nhiễm thì hạnh phúc Niết Bàn xuất hiện.
Bạn có thể chứng nghiệm Niết Bàn. Chỉ cho đến khi bạn chứng nghiệm trạng thái hạnh phúc Niết Bàn tối thượng, bạn mới có thể thực sự biết Niết Bàn ra sao. Với những ai đặt nặng vấn đề lý thuyết, kinh điển có thể giúp phần nào. Kinh điển gợi ý Niết Bàn là trạng thái siêu thế của hạnh phúc thuần khiết.
Niết Bàn, tự nó hoàn toàn không thể giải thích được và không thể định nghĩa được. Như bóng tối chỉ có thể giải nghĩa bằng đối đãi của nó là ánh sáng, cũng như tĩnh lặng chỉ có thể giải thích bằng đối đãi của nó là động, cũng vậy Niết Bàn, trạng thái dập tắt hết khổ đau có thể giải thích bằng đối đãi của nó là đau khổ triền miên trong vòng luân hồi. Bóng tối lan tràn khi không có ánh sáng, tĩnh lặng lan tràn khi không có động, cũng giống như vậy, Niết Bàn hiện hữu mọi nơi khi đau khổ, thay đổi và bất tịnh không có mặt.
Kẻ bị đau gãi vết thương có thể thấy đỡ đau. Sự giảm đau tạm thời này làm vết thương trầm trọng thêm và khiến bệnh càng ngày càng nặng. Niềm vui được chữa lành bệnh khó có thể so sánh với cảm giác giảm đau ngắn ngủi nhờ gãi vết thương. Giống như vậy, thỏa mãn tham ái về dục lạc chỉ mang lại thỏa thích hoặc vui thú tạm bợ khiến phải chịu ở dài lâu thêm trong cõi luân hồi. Chữa khỏi bệnh luân hồi là Niết Bàn. Niết Bàn chấm dứt những bám níu gây ra mọi khổ đau của sanh, già, bệnh chết, phiền não, oán than và thất vọng. Niềm vui được lành bệnh của Niết Bàn khó có thể so sánh với lạc thú tạm bợ qua thỏa mãn dục lạc của cõi luân hồi.
Rất nguy hiểm nếu phiếm bàn về Niết Bàn; điều tốt hơn là làm sao sửa soạn các điều kiện c?n thiết cho Niết Bàn, làm sao đạt được an lạc nội tâm, và có một cái nhìn sáng suốt dẫn đến Niết Bàn. Hãy theo lời khuyên của Đức Phật: đem giáo lý của Ngài vào sự thực hành. Hãy nhổ bỏ tất cả những ô nhiễm mọc rễ từ tham, sân si. Hãy tự thanh lọc hết các tham ái và thực thi lòng vị tha tuyệt đối (vô ngã). Sống một cuộc đời đạo hạnh và thuờng xuyên tu tập thiền định. Tinh tấn tu hành sẽ giải thoát khỏi tất cả vị kỷ và ảo tưởng. Rồi Niết Bàn sẽ được đạt và được chứng.
NIẾT BÀN VÀ LUÂN HỒI
Một luận sư Đại Thừa nổi tiếng là Ngài Long Thọ cho rằng Luân Hồi và Niết Bàn là một. Sự giải thích này có thể làm cho một số người hiểu nhầm. Tuy nhiên cho rằng quan điểm về Luân Hồi và Niết Bàn giống nhau có nghĩa là không có gì khác biệt giữa tánh không của các sự vật duyên hợp và trạng thái vô điều kiện của Niết Bàn. Theo Kinh Điển bằng tiếng Pali, Luân Hồi được miêu tả là một sự tiếp nối không ngừng của năm uẩn, bốn thành phần (đất nước gió lửa) và 12 nguồn gốc căn bản của tiến trình tâm linh (Thập Nhị Nhân Duyên) trong khi Niết Bàn được miêu tả là sự dập tắt của tất cả những dòng tương quan về vật chất và tâm linh trên.
Tuy nhiên người ta đã thừa nhận rằng những ai đã đạt hạnh phúc Niết Bàn, có thể kinh nghiệm lại trạng thái này thấy trong suốt cuộc sống của họ ở cõi Luân Hồi. Trong bất cứ trường hợp nào, sau khi chết sự liên hệ với các thành phần trên đều bị loại hẳn, đơn giản vì Niết Bàn vô điều kiện, không liên hệ hay phụ thuộc lẫn nhau. Nếu còn có một điều gì sau Niết Bàn thì điều đó phải là "Chân Lý Tối Thượng".
Bạn phải tập tách rời khỏi tất cả sự vật phàm trần. Nếu còn luyến chấp vào một ai hay một một việc gì, hay nếu còn một ác cảm với ai hay một việc gì, thì bạn không bao giờ có thể đạt được Niết Bàn, với Niết Bàn là phải vượt qua tất cả những đối đãi của luyến chấp và ác cảm, giữa ưa và ghét.
Khi đạt được trạng thái rốt ráo đó, Bạn sẽ thông suốt tường tận đời sống trần thế mà giờ đây bạn đang bám níu vào. Thế gian này không còn là đối tượng cho sự tham đắm của bạn nữa. Bạn sẽ nhận ra tính phiền não, vô thường và vô ngã của tất cả tất cả chúng sanh đang sống và không đang sống. Chỉ dựa vào các vị thầy và các kinh sách mà không tự mình cố gắng trong chánh pháp thì rất khó mà đạt được Niết Bàn. Những mộng mơ của bạn sẽ tan biến và chẳng còn xây lâu đài trong không khí nữa. Giông tố chấm dứt. Sẽ không còn tranh đấu cho cuộc sống nữa. Tiến trình thiên nhiên sẽ ngừng lại. Tất cả những phiền não, đau khổ, trách nhiệm, rối rắm, gánh nặng, những khó chịu về vật chất và tinh thần, và tất cả những cảm xúc đều tiêu tan sau khi đạt hạnh phúc tối thượng Niết Bàn.
Nói Niết Bàn là hư vô chỉ vì ta không cảm nhận được nó bằng năm giác quan, thì cũng phi lý như nói rằng ánh sáng không hiện hữu chỉ vì người mù không thấy được nó.
Niết Bàn có thể đạt được ngay trong kiếp sống hiện tại này. Phật Giáo không nói là mục đích tối thượng này chỉ đạt được sau khi qua đời. Khi Niết Bàn đạt được trong hiện tại với xác thân còn sống được gọi là Sopadisesa Niết Bàn (Hữu-dư Niết Bàn) . Khi một Vị A La Hán đạt Pari Niết Bàn, sau khi xác thân không còn nữa, không còn phần nào còn lại của sự hiện hữu vật chất, được gọi là Anupadisesa Niết Bàn (Vô dư Niết Bàn).
LÝ NHÂN DUYÊN
"Không có Thượng đế, hay Phạm Thiên nào
Không có gì trong bánh xe của sự sống này
Mà chỉ là những hiện tượng vần xoay
Tùy thuộc vào điều kiện tất cả". (Thanh Tịnh Đạo)
Định luật về Lý Nhân Duyên là một trong những giáo lý quan trọng nhất và rất thâm sâu của Đức Phật. Đức Phật thưòng diễn tả kinh nghiệm về sự giác ngộ của Ngài là bằng một trong hai cách, hoặc thấu hiểu Tứ Diệu Đ? hoặc thấu hiểu Lý Nhân Duyên. Tuy nhiên đa số thường đưọc nghe về Tứ Diệu Đế và có thể luận bàn về Tứ Diệu Đế hơn Lý Nhân Duyên mà sự quan trọng cũng không kém.
Dù tuệ giác xuyên được Lý Nhân Duyên sanh khởi cùng với sự viên mãn về trí tuệ, nhưng chúng ta cũng vẫn có thể hiểu nguyên tắc của nó. Căn bản của Lý Nhân Duyên là đời sống hay thế giới này tạo thành là do một chuỗi tương quan liên hệ, trong đó sự sanh khởi và hoại diệt của các yếu tố tùy thuộc một số yếu tố khác làm điều kiện cho chúng. Nguyên tắc này có thể tóm tắt trong một công thức ngắn bốn dòng:
Khi cái này hiện hữu cái kia hiện hữu
Cái này đang sanh, cái kia cũng sanh,
Khi cái này không có, cái kia không có
Cái này đang ngưng, cái kia cũng ngưng
Sự sanh, trụ và diệt của mọi hiện hữu đều dựa trên nguyên tắc của sự phụ thuộc và tương quan lẫn nhau. Nguyên tắc này được gọi là Lý Nhân Duyên hay Paticcasamuppada tiếng Pali. Luật này nhấn mạnh một nguyên tắc quan trọng là tất cả hiện tượng trong vũ trụ này đều ở trạng thái liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau không sanh khởi, độc lập với những điều kiện hỗ trợ. Một hiện tượng sanh khởi vì hội đủ những điều kiện để hỗ trợ sự sanh khởi ấy. Và một hiện tượng chấm dứt khi các điều kiện và thành phần cấu tạo hỗ trợ sự sanh khởi của nó đã thay đổi và không hỗ trợ nó nữa. Sự có mặt của các điều kiện hỗ trợ này cũng lại tùy thuộc vào các yếu tố khác để sanh khởi, trụ dưỡng và hoại diệt.
Lý Nhân Duyên là cách hiểu biết thực tiễn về vũ trụ và lý thuyết này tương đồng với Thuyết Tương Đối của Bác Học Einstein. Sự kiện là mọi vật chẳng qua là một tập hợp của những tương quan rất phù hợp với quan điểm khoa học tiên tiến của thế giới vật chất. Vì mọi vật đều do điều kiện, tương quan, và phụ thuộc lẫn nhau nên không có một cái gì trong thế giới này được coi như một thực thể trường cửu, khác nhau được xem là một Ngã hay một linh hồn bất diệt mà nhiều người tin tưởng.
Thế giới hiện tượng được tạo thành do một chuỗi tương quan, nhưng có phải đó là cách chúng ta thường hiểu thế giới là như vậy không? Vì tham ái chúng ta tạo những giả tưởng về sự thường còn trong tâm. Hầu như rất là bình thường cho con người bám níu vào cái mà họ cho là đẹp đẽ hay đáng ưa, và vất bỏ đi cái gì xấu xa hay không ưa thích. Bị chi phối bởi sức mạnh của lòng tham và sân hận, họ bị lạc hướng bởi si mê, mờ mịt, bởi ảo tưởng về sự thường còn của những cái mà họ bám níu hay vất bỏ. Cho nên, chúng ta khó có thể hiểu rằng thế giới chỉ là bóng nước hay ảo ảnh và không phải là một loại thực thể mà ta hằng tin như vậy. Chúng ta không hiểu thế giới thật ra là không thật. Nó giống như một trái cầu lửa khi được xoay tít chung quanh, trong một thời gian có thể tạo ra một ảo ảnh của một vòng tròn.
Nguyên tắc căn bản trong Lý Duyên Khởi là nguyên tắc về nhân và kết quả. Trong Lý Nhân Duyên, cái gì diễn ra trong tiến trình nhân quả được miêu tả cặn kẽ. Để sáng tỏ bản chất nhân duyên của mọi sự vật chung quanh chúng ta, chúng ta lấy thí dụ một đèn dầu. Ngọn lửa của đèn dầu cháy do dầu và tim (bấc) đèn. Khi dầu và tim đèn hiện hữu, đèn cháy. Nếu một trong những thứ đó không có, đèn tắt. Thí dụ trên đây cho thấy rõ nguyên tắc của Lý Nhân Duyên giống như ngọn lửa của cây đèn dầu. Một thí dụ khác về một cái cây, cây mọc lên tùy thuộc vào hạt giống, đất, nước ẩm đọng, không khí và ánh sáng mặt trời. Tất cả những hiện tượng ấy phát sanh tùy thuộc một số yếu tố nhân quả, không tự tác. Đó là nguyên tắc của Lý Nhân Duyên.
Trong Giáo Pháp, chúng ta muốn biết Lý Nhân Duyên áp dụng ra sao trong vấn đề khổ đau và tái sanh. Bằng đường lối nào Lý Nhân Duyên có thể giải thích tại sao chúng ta cứ luân hồi, khổ đau và làm sao chúng ta thoát khỏi khổ đau. Không có nghĩa là ta phải miêu tả nguồn gốc hay sự tiến hóa của vũ trụ. Cho nên ta không nên nhầm lẫn cho rằng vô minh, yếu tố thứ nhất nêu trong Lý Nhân Duyên là nguyên nhân đầu tiên. Vì mọi sự vật phát sanh do những nguyên nhân đã có từ trước nên không thể có nguyên nhân đầu tiên.
Theo định Luật của Lý Nhân Duyên, có mười hai yếu tố giải thích cho sự liên tục hiện hữu, hết sanh này đến sanh khác. Những yếu tố đó là:
1. Do Vô minh duyên sinh Hành (những hành động thuộc ý chí hay Nghiệp)
2. Do Hành duyên sinh Thức
3. Do Thức duyên sinh Danh Sắc (hiện tượng tâm linh và vật chất)
4. Do Danh Sắc duyên sinh Lục Nhập (năm giác quan và tâm ý)
5. Do Lục Nhập duyên sinh Xúc
6. Do Xúc duyên sinh Thọ
7. Do Thọ duyên sinh Ái
8. Do Ái duyên sinh Thủ
9. Do Thủ duyên sinh Hữu
10.Do tiến trình của Hữu duyên sinh Sanh
11. Do Sanh có Lão, Tử, Não, Bi, Khổ, Ưu và Thất Vọng.
Trên đây cho thấy sự sống phát sanh, hiện hữu và tiếp nối ra sao, và khổ đau sanh khởi như thế nào. Có thế hiểu rằng các nhân tố đó nối tiếp trải dài trong quãng thời gian của ba kiếp sống: quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong Lý Nhân Duyên, Vô minh và Hành thuộc quá khứ, và tượng trưng những điều kiện chịu trách nhiệm việc sẩy ra cho kiếp hiện tại. Những yếu tố theo sau là Thức, Danh Sắc, Lục Căn, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là những yếu tố thuộc kiếp sống hiện tại. Hai yếu tố còn lại là Sanh, và Lão Tử thuộc kiếp vị lai.
Trong định luật này, yếu tố thứ nhất Vô minh duyên sinh Hành (hay Nghiệp). Vô minh có nghĩa là không biết hay không hiểu bản chất thực sự sự hiện hữu của chúng ta. Do Vô minh, hành động thiện hay ác được tạo tác đưa con người đến tái sanh. Tái sanh có thể diễn ra trong nhiều cảnh giới khác nhau: nhân giới, thiên giới hay cõi cao hơn (phạm thiên), hoặc trong những khổ cảnh tùy theo nghiệp quả của từng người. Khi lâm chung, hành nghiệp của một người tạo điều kiện sanh khởi cho Thức, trong trường hợp này Thức tái sanh được phát xuất như tia sáng đầu tiên của kiếp sống mới trong tiến trình của sự trở thành.
Một khi kiếp sanh Thức có mặt, sự sống lại bắt đầu. Tùy thuộc vào Thức, Danh (Tâm) và Sắc (Vật) sanh khởi, một chúng sinh mới ra đời. Vì có Tâm và Vật, sáu giác quan phát sanh (giác quan thứ sáu là tâm ). Sáu giác quan sinh Xúc. Xúc với cái gì? Xúc với sắc, âm thanh, mùi, vị, những vật rờ đụng được, và những đối tượng của tâm.
Sắc, âm thanh, mùi, vị, vật rờ đụng được, và đối tượng của tâm có thể đẹp đẽ, thích thú và hấp dẫn. Mặt khác, chúng cũng có thể xấu xa và không vừa ý. Cho nên tùy thuộc vào Xúc, cảm giác phát sanh: cảm thọ thích thú hay không thích thú, hay dửng dưng. Do những cảm thọ này mà quy luật của tham và sân bắt đầu hoạt động. Chúng sanh theo tự nhiên bị thu hút bởi những gì thích thú và ghét bỏ những gì không thích thú. Do kết quả của Thọ, Ái Dục phát sanh. Kẻ tham dục và khao khát các hình thức đẹp đẽ và hấp dẫn, âm thanh hay và quyến rữ, mùi, vị, va chạm, và các vật mà tâm cho là mỹ miều và lôi cuốn. Từ những Ái Dục này, kẻ đó phát triển mạnh mẽ lòng ham thích những gì thích thú và chán ghét những gì cho là không thích thú. Bây giờ vì sự bám níu và luyến chấp này tạo điều kiện cho kiếp sống kế tiếp và Hữu phát sanh. Nói một cách khác, tiến trình củaTrở Thành được điều động bởi sự Bám Níu.
Mắt xích kế tiếp trong chuỗi Lý Nhân Duyên là Hữu tạo điều kiện cho Sanh phát xuất. Và cuối cùng, tùy thuộc vào Sanh mà có Lão và Tử cùng với phiền muộn, than van, đau đớn, ưu sầu, và thất vọng.
Tiến trình này sẽ ngưng nếu công thức đổi chiều ngược lại: Do Vô minh bị tận diệt (qua huân tập của tuệ giác), Hành hay nghiệp kết thúc; do Hành kết thúc thì Thức kết thúc, ... do Sanh chấm dúứ thì các yếu tố khác như già, bệnh chết, phiền não vân vân.. cũng chấm dứt. Cho nên, ta có thể thoát khỏi vòng tái sanh bằng cách tận diệt Vô minh.
Xin nhắc lại điều đã nêu trên, thuyết Thập Nhị nhân Duyên chỉ giải thích tiến trình của Sanh và Tử, và không là một thuyết tiến hóa của thế giới. Thuyết chỉ đề cập về Nguyên Nhân của Tái sanh và Khổ đau, và không nhằm trình bầy Nguồn Gốc tuyệt đối của đời sống. Trong Lý Nhân Duyên, Vô minh là sự không thấu hiểu Tứ Diệu Đế. Rất là quan trọng cho chúng ta thấu hiểu Tứ Diệu Đế vì chính là sự không hiểu (vô minh) những chân lý ấy mà chúng ta đã phải trôi lăn mãi trong vòng sanh tử.
Trong lúc giảng cho Ngài A Nan, Đức Phật dạy: Cũng chỉ vì không nhận thức được Lý Nhân Duyên, cho nên chúng sanh giống như bị vương mắc vào một cuộn bông sợi không thể nhìn thấy chân lý, và lúc nào cũng đau đớn bởi phiền não - thường sanh vào hoàn cảnh buồn thảm, thê lương, bối rối và đau khổ triền miên. Họ cũng không làm sao tự tháo gỡ để thoát ra ngoài được.
THƯỜNG KIẾN VÀ ĐOẠN KIẾN
Đức Phật bác bỏ cả hai cực đoan của thuyết bất diệt (thường kiến) và hư vô (đoạn kiến).
Để trau dồi Chánh Kiến hay sự hiểu biết toàn bích, trước nhất chúng ta phải để ý đến hai quan điểm được coi là khiếm khuyết hay sai lầm.
Quan điểm đầu tiên là thuyết bất diệt, thuyết này liên quan với niềm tin về đời sống bất diệt hay sự vật bất diệt. Trước thời Đức Phật, dân chúng thường được dạy rằng có một thực thể tồn tại trường cửu, và con người có thể sống mãi mãi, bằng cách gìn giữ linh hồn bất diệt để có thể nhập với Đức Tối Thượng. Trong Đạo Phật, giáo lý này được gọi là sassara ditthi - quan điểm của những người chủ trương có sự bất diệt. Những quan đi?m này vẫn hiện hữu trong thế giới tiên tiến ngày nay do lòng bám níu của con người vào sự bất diệt.
Tại sao Đức Phật chối bỏ không dạy giáo lý về bất diệt? Vì khi chúng ta hiểu được sự vật trên cõi đời này thực sự ra sao, chúng ta không thể tìm thấy một thứ gì thường còn hay hiện hữu mãi mãi. Mọi sự đều thay đổi và tiếp tục thay đổi theo những điều kiện thay đổi mà chúng tùy thuộc vào. Khi chúng ta phân tích sự vật ra từng thành phần hay cho ra từng thực thể, chúng ta không thể tìm thấy một thực thể nào tồn tại vĩnh viễn, không có một vật gì hiện hữu trường cửu. Do đó tại sao quan điểm về bất diệt được coi như sai lầm hay giả dối.
Quan điểm sai lầm thứ hai là thuyết đoạn kiến, quan điểm của những người theo chủ thuyết hư vô cho rằng không có đời sống sau khi chết. Quan điểm này thuộc triết lý duy vật chổi bỏ kiến thức về điều kiện tâm linh. Triết lý duy vật chỉ hiểu một phần của đời sống. Hư vô chủ nghĩa không chú ý đến về mặt tâm linh của đời sống. Nếu cho rằng khi chết, đời sống chấm dứt và không còn trở lại nữa, thì người đó bác bỏ sự liên tục của những điều kiện tâm linh. Khi chúng ta hiểu điều kiện tinh thần và vật chất, chúng ta không thể nói rằng không có đời sống sau khi chết và không còn gì nữa sau khi chết. Thuyết hư vô về cuộc sống được coi như sai vì nó căn cứ vào sự thiếu hiểu biết về sự thật. Bởi vậy Đức Phật đã bác bỏ thuyết hư vô. Giáo lý về Nghiệp thừa đủ để chứng tỏ Đức Phật không dạy thuyết hư vô sau khi chết; Đạo Phật chấp nhận "thần thức" không có nghĩa là một linh hồn bất diệt, nhưng trong ý nghĩa sự tái sanh .
Suốt trong thời gian hoằng pháp dài cho các đệ tử, Đức Phật cực lực không tán đồng các lập luận có tính cách ức đoán. Vào thế kỷ thứ 5 trước Tây Nguyên Ấn là nơi hoạt động trí thức cực thịnh, những nhà học giả, du dà, triết học, vua chúa và cả đến những người bình thưòng cũng tham gia vào các cuộc tranh luận triết lý về cuộc sống của con người. Một số những người đó có những lý luận nực cưòi vô giá trị và hoàn toàn không thích đáng. Một số người đã lãng phí thời gian để tranh luận về mọi vấn đề. Họ chú trọng nhiều đến sức mạnh của môn thể thao tinh thần hơn là tìm giải pháp thực tế cho những vấn đề của nhân loại. (Ở thế kỷ thứ 18 Jonathan Swift châm biếm thời gian sẩy ra tương tự tại Anh khi ông trình bày những người Lilliputians (Tý hon Li Li Bút) trong tập "Gulliver's Travels" (Du Ký của Gullivers), gây chiến tranh để quyết định nên đập vỡ một trái trứng bằng đầu nào, đầu nhọn trứng hay đầu lớn trứng).
Đức Phật cũng từ chối tham dự vào các phiếm luận về vũ trụ. Ngài tuyên bố minh bạch vấn đề nhân loại phải đương đầu không phải trong quá khứ hay vị lai mà ngay tức khắc bây giờ. Kiến thức về Chủ Nghĩa Bất Diệt hay Hư Vô không giúp ích gì cho con người phá vỡ gông cùm khiến con người bị mù quáng trong cuộc sống và là nguyên nhân của tất cả các cảm nghĩ bất mãn phát xuất từ những bất lực không thỏa mãn được các tham vọng. Ngài nói rằng trước khi một người muốn tiến vào con đường dẫn đến Niết Bàn, người đó phải có Chánh Kiến. Chỉ khi nào biết rõ ràng cái gì mình đang tìm mới mong đạt được nó.
CÓ THỂ BIẾT ĐƯỢC NGUYÊN NHÂN ĐẦU TIÊN KHÔNG?
Quả là khó khăn cho chúng ta hiểu được thế giới khởi thủy như thế nào mà không cần nguyên nhân đầu tiên. Nhưng lại càng khó hơn để hiểu được nguyên nhân đầu tiên hiện hữu lúc khởi thủy như thế nào.
Theo Đức Phật, quả là không thể tìm hiểu ra được nguyên nhân đầu tiên của đời sống hay của bất cứ điều gì. Theo kinh nghiệm thông thường, nguyên nhân trở thành kết quả và kết quả trở thành nguyên nhân. Trong vòng tương quan nhân quả, nguyên nhân đầu tiên là điều không thể hiểu được. Nói về nguyên nhân của sự sống, Đức Phật tuyên bố: "Dòng đời trôi nổi này triền miên trong cõi Luân Hồi, không thể biết khi nào kết thúc (vòng Sanh Tử). Chúng sanh bị che lấp bởi vô minh và bị trói buộc bởi tham ái không thể nhận thức đưọc khởi điểm đầu tiên của những chúng sanh ấy (Anamatagga Samyutta trong Kinh Samyutta Nikaya). Chừng nào mà nó vẫn còn được cung cấp bởi những nguồn nước đục của vô minh và tham ái, dòng suối-đời sẽ chảy mãi vô tận. Chỉ khi vô minh và tham ái bị chặn bỏ thì dòng-suối-đời sẽ ngưng chảy, và chỉ khi đó tái sanh mới chấm dứt.
Khó mà thấy được chỗ kết thúc của không gian. Khó mà thấy quãng dài vô tận của cái mà ta gọi là thời gian. Nhưng khó khăn hơn nữa là nhận thức về thời gian khi không có thời gian. Cũng vậy, quả là khó cho chúng ta hiểu được thế giới này thoạt tiên hiện hữu như thế bằng nguyên nhân đầu tiên. Và lại càng khó hơn nữa để hiểu nổi nguyên nhân đầu tiên sanh khởi như thế nào vì nếu cái nguyên nhân đầu tiên tự nó có thể hiện hữu thì không có lý do gì những hiện tượng khác của vũ trụ phải xuất hiện qua sự sáng tạo cả.
Về câu hỏi chúng sanh xuất hiện thế nào vào cuộc sống không có nguyên nhân đầu tiên, người Phật Tử sẽ đáp là không có câu trả lời vì câu hỏi đó tự nó chỉ là sản phẩm của sự hiểu biết giới hạn của con người. Nếu chúng ta có thể hiểu được bản chất của thời gian và sự tương đối, chúng ta phải nhìn thấy không có một sự khởi đầu nào. Chỉ có thể vạch ra là tất cả những câu trả lời thông thường cho câu hỏi đều khiếm khuyết. Nếu cho rằng một vật gì hiện hữu, vật đó phải có người sáng tạo ra, người sáng tạo này phải có trƯớc vật đó, theo đúng lý người sáng tạo này cũng phải có một người sáng tạo, và cứ thế cho đến vô tận. Mặt khác, nếu người sáng tạo hiện hữu mà không có nguyên nhân đầu tiên dưới hình thức của một vị sáng tạo khác, tất cả lập luận đều không còn đứng vững. Thuyết về đấng sáng tạo không giải quyết được một vấn đề gì cả mà chỉ làm phức tạp cho những gì đang hiện hữu.
Cho nên Đạo Phật không mấy lưu ý đến lý thuyết và niềm tin về nguồn gốc của thế giới. Thế giới sáng tạo bới một thượng đế hay thế giới tự nó hiện hữu, người Phật Tủ cũng không mấy quan tâm. Thế giới hữu hạn hay vô hạn cũng không quan trọng lắm đối với người Phật Tử. Thay vì đi theo con đường lý thuyết ức đoán, Đức Phật khuyên ta nên nỗ lực hành động để tìm cách tự cứu mình.
Khoa học gia đã khám phá nhiều nhân tố trách nhiệm về cuộc sống của đời người, cây cối, hành tinh, nguyên tố, và các nhiệt lượng khác. Nhưng chưa ai có thể tìm ra được nguyên nhân đầu tiên tạo sự hiện hữu của chúng. Trong việc tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của bất cứ một cuộc sống con người hay một vật gì, họ đưa ra một số các nguyên nhân được cho là nguyên nhân chính nhưng chưa bao giờ thấy được nguyên nhân đầu tiên. Trong tiến trình tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên hết lần này đến lần khác, họ lại quay trở về vị trị cũ. Đó là vì nguyên nhân trỏ thành kết quả, và kế tiếp kết quả trở thành nguyên nhân để rồi trở thành kết quả khác. Cho nên Đức Phật nói: "Việc đó không thể hiểu được và vũ trụ không có điểm bắt đầu".
LINH HỒN CÓ BẤT DIỆT KHÔNG?
Tin linh hồn bất diệt là một quan niệm sai lầm về tâm thúc con người.
THUYẾT VỀ LINH HỒN
Dạy về lý thuyết linh hồn, có ba hạng đạo sư trên thế giới:
Hạng thứ nhất dạy sự hiện hữu của một cái Ngã thực thể bất diệt trưòng tồn mãi mãi: Vị đạo sư này theo thuyết bất diệt (thường kiến).
Hạng thứ nhì dạy cái Ngã thực thể chỉ tạm thời sẽ bị hủy diệt khi chết: Vị đạo sư này là các nhà duy vật chủ nghĩa.
Hạng thứ ba dạy không có cái Ngã bất diệt hay tạm thời: Vị đạo sư này là Đức Phật.
Đức Phật dạy cái mà ta gọi ngã, bản thân, linh hồn, cá nhân vân vân.. chỉ là các từ ngữ có tính cách quy ước (chế định), các từ ngữ này không liên quan đến một cái gì đích thật, một thực thể hoàn toàn độc lập. Theo Phật Giáo không có lý do nào có thể tin tưởng là có một linh hồn bất diệt xuống từ thiên đường, hoặc tự tạo thành và sau khi chết sẽ lên thiên đưòng, hay xuống địa ngục. Người Phật Tử không thể chấp nhận bất cứ điều gì bất diệt, không thay đổi trên thế giới này hay thế giới khác. Chúng ta chỉ chấp chặt vào mình để mong tìm một cái gì bất tử. Chúng ta chẳng khác gì các trẻ thơ, chúng muốn nắm bắt lấy cầu vồng. Với trẻ thơ, cầu vồng là cái có thật sống động, nhưng mgười lớn biết rằng cầu vồng chỉ là ảo ảnh tạo ra bởi một số tia sáng và những giọt nước. Ánh sáng chỉ là một loạt sóng nhấp nhô không thực, chẳng hơn gì cầu vồng.
Con người thành công mà không cần phải khám phá linh hồn. Con người không hề biểu lộ dấu hiệu gì mệt mỏi hay thoái hóa do không tìm gập linh hồn nào. Chưa có người nào sản xuất được thứ gì để làm thăng tiến nhân loại bằng cách mặc nhận một linh hồn và khả năng tưởng tượng của nó. Tìm kiếm linh hồn trong con người chẳng khác gì tìm một vật trong phòng trống rỗng tối tăm. Nhưng con người bất hạnh kia chằng bao giờ nhận thức được rằng vật muốn tìm đó không có trong phòng. Thật là khó khăn để làm cho kẻ đó hiểu được sự vô ích của việc tìm kiếm này.
Những kẻ tin tưởng vào sự hiện hữu của linh hồn không cách chi có thể giải thích được linh hồn là gì và ở đâu. Lời khuyên của Đức Phật là đừng lãng phí thì giờ vào những chuyện không đâu không cần thiết mà hãy nỗ lực trong việc tranh đấu để tự cứu. Khi chúng ta đã đạt được mức toàn hảo, chúng ta sẽ có thể nhận thức được có hay không có linh hồn. Vị du tăng tên Vacchagotta hỏi Đức Phật có hay không có cái "Ta" . Câu chuyện như sau:
Vachagotta tìm đến Đức Phật và hỏi Ngài:
"Thưa Ngài Cồ Đàm, có cái Ta không?
Đức Phật im lặng.
"Vậy Thưa Ngài Cồ Đàm, phải chăng không có cái "Ta"?
Đức Phật vẫn im lặng. Vacchagotta đứng dạy và bỏ đi .
Sau khi du tăng này đi khỏi, Ngài A Nan hỏi Đức Phật tại sao Ngài không trả lời câu hỏi của Vacchagotta. Đức Phật giải thích như sau:
"Này A Nan, khi đạo sĩ Vacchagotta hỏi "Có cái Ta không?", nếu ta trả lời " Có Cái Ta", câu trả lời như vậy chứng tỏ là ta tán đồng ý kiến của của các nhà tu ẩn dật và các Bà là môn chủ trương thuyết bất diệt (sassata-vada) (thường kiến).
"Này A Nan, khi du tăng hỏi: "Phải chăng không có cái Ta? Nếu ta trả lời "Không có cái Ta" câu trả lời như vậy ta đứng về phía những nhà tu ẩn dật và Bà la môn chủ trương thuyết tịch diệt (đoạn kiến).
"Lại nữa này A Nan, khi Vacchagotta hỏi ta: "Có cái Ta không?" Nếu ta trả lời có cái Ta thì có phù hợp với sự hiểu biết của ta là tất cả các Pháp đều vô ngã không? .
"Chắc chắn là không, Bạch Đức Thé Tôn ", Ngài An Nan nói.
"Lại nữa này A Nan, nhà tu khổ hạnh hỏi ta: "Không có cái Ta phải không? Nếu ta trả lời 'Không có cái Ta' câu trả lời sẽ làm cho Vacchagotta hết sức bối rối vì chính Vacchagotta đã đang băn khoăn về vấn đề này . Nhà tu này sẽ nghĩ: 'Trước đây ta cứ tưởng có cái Ta, mà nay cái Ta lại không có' ". (Samyutta Nikaya).
Đức Phật cho những suy đoán về linh hồn là hoàn toàn vô ích và ảo tưởng. Có lần Ngài nói rằng do vô minh và ảo tưởng mà con người say mê trong mộng là linh hồn của họ riêng rẽ và có cái ngã thực thể hiện hữu. Tâm họ vẫn bám níu vào cái Ta. Họ lo nghĩ về thiên đường và tìm kiếm lạc thú của cái Ta trên thiên đường. Như vậy, họ không thể thấy được hạnh phúc của chánh đạo và sự bất tử của chân lý. "Tư tưởng vị-kỷ xuất hiện trong tâm con người do quan niệm về cái Ta và lòng bám níu vào sự sống còn của họ".
VÔ NGÃ: GIÁO LÝ VỀ "KHÔNG CÓ LINH HỒN"
Bằng Giáo Lý Vô Ngã, Đức Phật chống lại mọi thuyết chủ trương có linh hồn và ức đoán về linh hồn với giáo lý Vô Ngã của Ngài. Vô Ngã được giải thích dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau như: Không Có Linh Hồn, Không Có Cái Ta, Vô Ngã, Tính Chất Không Có Linh Hồn..
Muốn hiểu giáo lý Vô Ngã, chúng ta phải hiểu rằng thuyết linh hồn bất diệt: "Tôi có một linh hồn" - thuyết duy vật: "Tôi không có linh hồn" - là những chướng ngại cho việc tự giác và giải thoát. Những chướng ngại này phát xuất từ quan niệm sai lầm "Tôi Là". Cho nên, muốn hiểu giáo lý Vô Ngã, ta phải không chấp vào một ý kiến nào hay quan điểm về thuyết linh hồn; hơn thế ta phải cố gắng khách quan nhìn sự vật đúng như chúng là thế không chút thành kiến. Ta phải học cách nhìn cái gọi là "Tôi", Linh Hồn hay Ngã, chúng thực sự như thế nào: chúng chỉ là sự phối hợp của các lực thay đổi. Việc này cần phải một vài lý-giải.
Đức Phật dạy cái mà ta nhận thức như bất diệt trong ta, chỉ là sự phối hợp của các uẩn hay lực của tinh thần và vật chất, tạo thành Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Những lực này cùng nhau liên kết hoạt động trong một dòng không ngừng thay đổi; chúng không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tiếp nhau. Chúng là thành phần của đời sống vật chất và tâm lý. Khi Đức Phật phân tích đời sống vật chất-tâm lý, Ngài chỉ thấy ra năm uẩn hay lực trên đây, Ngài không tìm thấy linh hồn bất diệt nào cả. Tuy nhiên, rất nhiều người vẫn còn có quan niệm sai lầm cho linh hồn là Thức. Đức Phật tuyên bố rõ rệt là Thức tùy thuộc vào Sắc, Thọ, Tưỏng và Hành và Thức không thể hiện hữu độc lập ngoài chúng.
Đức Phật nói: "Này các Thầy, Thân (Sắc) không phải là Ta, Thọ không phải là Ta, Tưởng không phải là Ta, Hành không phải là Ta, và Thức cũng chẳng phải là Ta. Nhận định như vậy, này các Thầy, người hành giả không thấy giá trị nào của Thân (Sắc), Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Nhận thấy chúng không giá trị, hành giả không còn ràng buộc bởi đam mê và sẽ được tự do. Sự hiểu biết về giải thoát phát sanh trong tâm tư. Và hành giả biết rằng mình đã làm xong điều gì cần phải làm, đã sống cuộc sống thánh thiện, và không còn trở thành cái này hay cái kia nữa, rằng tái sanh của mình đã bị đoạn diệt" . (Kinh Vô Ngã Tướng)
Giáo lý Vô Ngã của Đức Phật đã trải qua trên 2500 năm. Ngày nay giòng tư tưởng của thế giới khoa học tiên tiến đang hướng về Giáo Lý Vô Ngã hay Giáo Lý không Có Linh Hồn của Đức Phật. Dưới mắt các nhà khoa học hiện đại, con người chỉ là một mớ những cảm giác thay đổi hoài hoài. Những nhà vật lý học tiên tiến nói rằng vũ trụ có bề ngoài là một khối đặc, thực ra chẳng phải cấu tạo bằng các chất đặc nhưng chính là một luồng năng lượng. Nhà vật lý học hiện đại thấy rằng tất cả vũ trụ là một tiến trình thay đổi của nhiều lực mà trong đó con người chỉ là một phần. Đức Phật là người đầu tiên nhận ra điều đó.
Một học giả nổi tiếng, W.S. Wily, đã có lần tuyên bố: "Càng ngày con người càng không tin tưởng vào sự hiện hữu của cái bất tử trong con người do ảnh hưởng của trường phái tư tưởng lớn hiện đại". Niềm tin vào sự bất tử của linh hồn chỉ là giáo điều trái ngược lại với sự thật (chân lý) vững chắc và thực nghiệm nhất.
Niềm tin suông vào linh hồn bất tử, hay tin chắc rằng có một thứ gì đó trong chúng ta vẫn sống còn sau khi chết, không làm cho chúng ta bất tử trừ phi chúng ta biết cái gì sống còn mà tự chúng ta có khả năng đồng hóa với nó. Hầu hết các chúng sanh chọn lựa cái chết thay vì chọn bất tử do họ tự đồng hóa với cái tàn lụi và vô thường do dai dẳng bám chặt vào xác thân hay những yếu tố tạm bợ của con người ở hiện tại mà nhầm lẫn cho đó là linh hồn hay hình thức thiết yếu của sự sống.
Nói về những công trình nghiên cứu trên, các khoa học gia tiên tiến hiện nay càng ngả về việc khẳng định cái gọi là "Linh Hồn" chỉ là một mớ cảm giác, xúc cảm, tình cảm, liên quan đến kinh nghiệm vật chất; Giáo Sư James cho rằng từ ngữ "Linh Hồn" chỉ là một cách nói không có thực thể tương ứng.
Giáo Lý Vô Ngã của Đức Phật cũng giống như Giáo Lý Tánh Không (tính chất trống rỗng) mà trường phái Đại Thừa diễn dịch Mặc dù quan niệm ấy được nhà luận giả Đại Thừa xuất chúng, Ngài Long Thọ phân tích với nhiều kiến giải khác nhau, cũng không có quan điểm gì đặc biệt trong Tánh Không khác biệt nhiều với giáo lý nguyên thủy Vô Ngã của Đức Phật.
Niềm tin vào Linh Hồn hay cái Ta và Thượng Đế Sáng Tạo, đã ăn sâu vào tâm khảm nhiều người cho nên họ không tưởng tượng nổi tại sao Đức Phật không chấp nhận hai điều đó rất cần thiết đối với nhiều tôn giáo. Có người bất bình hay tỏ ra nóng nảy, cố gắng biểu lộ cảm xúc của mình khi nghe thấy Đức Phật không chấp nhận hai quan niệm này. Đó là lý do chính tại sao đối với các học giả khách quan và các nhà tâm lý học Phật Giáo đứng riêng biệt khi so sánh với tất cả những tôn giáo khác. Đồng thời cũng có một số học giả khác từng ca ngợi các khía cạnh khác của Phật Giáo nghĩ rằng Phật Giáo sẽ được phong phú thêm nếu giải thích sâu rộng hơn tiếng "Atta" của Đức Phật để giới thiệu quan niệm và Linh Hồn và cái Ngã vào Đạo Phật. Đức Phật đã lưu tâm về sự không vừa ý này cũng như về sự xáo trộn quan điểm liên quan đến niềm tin này.
"Mọi vật do duyên sinh đều vô thường,
Mọi vật do duyên sinh đều khổ đau,
Mọi vật (Pháp) do duyên sinh hay không do duyên sinh đều không có linh hồn hay vô ngã
-- (Kinh Pháp Cú, 277-279)
Có một ngụ ngôn trong Kinh Điển Phật Giáo nói về niềm tin vào một linh hồn bất diệt. Một người, vì nhầm lẫn tưởng sợi dây là con rắn, nên mang tâm trạng sợ hãi. Sau khi khám phá ra con rắn chỉ là một sợi dây, kẻ đó không còn sợ hãi và cảm thấy an tâm. Tin có một linh hồn bất diệt cũng giống như sợi dây - tưởng tượng nhầm lẫn của con người.
-ooOoo-
Vì sao tin PhậtHòa thượng K. Sri DhammanandaThích Tâm Quang dịch Việt, California, Hoa Kỳ, 1997 Nguyên tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét