---o0o---
Mục Lục Lời giới thiệu Vài lời về tác giả 1. Giới, Định và Huệ 2. Mục Đích Hành Thiền Minh Sát Tuệ 3. Danh Pháp và Sắc Pháp 4. Danh Sắc và Nhân Quả 5. Tứ Diệu Đế 6. Thập Nhị Nhân Duyên 7. Vô Minh - Căn Nhân của sự Luân Hồi 8. Niết Bàn 9. Sống Theo Đức Phật |
Lời giới thiệu
Tập "Mười Ngày Thiền Tập" được phát hành nhân dịp lễ lạc thành Thích Ca Thiền Viện, ngày 23 tháng 3 năm 1997 (Rằm tháng 2, năm Đinh Sửu).
Tập sách gồm những bài pháp do Ngài Thiền Sư Khippapanno Kim Triệu ban giảng trong khóa thiền thứ 21 Mùa Đông 1986, được tổ chức tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Những bài pháp này vừa có tính cách dẫn giải, khuyến tu cho các thiền sinh, vừa mang chứa những lợi lạc thiết thực đến thân tâm cho tất cả chúng ta.
Tập sách được hoàn thành do nhờ công sức cùng sự nhiệt tình bền bỉ của cô Tâm Thuận và bạn hữu.
Thiền viện xin chân thành tri ân đến tất cả.
Thích Ca Thiền Viện
Vài lời về Tác Giả
Thiền sư Khippapanno Kim Triệu sanh tại làng Phương Thạnh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam vào ngày 5 tháng 12, năm 1930. Từ lúc tuổi thơ, Ngài đã được cụ bà thân sinh có nhiều đạo tâm thường dẫn đi chùa và khuyến khích làm quen với nếp sống ở chùa. Nhưng chẳng may Cụ Bà qua đời vào năm Ngài vừa lên chín, rồi vài năm sau, lúc Ngài được mười hai tuổi, Cụ Ông cũng mãn phần.
Ngài Kim Triệu xuất gia Sa-di lúc được 17 tuổi, và từ lúc bấy giờ đã có ý thích tìm hiểu và học tiếng Pàli, nghĩ rằng đó là ngôn ngữ mà chính Đức Phật đã dùng để truyền bá Giáo Pháp. Vào năm 1949, ngày 11 tháng 5, Ngài thọ Cụ Túc Giới, xuất gia Tỳ-khưu tại Cao Quý Tự, Phương Thạnh, Trà Vinh (lúc bấy giờ đổi tên là Vĩnh Bình). Thầy Bổn sư cho Pháp Danh là Khippa-Panno (có nghĩa là Thiện Trí hay Tốc Trí), thường được gọi là Sư Panno, hoặc Sư Kim Triệu.
Năm 1950, Ngài học đạo tại chùa Giác Quang, Bình Đông, Chợ Lớn, và năm 1956 nhập Hạ tại Kỳ Viên Tự, Bàn Cờ, Sàigòn.
Năm 1957, Ngài học Pàli và giáo lý tại Chùa Tam Bảo Tự, do Ngài Đại Đức Giới Nghiêm và Ngài Đại Đức Shanti Bhadra, người Tích Lan hướng dẫn.
Năm 1958, Ngài Đại Đức Giới Nghiêm, lúc bấy giờ là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, phái Ngài đến chùa Phước Quang, Bình Định, dạy đạo. Cũng như ở các nơi khác, Ngài luôn luôn hợp tác với chư vị thiện tín địa phương thành lập đoàn Nhi Đồng, dạy kinh điển và giáo lý cho trẻ em.
Vào cuối năm 1958, nhân dịp Phật Học Viện Pháp Quang, Gia Định, khai giảng lớp Giáo Lý và Pàli, Ngài trở về tu học, nhận bằng cấp danh dự Sơ Đẳng Pàli và bằng cấp Trung Đẳng Phật Học, và lưu lại đây phụ dạy văn phạm Pàli và kinh kệ.
Từ năm 1962 đến năm 1964, Ngài tu học tại chùa Bửu Quang, xã Tam Bình, quận Thủ Đức. Năm 1964, Ngài được Viện Đại Học Nalanda, Ấn Độ, cấp học bổng đi tu học với nhiều giáo sư Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện. Đến năm 1970, Ngài đỗ bằng Pàli Acharya (giáo sư dạy môn Pali), bằng B.A. Phật Học, và bằng M.A. Pàli. Sau đó, Ngài theo học lớp Cổ Sử Ấn Độ tại Đại Học Maghadh.
Năm 1974, Ngài sang Thái Lan hành đạo 6 tháng. Năm 1975, một người Phật tử Mỹ tên Larry Gregory cung thỉnh Ngài sang Nepal, gần thành phố Kathmandu, dạy 7 khóa thiền trong thời gian 7 tháng. Năm 1979, Ngài trở lại đây lần thứ hai để mở một khóa hành đạo 10 ngày.
Từ năm 1975 đến năm 1979, trong hai nhiệm kỳ với nhiệm vụ phụ tá Tổng Thư Ký Trung Tâm Thiền Định Quốc Tế tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài phụ giúp việc xây cất Trung Tâm. Vào năm 1978, Ngài theo học đạo và hành thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng và Pondichery với Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, một vị cao tăng người Miến Điện. Trong hai năm 1978-1979, Ngài nhập hạ tại Asoka Mission Vihara, New Delhi và trong thời gian này, tiếp tay với hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, cứu trợ đồng hương tại Ấn Độ.
Vào tháng 7 năm 1980, Ngài sang Ngưỡng Quang (Miến Điện) thực hành pháp Tứ Niệm Xứ trong sáu tháng dưới sự hướng dẫn của Ngài Đại Đức Mahasi Sàyadaw, và gặt hái nhiều thành quả khả quan.
Từ năm 1976, theo sự khuyến khích của Ngài Đại Đức Ghosananda, Ngài Kim Triệu theo học với nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng tại Ấn Độ như Ngài Shree Acharya Anagarika Munindra, Ngài Goenkar, Ngài Rastrapal, Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, và sau cùng sang Miến Điện được duyên lành thọ huấn với Ngài Mahasi Sàyadaw.
Theo lời mời của Cụ Bà Lê Thành Nghiệm, Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, Ngài Kim Triệu sang Mỹ vào năm 1981 và lưu ngụ tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Tại nơi đây, từ năm 1982 đến nay, ngoài những buổi lễ hàng tuần và những buổi thiền tập theo nghi thức thường lệ, mỗi mùa -- Xuân, Hạ, Thu, Đông -- Ngài Thiền Sư Kim Triệu mở một khóa thiền 10 ngày.
Các chùa ở tiểu bang khác, tùy duyên, cũng thỉnh Ngài đến hướng dẫn những khóa thiền như: Chùa Pháp Vân, Pomona, CA; chùa Lake Wood (người Cam Bốt), Long Beach, CA; Tu Viện Kim Sơn, CA; chùa Veluvana, AL; chùa Taung Pulu Kaba Aye (người Miến Điện), CA; Chùa Phật Ân, MN; Như Lai Thiền Viện, San Jose, CA; v.v... Các nhóm Phật tử đó đây thỉnh thoảng cũng cung thỉnh Ngài đến dạy thiền.
Trong những năm 1990-1992, chùa Phật Bảo tại Savigny-Sur-Orge, Pháp, Thích Ca Thiền Viện tại Saint Agnan, Pháp, các nhóm Phật tử tại Paris và các vùng phụ cận, cung thỉnh Ngài Kim Triệu sang Pháp mở những khóa thiền.
Năm 1994, nhân dịp cung nghinh Tam Tạng Kinh về Pháp Bảo Tự, Mỹ Tho, Việt Nam, theo lời thỉnh cầu của vị Viện Chủ Phước Sơn Thiền Viện, tỉnh Đồng Nai, Ngài hướng dẫn một khóa thiền tại đây.
Nhận thấy thành quả tốt đẹp của những khóa thiền do Ngài Khippapanno Kim Triệu hướng dẫn và nhu cầu cần được đáp ứng của đồng bào Phật Tử địa phương, vào năm 1986, quý vị Phật tử vùng California cung thỉnh Ngài đứng ra sáng lập một đạo tràng để tu tập, và ngày 15 tháng 7 năm 1988, ngôi Thích Ca Thiền Viện, Riverside, bắt đầu hoạt động. Từ đó, tại đây hằng năm, mỗi mùa đều có một khóa thiền.
Vừa hoạt động vừa mở mang cơ sở, công trình xây cất Thích Ca Thiền Viện phần lớn đã hoàn tất viên mãn và Lễ Lạc Thành được cử hành vào ngày 23 tháng 3, năm 1997
Ngày Thứ Nhất
Giới, Định, Huệ
Hôm nay là bắt đầu khóa thiền mùa Đông năm 1986 (năm thứ ba của quý vị). Sư lấy làm hoan hỷ thấy quý vị có đạo tâm, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo.
Kiểm điểm sự thực hành của quý vị, thiền sinh nào cũng có tiến bộ, hiểu rõ như thế nào là Thiền Quán hoặc Minh Sát Tuệ, và như thế nào là Thiền Chỉ. Khi đã biết rõ và biết cách tu niệm, thì hành giả lại càng nên tinh tấn thêm, không thối chí. Tinh tấn hành trì cho đến khi nào đức tin của quý vị không còn thay đổi. Tới lúc đó, dù quý vị không hành, thì nhiệm vụ Pháp Bảo vẫn hướng dẫn quý vị đến nơi đến chốn. Đó là mục đích chung của hành giả ở trên thế gian này.
Đức Phật thường gọi "đệ tử của Như Lai" là những người có đức tin không thay đổi. Như thế nào gọi là đức tin không thay đổi? Đó là đức tin không thay đổi về Tam Bảo. Biết rõ có Phật thật, có giáo lý rõ ràng của Ngài và thực hành theo các lời dạy đó. Những vị này cũng được gọi là những vị Tăng chân đế vì họ đã chứng nghiệm rõ Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã, cũng như thấy rõ Tứ Diệu Đế. Được vậy là chúng ta không uổng công sinh ra làm người, cũng như không uổng công làm người Phật tử.
Mục đích của hành giả đến đây trong 10 ngày của khóa thiền là để có tâm định và tạo trí tuệ. Vì vậy khi đến đây, với một đức tin vững chắc trong nội tâm, chúng ta xin cúng dường Đức Phật về vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất, quý vị bỏ tất cả công ăn việc làm trong 10 ngày. Về tinh thần, quý vị đến đây để rèn luyện tâm. Sự cúng dường bằng hành động tu tập này là cúng dường quý báu nhất trên thế gian.
Việc hành đạo như vậy không phải là dễ. Mỗi khi chúng ta đi hành thiền, nói là trong 10 ngày nhưng không phải trọn đủ 10 ngày. Ngày thứ nhất kể như mất vì tâm vẫn còn bận rộn như ở nhà. Tâm ta cần một thời gian tu tập mới yên định được. Ngày cuối, gần về nhà thì tâm chúng ta bận rộn trở lại. Vì vậy, có thể xem như chúng ta hành thiền đầy đủ chỉ có trong 8 ngày thôi. Dù chỉ 8 ngày, quý vị cũng sẽ thấy một vài kết quả của sự thực hành. Đức Phật dạy rằng nếu hành giả có duyên lành trong Phật Pháp, tinh tấn hành trì chỉ trong 7 ngày thôi là được đắc đạo quả bậc A-La-Hán hay A-Na-Hàm (Bất Lai). Nếu có duyên lành ít hơn thì đắc đạo quả thấp hơn, v.v... Vậy, ta thấy có quả báu thật sự của công phu hành đạo và ta nên hết lòng tin tưởng thực hành trong những ngày còn lại trong khóa thiền này.
Việc thực hành ở xứ này rất là khó, không phải như ở những xứ Phật Giáo Á Đông. Ở đó, muốn đi tu tập rất là dễ. Nhưng ở xứ này như quý vị cũng biết, mỗi lần đi là mỗi lần khó khăn, mà mỗi 3 tháng mới đi được một lần. Vì vậy, quý vị phải tinh tấn và tranh đấu với thời gian còn lại, đừng cho hao mất. Căn bản của sự thực hành là gì? Đức Phật chỉ con đường đi đến Niết-Bàn rất rõ ràng, và Ngài để lại một cái thang rất đẹp có 3 nấc: Đó là Giới, Định, và Huệ. Chúng ta đến đây thực tập là để phát triển Định và Huệ. Làm sao phải định tâm và phát triển trí huệ cho được, phải thấy rõ chân tướng của vạn vật. Đức Phật chỉ cho chúng ta phương pháp để Định tâm và khi Định tâm rồi, chúng ta sẽ có Huệ.
Trước khi hành thiền, chúng ta cần phải có Giới. Giới giúp thân và khẩu trong sạch. Khi thân và khẩu trong sạch thì tâm mới Định được. Tại sao vậy? Vì tâm định trong thân. Thân sạch, khẩu sạch mới làm nền tảng cho tâm Định được. Vì vậy khi mới vào khóa thiền, sau khi lễ Phật, quy y Tam Bảo là quý vị thọ trì giới đức. Khi Giới trong sạch rồi, tâm nhẹ nhàng thì Định sẽ phát sanh, tiếp theo là Huệ phát sanh. Nếu không giữ Giới đức, tâm sẽ có nhiều trạo hối và không Định được. Khi không Định được thì sẽ không bao giờ có Huệ. Chắc chắn như vậy. Khi Giới trong sạch, rồi Định Huệ lần lần sanh lên thì quý vị thấy rõ chân tướng trên thế gian này. Vì vậy, Giới là quan trọng.
Làm thế nào cho Giới được trong sạch? Trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), tác giả Đại Đức Buddhaghosa đã dành một phần lớn để nói về Giới. Ngài nói: Giới là cao thượng, Giới là trong sạch, Giới là nền tảng, Giới là đầu. Đức Phật dạy tất cả những con sông lớn tại xứ Ấn Độ là sông Yamuda, Sarapu, Saravati, Achiravati, hoặc con sông cao thượng nhất là Maghi cũng không thể tắm gội cho sạch những người không có Giới, cũng không có dầu thơm hoặc trầm hương nào có thể gội rửa sạch cho những người không có Giới. Chỉ có Giới mới rửa sạch thân ác và khẩu ác của chúng sanh. Người không có Giới bị thế gian khiển trách và tâm không được an vui. Giới giúp người có của cải. Giới có khả năng đưa hành giả đi đến các cõi Thiên, và tiếp tục đưa hành giả đi tới Niết Bàn. Cho nên, thọ trì Giới luật là nền tảng cho sự thực hành.
Ngày đầu tiên trong khóa thiền, quý vị thọ Ngũ Giới, Bát Giới, hoặc Thập Giới. Ngũ Giới là Giới căn bản, là luân lý trên thế gian này. Dù Đức Phật có ra đời hay không, khi có chúng sanh thì tự nhiên có Ngũ Giới trong xã hội. Ngũ Giới gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
1) Không sát sanh là không giết hại từ loài người đến các loài súc vật.
2) Không trộm cắp là không lấy những vật gì không cho mình.
3) Không tà dâm là giới thứ ba.
4) Không nói dối là phải luôn luôn nói lời chân thật. Giới này rất khó giữ, nên ở các trung tâm thiền, thiền sinh phải tịnh khẩu. Dù cho đàm luận giáo lý giữa các thiền sinh, cũng không được làm. Vì nếu thiền sinh chưa phải là bậc thánh nhân, vẫn còn phiền não, thì khi nói quá lâu, tâm thiền sinh sẽ không được trong sạch.
Ngoài những bậc thánh nhân đã đắc đạo quả cao thượng, chỉ có hai hạng người không nói dối. Thứ nhất là Đức Bồ Tát. Dù có hạĩi đến sanh mạĩng đi nữa, Ngài cũng không bao giờ nói dối. Đức Bồ Tát có thể phạm giới sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nhưng không khi nào phạm Giới nói dối. Khi hỏi Ngài: "Vậy chớ Ngài có sát sanh không?" Ngài trả lời: "Dạ tôi có." Vậy là Ngài không nói dối.
Hạng chúng sanh thứ nhì cũng giữ Giới không nói dối được trong sạch là gia quyến của Đức Phật. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, dòng họ Thích Ca bị hoàng tử Vidũdabha tru diệt. Hoàng tử cho quân lính xét hỏi từng người, nếu ai thuộc dòng Thích Ca sẽ bị giết, nhưng dù chết không một ai nói dối. Họ đều thừa nhận là họ thuộc dòng Thích Ca.
5) Giới thứ năm là Giới không uống rượu và dùng các chất say như thuốc phiện, xì ke, ma túy.
Đây là Ngũ giới, là Giới căn bản nhất của hành giả. Ít nhất, quý vị phải có ngũ giới. Bằng không, vì thân và khẩu không trong sạch, tâm không thể nào định được.
Ngũ giới là Giới luân lý. Sau khi Đức Phật thành đạo và bắt đầu hoằng pháp, còn có những Giới khác nữa. Sở dĩ Đức Phật đặt thêm các Giới sau này vì Ngài thấy Giới về thân và khẩu liên quan đến tâm. Nếu giữ thân và khẩu trong sạch thì tâm ít phiền não, nhẹ nhàng. Và khi tâm được nhẹ nhàng thì ít nghĩ đến vấn đề phá Giới. Vì vậy có Bát quan trai Giới và những Giới khác nhằm mục đích giúp cho thân khẩu thanh tịnh hơn nữa.
Bát quan trai Giới có thêm 3 điều:
- Một là không ăn sái giờ. Quý vị ăn trước ngọ, lúc 11 giờ, trễ lắm là 11:30 giờ sáng.
- Hai là không múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.
- Ba là không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp. Ở xứ Mỹ khác hơn ở Á Châu. Ở xứ ta, nếu có giường như vậy là sang trọng; nhưng ở Mỹ hình như đây là tiêu chuẩn bình thường. Ta thông cảm vậy.
Thêm vào đó, giới thứ ba - không tà dâm - được sửa lại là không hành dâm trong khi thọ trì Bát quan trai giới.
Bát quan trai Giới thường được thọ trì trong những xứ Phật Giáo vào những ngày mồng 5, 8, 14, 15, 20, 23 , 29, và 30 âm lịch. Còn Bát quan trai trường là giữ luôn suốt cuộc đời như Cụ Bà Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn.
Người cư sĩ cũng có thể thọ Thập Giới, là thêm 2 giới nữa. Ở đây Giới thứ 7 chia ra làm hai phần: một là không múa hát, thổi đờn kèn, xem múa hát, nghe đờn kèn. Hai là không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. Giới thứ 8 trở thành Giới thứ 9. Giới thứ 10 là không giữ tiền bạc, vàng bạc, và thỏa thích trong việc cất giữ tiền bạc.
Đó là những Giới của hành giả trong 10 ngày. Nếu giữ Giới trong sạch thì chắc chắn Định và Huệ sẽ phát triển. Bằng không thì Định và Huệ sẽ không lên được.
Đức Phật dạy về quả báu của Giới đức như sau: "Tất cả chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ Giới, được giàu sang cũng nhờ giữ Giới, được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ Giới." Vậy Giới đức có khả năng đưa hành giả đến Thiên Đàng và tiếp tục đưa hành giả đi đến cửa Niết Bàn. Niết Bàn ở đâu? Ở Định và Huệ. Khi tham thiền, người thấy Chân Lý là thấy Niết Bàn; người thấy Tứ Diệu Đế là thấy Niết Bàn, người thấy rõ Vô Thường, Khổ, Vô Ngã là thấy Niết Bàn.
Đức Phật dạy rất rõ ràng: Muốn thấy Niết Bàn phải quán sát Danh Pháp và Sắc Pháp. Hai pháp cao thượng này là pháp chúng ta đang thực hành trong lúc ngồi, lúc đi, hay trong lúc đang nghe giảng này vậy. Đó là hai pháp mà chúng ta đang cúng dường Đức Phật. Dù người ta có là triệu phú tới chùa cúng dường bông hoa, thức ăn, cũng chỉ một ngày đó thôi rồi trở lại với công ăn việc làm. Còn quý vị không phải vậy. Tới chùa trong 10 ngày, nguyện khắn khít nơi cửa Niết Bàn, chúng ta chỉ thấy Danh và Sắc Pháp; và chúng ta cúng dường Pháp chứ không cúng dường vật thực, trái cây hoặc bông hoa. Với vật thực, sau khi cúng dường, lui ra là chúng ta quên hẳn. Còn cúng dường Pháp Bảo trong khi ngồi khi đi, không phải chúng ta chỉ cúng dường một lúc nào đó thôi mà là từng giờ, từng phút, từng giây, từ lúc thức giấc cho đến khi lên giường ngủ.
Đức Phật đã bảo rằng: "Đường đi Niết Bàn Như Lai đã tìm thấy và đã chỉ rõ cho các con. Tới hay không là do nơi các con vậy." Vậy với chìa khóa trong tâm, ta cứ mở ra xem trong thân tâm này cho đến khi không còn gì dấu được ta nữa thì chúng ta mới hết hoài nghi. Ví dụ, các tôn giáo khác nói trong thân có linh hồn. Cái gì khác có thể thay đổi, chứ linh hồn không thay đổi. Hay là họ cho rằng Thượng Đế tạo ra con người. Nếu chúng ta u mê, mờ ám không thấy thì cũng nói rằng Thượng Đế tạo ra ta và để cho vô minh che kín không chuyển nghiệp được, rồi chìm đắm trong sông mê bể khổ. Giờ đây, chúng ta thức tỉnh, sáng suốt đi tới Niết Bàn với một trí nhớ theo dõi, Định ở trong tâm. Khi có Định rồi, chúng ta phải biết phân tách tâm định.
Với Chánh Niệm hay trí nhớ, quý vị sẽ thấy rõ đề mục. Niệm phồng xẹp, đi, đứng, nằm, ngồi, co tay ra vô, v.v... gọi là niệm thân. Khi co tay quý vị quán, khi ăn cũng quán, khi nhai cũng quán, khi bụng phồng xẹp cũng quán, để xem có đúng với giáo lý của Đức Phật hay không. Gọi cái này là thân (hay sắc), có đúng vậy không? Rồi phần biết thân này là tâm (hay danh), có đúng vậy không? Như vậy Sắc Pháp và Danh Pháp có đúng không? Rồi quý vị hành trì chi tiết thêm, niệm tỉ mỉ, thấy hai pháp này luôn thay đổi.
Đôi khi hành giả có thói quen, ước muốn mọi việc như ý mình. Ví dụ như quý vị nói khi trước cảm thấy đau rồi niệm đau thì hết, bây giờ thấy đau nhưng niệm hoài không hết, rồi sinh hoài nghi pháp hành của mình. Vậy là không đúng. Dù cái đau có hết hay không hết, đó là chuyện của cái đau. Nếu nó không hết, chúng ta phải quán trở lại, suy nghĩ tại sao không hết. Khi suy nghĩ, quý vị sẽ thấy là nó không ở dưới sự kiểm soát của ta. Ta không muốn đau mà vẫn có nó. Ta không bảo nó hết đau được vì ta không làm chủ nó. Đấy là Vô Ngã. Hiểu như vậy, ta không chấp thủ. Nếu có chấp thủ ở đây là chúng ta kẹt.
Đề mục chính ở đây là phồng xẹp. Tại sao dùng phồng xẹp làm đề mục? Trước hết, đây là cử động của thân, là yếu tố gió trong Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió). Khi hơi thở vào thì bụng phồng; hơi thở ra thì bụng xẹp. Hơn nữa, đây là đề mục thay đổi: hết phồng rồi xẹp, hết xẹp rồi phồng. Đề mục thay đổi giúp hành giả dễ nhận thức được Vô Thường. Điểm này rất là quan trọng.
Ngoài đề mục chánh, còn có những đề mục phụ sanh lên. Có khi sanh lên rồi diệt, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc đều đều; cũng như hơi thở vậy. Hơi thở phồng rồi xẹp, khi nhanh, khi chậm, khi đều đều. Hoặc Thọ: đôi khi đau rồi mau hết, đôi khi lâu hết. Cũng như bệnh cảm cúm: đôi khi bệnh cảm mau hết, đôi khi lâu hết, đôi khi còn bị bệnh cảm nặng hơn. Ở đây, nếu không hết đau thì cứ tiếp tục Niệm. Chỉ vậy thôi. Niệm rồi bỏ qua. Không có gì suy nghĩ, thắc mắc ở trong đó. Đừng thắc mắc, tại sao khi trước tôi ngồi thiền thì thấy nó như thế mà bây giờ nó lại không như thế. Nếu chú niệm hoài mà không hết đau, quý vị có thể trở về đề mục chính. Đây là nhiệm vụ của hành giả.
Hành giả không nên hoài nghi trong cách thức tu niệm. Về kinh nghiệm, chúng ta không mong rằng hôm nay phải khác hơn hôm qua. Dù nó thay đổi hay không thay đổi, nó cũng là nó. Nhiệm vụ chúng ta là biết trong hiện tại thôi. Nếu có ghi nhận thì chỉ ghi nhận trong lúc này, dù giống hay khác lúc trước thì cũng không thành vấn đề, và ta chỉ cần biết nó là như vậy. Đặt hết niềm tin tưởng, tinh tấn, và luôn luôn có trí nhớ biết mình, thì sẽ có tiến bộ.
Trên đây, Sư chỉ cho quý vị thấy rõ Giới là căn bản trong sự thực hành. Giới được trong sạch thì chúng ta thắng được ta. Người đời trên thế gian có thiện có ác. Muốn trở thành người thiện, phải làm thế nào? Từ ác muốn thành thiện thì chỉ có trì Giới thôi. Khi giữ giới được trong sạch thì người đó trở thành thiện ngay.
Giới là khí cụ để thắng phiền não. Giữ Giới trong sạch thì chúng ta mới thắng được Tham Sân Si trong nội tâm của ta. Muốn loại được phiền não, tâm chúng ta phải trong sạch vì phiền não ở trong tâm. Mà tâm trong sạch như thế nào? Tâm trong sạch phải có Định và Huệ. Mà muốn có Định và Huệ, cần phải có Giới. Vì vậy, Giới, Định và Huệ luôn luôn liên kết với nhau.
Ở đây, quý vị đã và đang thọ trì cả ba phần: Giới, Định, Huệ. Quý vị nên gắng gìn giữ Giới đang thọ trì trong 10 ngày, nhất là Giới không nói dối như Sư mới giảng hồi nãy. Khi nói chuyện, tâm sẽ phóng túng, chạy theo suy nghĩ và ta quên niệm. Mà quý vị cần có trí nhớ, chú ý trong đề mục rồi niệm. Giữ Giới được như vậy là quý vị có lợi ích trong 10 ngày này.
Mong rằng quý vị gặt hái được quả báu cao thượng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Nhì
Mục đích hành thiền Minh Sát Tuệ
Hôm nay là ngày thứ nhì của khóa thiền mùa Đông năm 1986. Sư xin đề cập đến mục đích hành thiền của chúng ta.
Nếu quý vị có đọc sách hay nghe thuyết pháp thì quý vị thường thấy hay nghe danh từ Araham hay A-La-Hán. A-La-Hán có nghĩa là gì? A-La-Hán là bậc đã giác ngộ giáo lý của Đức Phật, là bậc thánh ng Cúng. ng Cúng có nghĩa là người đáng thọ lãnh vật cúng dường của người tại gia. Vì khi một bậc trong sạch như vậy thọ lãnh vật cúng dường, người thí chủ sẽ được nhiều phước báu, được sự an vui và hạnh phúc trong đời này cũng như trong đời sau. Chỉ có bậc đắc quả A-La-Hán mới đáng thọ lãnh vật cúng dường vì các Ngài không còn Tham Sân Si trong nội tâm. A-La-Hán cũng có nghĩa là đã diệt trừ điều ác hay kẻ thù. Kẻ thù đây là phiền não hay Tham Sân Si chồng chất trong lòng của mọi chúng sanh.
Muốn biết rõ ý nghĩa của từ A-La-Hán, chúng ta cần biết sơ qua bốn bậc được đắc đạo quả trong giáo lý của Đức Phật. Những bậc này là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả và Tứ quả, hay Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán. Họ cũng được gọi là Ariya, nghĩa là thánh nhân. Gọi là thánh nhân vì các Ngài đã thấy rõ giáo lý của Đức Phật và tâm không còn thối chuyển trên con đường giải thoát. Họ đã chứng nghiệm được Tam tướng của vạn vật gọi là Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã, hay Tứ Diệu Đế. Đức Phật gọi bốn bậc đắc đạo quả trên là đệ tử của Ngài.
Bốn bậc thánh được đắc đạo quả do nhờ thực hành Minh Sát Tuệ (Vipassana). Nếu không có Tuệ Minh Sát sẽ không bao giờ đắc được đạo quả. Để đạt được đạo quả của Đức Phật, cần phải có đường lối đi và phương pháp thực hành. Đường lối đi là Bát Chánh Đạo, phương pháp thực hành là Tứ Niệm Xứ.
Tâm đắc quả là tâm gặt hái được pháp cao thượng. Giây phút đầu tiên khi tâm kinh nghiệm được đạo quả gọi là Maggacitta hay Đạo tâm. Chỉ trong một giây phút, người ấy bước vào dòng thánh, và đạo tâm ấy không bao giờ trở lại với người ấy nữa. Kế đó là quả của Huệ tâm liên tục phát sanh đến người đó. Nếu hành giả kinh nghiệm như vậy lần đầu tiên thì gọi là đắc đạo quả Tu-Đà-Hườn.
Nếu muốn tiến nữa trên con đường đạo, người đó phải tiếp tục tu hành. Người đó lại bắt đầu từ Tứ Niệm Xứ và Bát Chánh Đạo. Sau khi thực hành một thời gian, khi có trí tuệ đầy đủ và duyên lành, người ấy sẽ kinh nghiệm đạo tâm lần thứ nhì. Cũng trong một giây phút thôi rồi Đạo tâm diệt mất, tiếp liền là Quả tâm. Đây là bậc Tư-Đà-Hàm.
Khi vị này muốn thực hành đến đạo quả cao hơn thì cũng phải thực hành Tứ Niệm Xứ và Bát Chánh Đạo như trên. Khi duyên lành đầy đủ, vị này đắc đạo quả thứ ba gọi là A-Na-Hàm quả. Cũng vậy, nếu tinh tấn tu hành nữa thì vị này sẽ đắc A-La-Hán quả. Đây là công phu cuối cùng của một bậc thánh nhân. Đến đây các Ngài không còn hành trì công phu gì nữa vì phiền não đã hết sạch trong tâm. Như vậy, chúng ta hiểu đạo quả theo thứ tự và biết được danh từ A-La-Hán mà trong kinh sách thường đề cập.
Khi thấy đạo trong một giây phút, đó gọi là Đạo tâm hay tâm kinh nghiệm Niết-Bàn. Niết-Bàn thật ra không phải là xứ sở, cũng không phải là nơi có thể dùng những phương tiện vật chất mà đến đó được. Hành trình đây là hành trình của tâm. Chúng ta thực hành trong Danh Sắc thì phải kinh nghiệm qua Danh Sắc. Ý nghĩa thật sự của Niết-Bàn rất khó hiểu. Chỉ trừ khi hành giả có duyên lành kinh nghiệm qua, rồi mới biết được vị của Niết-Bàn.
Pháp học có giảng giải để chúng ta biết được bề ngoài của Niết-Bàn. Nhưng cũng như muốn biết rõ hương vị trái xoài, ta phải ăn xoài. Còn nếu ta chỉ nhìn hay nghe người khác tả lại thì chỉ tưởng tượng thôi mà không biết hương vị thật sự của trái xoài. Niết-Bàn cũng vậy. Muốn biết Niết-Bàn ta phải thực hành và khi kinh nghiệm qua, ta mới biết được vị của Niết-Bàn.
Đạo tâm có năng lực diệt trừ phiền não. Bậc Sơ Quả khi qua kinh nghiệm đạo tâm, đắc được 3 pháp. Một là người đó không còn chấp linh hồn hay có cái ta tồn tại mãi mãi, biết rõ trong con người có thân và tâm. Hai là hết hoài nghi trong Tam-Bảo, hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng. Ba là không còn giới cấm thủ, và người đó chỉ tin tưởng vào nhân quả, trì giới, bố thí, tham thiền, mà không còn mê tín dị đoan.
Bậc Nhị Quả, ngoài 3 pháp trên, còn giảm bớt tham ái và sân hận. Quả thứ nhì có khả năng làm Tham và Sân yếu đi. Vị này vẫn còn 2 pháp chướng ngại đó (2 kiết sử), chúng chỉ yếu đi thôi. Đến bậc Tam Quả, A-Na-Hàm, người đó diệt hẳn tham dục và sân hận. Người ấy không còn tham ái trong cõi Dục Giới này, nghĩa là không còn dính mắc ở Sắc tốt, Thinh hay, Hương thơm, Vị ngon, Thân xúc nữa. Bậc A-Na-Hàm chỉ còn dính mắc ở cõi Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chỉ đến đạo tâm thứ tư, người ấy mới diệt phiền não hoàn toàn và chứng ngộ được đạo quả A-La-Hán. Khi đắc quả A-La-Hán, các vị ấy không còn dính mắc ở cõi người cũng như cõi trời Dục giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới, chẳng khác gì như ngọn đèn tắt vậy.
Bậc Sơ quả hay Tu-Đà-Hườn (Nhập Lưu) diệt 3 sợi dây chướng ngại và không đi vào 4 đường ác đạo (a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Người ấy chỉ sanh vào cõi người hoặc cõi trời, và luân hồi nhiều nhất là bảy kiếp. Bậc Nhị quả hay Tư-Đà-Hàm (Nhất Lai) chỉ còn trở lại thế gian này một kiếp thôi vì tâm vị này đã giảm tham ái và sân hận. Sau đó vị này sẽ đắc A-Na-Hàm hay A-La-Hán nên sẽ tái sanh lên cõi trên và không còn trở lại cõi người nữa. Bậc A-Na-Hàm (Bất Lai) chỉ sanh về cõi Phạm Thiên cho tới ngày đắc A-La-Hán quả.
Trong bốn đạo quả, ba quả đầu vẫn còn dính mắc, còn đạo quả A-La-Hán hoàn toàn trong sạch. Có câu hỏi: Vậy thì người đời có thể đắc được đạo quả A-La-Hán cao thượng này chăng? Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế cũng như sau khi Ngài nhập diệt, có vô số kể cả những cư sĩ tại gia đắc A-La-Hán. Khi đắc A-La-Hán, vị này phải tìm cách xuất gia cho kịp trong thời gian bảy ngày. Vì quả A-La-Hán là quả vị cao, hình thức phàm bên ngoài không thể nào chứa đựng nổi. Nếu vị ấy xuất gia kịp thời thì sẽ sống cho đến hết tuổi thọ. Bằng không, vị ấy sẽ nhập Niết-Bàn trong vòng bảy ngày. Tìm được y bát để xuất gia hay không là do phước báu của vị ấy trong kiếp trước. Nếu trong kiếp trước vị ấy có bố thí y phục thì kiếp này sẽ tìm được y phục kịp thời, nếu không thì không kịp. Vì vậy, sự đắc đạo quả không phân chia giai cấp tại gia hay xuất gia. Không phải chỉ xuất gia mới đắc đạo quả còn tại gia thì không đắc đạo quả.
Làm sao biết được ai đắc quả A-La-Hán? Ta không thể biết được vì chúng ta không thể biết tâm người đó, mà chỉ đoán qua hành động và giới hạnh của vị ấy. Khi thấy vị này có giới hạnh trong sạch và phẩm hạnh cao thượng, ta đoán có lẽ Ngài là một vị A-La-Hán. Hoặc giả chính vị ấy thốt ra thì ta mới biết, bằng không, ta không thể biết chính xác được.
Trong Phật Giáo Nguyên Thủy, có nhiều sách trong Tam Tạng Pàli có đề cập: Phật là đấng giác ngộ. Như thế, có bao nhiêu bậc giác ngộ? Tam Tạng Pháp Bảo có chia rõ: một là Samma-Sambuddha, Phật Chánh Đẳng Chánh Giác; hai là Pacceka-Buddha cũng gọi là Bích Chi Phật hay Độc Giác Phật, ba là Araham hay cũng gọi là Thanh Văn Phật (Savakabuddha).
Buddha là bậc Giác Ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác (Samma-Sambuddha), tự Ngài giác ngộ, không thầy chỉ dạy. Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác có nhiều đức hạnh Ba-La-Mật, cho nên khi giác ngộ rồi, Ngài không quên đi một chi tiết nào. Ngài có nhiều đức hạnh để tế độ chúng sanh. Ngài biết rõ quá khứ, vị lai, biết rõ chúng sanh nào có thể tế độ hay không tế độ được.
Bậc Độc Giác cũng tự giác ngộ, nhưng không có những oai lực khác như của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Giác ngộ xong, Ngài không nhớ những phương pháp để tế độ cho chúng sanh để giác ngộ như Ngài. Còn bậc A-La-Hán cũng là bậc giác ngộ nhưng do nhờ Đức Chánh Đẳng Chánh Giác tế độ, chỉ dạy. Một vị A-La-Hán cũng có khả năng hướng dẫn người khác đắc đạo quả như Ngài vậy.
Tu hành bao lâu thì được đắc đạo quả? Căn cứ theo kinh kệ trong Tam Tạng Pali, Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác thuộc về hạnh trí tuệ như Đức Thích Ca Mâu Ni phải tu 4 A-tăng-kỳ 100 ngàn kiếp mới đắc đạo quả và hướng dẫn chúng ta được như vậy. Trên quả đất này có tất cả 5 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, mỗi vị có thời gian giáo lý khác nhau như 80 ngàn năm hay 5 ngàn năm, v.v... Và trong lúc không có giáo lý của Đức Chánh Đẳng Chánh Giác nào thì Đức Phật Độc Giác ra đời. Đức Phật Độc Giác phải tu 2 A-tăng-kỳ 100 ngàn kiếp và đắc đạo quả trong thời kỳ không có giáo lý của Đức Toàn Giác. Ngài tự giác ngộ vì duyên lành của Ngài rất nhiều.
Cũng theo kinh kệ trong Tam Tạng Pàli, có 3 loại A-La-Hán: một là A-La-Hán thường, hai là đại A-La-Hán, ba là đại đệ tử của Đức Phật. Sở dĩ có phân loại như thế là do các Ngài có lời nguyện trong kiếp xưa. Có hằng hà sa số bậc A-La-Hán thường. Các vị này tinh tấn tu hành trong một kiếp, 10 kiếp hay 100 kiếp, v.v... đắc đạo quả A-La-Hán và diệt hết phiền não trong tâm. Đại A-La-Hán thì có 80 vị đã từng tu hành trong 100 ngàn kiếp trái đất. Những vị này, ngoài dứt bỏ hết phiền não, còn có những pháp Ba-La-Mật riêng. Như Ngài Ananda thuộc hết Tam Tạng Pháp Bảo, còn Ngài Ca-Diếp thì giỏi về Luật.
Còn đại đệ tử Phật có 2 vị là Ngài Xá-Lợi-Phất và Ngài Mục-Kiền-Liên. Ngài Xá- Lợi-Phất có trí tuệ và Ngài Mục-Kiền-Liên có thần thông bậc nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật. Một vị đại đệ tử của Đức Phật tu một A-tăng-kỳ 100 ngàn kiếp - một A-tăng-kỳ bằng thời gian hột cải bỏ vào 14 kilômét vuông, mà cứ mỗi 100 năm mới bỏ vào một hột.
Vậy ta thấy quả A-La-Hán là mục đích chúng ta đang nhắm đến. Phương pháp thực hành ta biết được là nhờ Đức Phật để lại. Khi hành trì tròn đủ thì ta cũng có kinh nghiệm qua giáo lý ghi chép trong Tam Tạng hay do các vị thiền sư thuyết giảng. Sư đã hướng dẫn hành thiền các nơi trong 20 khóa đã qua. Riêng tại chùa Kỳ Viên này (Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ), quý vị đã hành thiền được 12 khóa, và đã biết cách thực tập trong các oai nghi. Khi Tham Sân Si sanh lên, quý vị biết là Tham Sân Si. Khi biết như vậy là quý vị đi trên con đường đạo.
Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành, mau đến nơi giải thoát./.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Ba
Hôm qua Sư có nói về danh từ A-La-Hán và mục đích hành Minh Sát Tuệ của người tu Phật là để dập tắt phiền não, đắc quả A-La-Hán nhập Niết-Bàn.
Sư xin nhắc lại, trước khi đắc quả A-La-Hán, hành giả phải đắc dần dần, từ thấp đếân cao, nghĩa là từ Sơ quả, lên Nhị quả, Tam quả và Tứ quả. Quả thứ nhất là quan trọng nhất cho hành giả. Vì vậy, hành giả cần phải nguyện là ít nhất phải kinh nghiệm được Sơ quả. Sơ quả còn được gọi là quả Nhập Lưu, là nhập vào dòng thánh, là người đi theo bước chân của Đức Phật. Người muốn đắc Sơ quả hay Tu-Đà-Hườn quả, phải kinh nghiệm được 16 Tuệ Minh Sát, bắt đầu là Tuệ Danh Sắc.
Khi tu hành như vậy, chúng ta phải có đức tin mạnh, tin tưởng là chúng ta sẽ gặt hái được những gì mà Đức Phật chỉ dạy, và tinh tấn cho đạt được những đạo quả cao thượng. Tại sao vậy? Vì khi còn phàm, đời sống chúng ta không được bảo đảm, do thân và tâm ta luôn thay đổi không chừng. Nếu thay đổi như vậy, ta không biết sẽ luân hồi về đâu và không chắc có gặp được Phật Pháp để thực tập hay không. Vì vậy, khi bắt đầu hành thiền, quý vị phải có đức tin vững mạnh nơi Tam Bảo. Nếu không đắc đạo quả thì quý vị cũng phải kinh nghiệm được một loại tuệ thấp hơn.
Tuệ đầu tiên là Tuệ Danh Sắc. Muốn thấy Danh Sắc thì phải làm thế nào? Hành giả cần phải có sát-na Định. Cũng như người thực tập thiền Định cần phải có cận Định thì mới đắc sơ thiền, nhị thiền, v.v... Riêng thiền Huệ hay thiền Minh Sát cần có sát-na Định.
Đề mục để định tâm rất là nhiều. Trong kinh Tứ Niệm Xứ và trong các kinh khác nữa, Đức Phật dạy có thể dùng những đề mục khác nhau, như đề mục về hơi thở và các đề mục khác, để trụ tâm. Nhưng mới đây, có phương pháp của thiền sư Mahasi người Miến Điện dùng sự phồng xẹp ở bụng làm đề mục. Ngài thấy bụng phồng xẹp cũng ở trong thân và khi lấy làm đề mục sẽ dễ tập trung tư tưởng hơn. Song song với sự chú tâm nơi bụng, hành giả còn dùng trí nhớ (Chánh Niệm) theo dõi tác động của bụng cũng như các đối tượng khác sanh lên theo lục căn. Ví dụ, khi tiếng động hay mùi thơm hay cái gì khác phát sanh trong lục căn, chúng ta cũng phải theo dõi mà niệm.
Trước khi có tâm định, hành giả phải đối phó với 5 pháp chướng ngại (5 triền cái) thường sanh lên là: tham ái, sân hận, hôn trầm, phóng tâm, và hoài nghi. Năm pháp này luôn chen vào trong khi chúng ta đang tu Định và tu Huệ. Vì vậy, hành giả phải cố gắng để vượt qua 5 chướng ngại ấy. Luôn luôn có trí nhớ, khi những pháp cảnh này khởi sanh, hành giả phải chú tâm niệm liền thay vì theo dõi phồng xẹp.
Trong trường hợp khi tham ái khởi sanh, hành giả phải niệm tham-tham-tham; hay khi giận khởi sanh, hành giả phải niệm giận-giận-giận, v.v... Những pháp chướng ngại này không cho hành giả định tâm, nên các chi thiền không sanh lên được. Khi những pháp này phát sanh mạnh, chúng ta có thể bỏ hành thiền. Ví dụ, khi hoài nghi sanh lên, chúng ta nghĩ hành thiền có lợi ích gì, không biết đạo quả có rõ vậy không, rồi hoài nghi về Tứ Diệu Đế và có thể ngưng hành thiền. Có tâm hoài nghi, suy nghĩ như vậy gọi là Tà kiến, vì nó áng cửa, không cho trí tuệ thấy rõ sự thật trên thế gian. Vì vậy, khi những pháp này khởi sanh, hành giả phải thanh toán cho xong, phải niệm ngay, trước khi bắt đầu vào sát-na định trở lại.
Khi có tâm định, hành giả bắt đầu thấy Danh Sắc. Danh Sắc tiếng Pàli gọi là Nama Rupa. Nama (Danh) nghĩa là tâm hướng về hay nghiêng về đối tượng của nó. Vậy tâm của ta hướng về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Hướng về mắt thì tâm thức bắt cảnh thấy; hướng về tai thì bắt tiếng nghe; hướng về mũi thì bắt mùi; hướng về lưỡi thì bắt vị; hướng về thân thì bắt cảm giác; hướng về tâm thì bắt sự suy nghĩ hay những đối tượng của tâm. Còn Rupa (Sắc) là đối tượng ở trong mấy căn.
Theo sách Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), khi thấy Sắc rõ rồi thì tự nhiên thấy Danh. Vì vậy phải theo niệm Sắc. Ở đây, quý vị niệm phồng xẹp của bụng, theo dõi tỉ mỉ, không gián đoạn, cho thấy rõ cái phồng cái xẹp là Sắc. Phồng xẹp là sự chuyển động của thân. Thấy rõ sự chuyển động, mới nhận thức được "cái biết" sự chuyển động này là tâm. Cái biết này chính là Danh hay tâm thức. Sở dĩ ta thấy như vậy là vì Danh Sắc luôn luôn đi chung với nhau. Chúng ta cũng có thể tự hỏi: phồng xẹp là thân, rồi làm sao ta biết được phồng xẹp? Và hỏi thêm nữa: cái gì biết được phồng xẹp và hồi nãy cái gì chú tâm nơi bụng? Cái đó chính là Danh hay tâm thức. Khi tâm hướng về bụng, bắt được phồng xẹp. Biết được vậy là biết Danh Sắc.
Khi ta thấy Sắc rõ rồi, tự nhiên phát sanh hỷ lạc. Tại sao vậy? Vì trong lúc đó tâm không bị 5 chướng ngại che mờ. Tâm luôn luôn ở trong đề mục, trong Sắc pháp: trong bụng lúc ngồi và trong chân lúc đi. Khi tâm thấy Sắc pháp rõ, phát sanh hỷ lạc. Khi có hỷ lạc, hành-giả cũng phải niệm hỷ-lạc, hỷ-lạc, hỷ-lạc hay vui-vui-vui.
Khi hành thiền, quý vị phải siêng năng khắn khít với đề mục trong khi ngồi cũng như trong khi đi. Nếu khắn khít với đề mục từng sát-na một, quý vị sẽ thấy rõ Danh Sắc. Đây là bước đầu tiên và cũng quan trọng nhất trong Thiền Minh Sát. Vì nếu không thấy rõ Danh Sắc, quý vị không thể lên Tuệ thứ hai được.
Khi thấy rõ Danh Sắc, quý vị sẽ biết rõ bản chất của con người. Thế gian thường cho con người là một cái Ta, một linh hồn bất biến không thay đổi. Nhưng khi hành thiền, quý vị biết rõ con người chỉ có thân và tâm. Nhìn vào bụng thì thấy phồng xẹp. Nhìn ra ngoài thì thấy cảnh mà trong đó một là đối tượng chỉ gồm Sắc (thân) thôi, hai là đối tượng có cả Danh và Sắc, như người ta hay thú vật. Vậy dù ở trong con người hay ở ngoài, quý vị cũng thấy toàn Danh Sắc. Rồi ta phân tách tâm và thân của con người như thế nào. Nếu mình tìm hiểu cho hết chi tiết thì sẽ thấy thân tâm của người ngoài không khác gì của ta vậy.
Trong kinh Mi-Tiên Vấn Đáp, đức vua Milanda hỏi đại đức Na Tiên: "Bạch Ngài, như thế nào gọi là Danh, và như thế nào gọi là Sắc?" Đại Đức Na Tiên trả lời: "Hai cái phải nương nhờ với nhau như chiếc xe vậy. Khi ráp đủ thì mới gọi là xe. Thì con người cũng vậy. Khi còn Danh Sắc thì con người còn sống, nếu Danh Sắc rời ra thì không còn sống nữa."
Nếi chỉ có tâm thì không bao giờ làm gì được. Vậy tâm phải nhờ thân mới thấy, nghe, ngửi, nếm, đi được. Còn cái thân cũng vậy. Nếu không có tâm thì thân cũng không làm gì được, giống như một đống củi hay đống đất thôi. Thân và tâm cũng giống như người mù và người què. Người mù có chân nhưng không thấy đường để đi. Người què thấy đường nhưng không đi được. Vậy hai người này nương nhau để đi đường. Thân và tâm cũng vậy, nương qua nương lại để làm việc và tạo thành con người.
Khi hành giả thấy rõ Danh Sắc thì biết đây không phải là một linh hồn. Nếu thấy rõ như vậy gọi là Chánh kiến hay thấy đúng. Cho nên, chúng ta phải niệm làm sao cho đánh đổ sự hiểu lầm đó. Từ trước đến nay, lúc nào mình cũng bảo là ta đi, ta ăn, ta vui, ta buồn. Rồi một chữ "ta" bao gồm cái vui, cái buồn, cái thấy, cái nghe, cái ăn, cái uống, v.v... Bây giờ quán niệm, ta thấy rõ những trạng thái này rất khác nhau. Vậy hành giả phải niệm cho đến khi nào đánh đổ được cái chấp là có "ta".
Bây giờ, Sư nói về trạng thái của thân và tâm. Trạng thái của thân là thay đổi; thay đổi theo mùa và theo thời tiết, như thân của ta: khi nóng, khi lạnh, khi đói, khi no - luôn luôn thay đổi vậy. Sắc pháp bên ngoài cũng luôn thay đổi. Mùa Thu thì cây rụng lá. Mùa Xuân cây mọc lá trở lại. Vì vậy, Sắc pháp luôn luôn thay đổi. Trạng thái của tâm cũng không ngừng thay đổi. Tâm ta lúc vui, lúc buồn, lúc hăng hái, lúc chán nản, v.v...
Muốn thấy rõ thân tâm, ta cần có sát-na Định. Để có sát-na Định, ta phải chú niệm chặt chẽ và tỉ mỉ, niệm cho đến khi không còn gì để che dấu trong thân tâm nữa. Đây là phương pháp của Đức Phật để diệt trừ đau khổ; mà khi thực tập chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn. Gặp cái đau, đau không có thuốc chữa trị. Gặp cái khó, khó không giải thích được. Nhưng dù Đức Phật còn tại thế, Ngài cũng chỉ có thể cho ta phương pháp này để chúng ta tự trị cho đến khi nào vượt qua khỏi khó khăn là tự nhiên hết bệnh.
Khi mới thực tập, hành giả gặp nhiều khó khăn. Khi niệm phồng xẹp một cách khắn khít thì tâm phát sanh Định và Huệ. Chính Định và Huệ lại thành thuốc hay để trị bịnh nan y. Khi Định mạnh, niệm đau thì tự nhiên hết đau. Khi hết đau, hết khổ thì tự nhiên là vui.
Khi thân đau, tâm cũng đau theo. Thân thì lúc nào cũng thay đổi từng sát-na một. Mà khi thân thay đổi thì tâm cũng không yên. Chỉ khi ta niệm, tâm ở trong đề mục thì mới yên được. Ví dụ không ngủ được, ta niệm phồng xẹp để tâm định trong bụng thì ngủ được, tin rằng có lẽ lúc sắp chết, nếu cũng niệm như vậy thì tâm được an vui và được sanh về cõi an vui. Khi có Chánh Niệm, thấy rõ Danh Sắc thì ta sống trong trí tuệ và như vậy mới được sự an vui. Vậy, chúng ta phải niệm để trí nhớ (Chánh Niệm) luôn phát triển cho đến khi đạt được đạo quả cao thượng.
Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Tư
Danh Sắc và Nhân Quả
Hôm nay Sư sẽ giảng thêm về Danh Sắc hay Nama Rupa để quý vị được rõ hơn, vì đây là pháp quan trọng trong Tứ Niệm Xứ.
Cái gì mà ta biết rõ thì nó chắc chắn là của ta. Bây giờ đây, biết phương pháp tu niệm và muốn chắc chắn đề mục là của ta, ta phải nắm vững đề mục. Nắm vững nghĩa là có trí nhớ hay có Chánh Niệm, thì ta mới có Huệ được. Có trí nhớ là chủ động, trong khi Danh Sắc (đối tượng) là thụ động.
Đề mục của ta là Danh Sắc. Ta cần phải biết rõ đề mục chính mà chúng ta thường niệm. Hơn nữa, trong lúc đang tu niệm ở chùa hay ở nhà, cái gì khởi sanh thì ta cũng phải biết rõ. Để thấy rõ những đối tượng khởi sanh lên, ta phải luôn luôn duy trì và giữ gìn Chánh Niệm. Như vậy, trí nhớ hay Chánh Niệm, tiếng Pàli là sati, là quan trọng trong Thiền Minh Sát. Chính nó là chủ động trong Thiền Minh Sát vậy.
Như Sư đã giảng hôm qua, Chánh Niệm là trí nhớ ghi nhận những gì xảy ra trong thân tâm trong lúc hiện tại. Chẳng hạn khi ngồi, ta nhớ ta ngồi. Ngồi là thân hay cũng là sắc. Khi có trí nhớ, chú tâm vào Sắc Pháp thì tự nhiên ta cũng biết được Danh Pháp, vì hai pháp này luôn luôn đi cùng với nhau. Có trí nhớ sống trong hiện tại và luôn luôn chủ động là điều quan trọng nhất. Ta niệm càng nhiều, trí nhớ càng tăng, thì đề mục càng rõ. Đó là luật thiên nhiên của Minh Sát Tuệ.
Niệm thân tâm của ta là đề mục nội quán. Ví dụ, quý vị niệm phồng xẹp; hay lúc đang niệm phồng xẹp, có pháp cảnh nào khởi sanh trong tâm, quý vị niệm thấy-thấy-thấy. Trường hợp nhìn ra ngoài, ta thấy quang cảnh thì ta cũng niệm là thấy-thấy-thấy vì đây cũng là Sắc Pháp như cảnh trong nội tâm của ta vậy. Sắc Pháp bên ngoài là đề mục ngoại quán. Vì vậy, niệm có hai phương pháp. Một là ta kinh nghiệm nơi thân tâm của ta. Hai là ta kinh nghiệm ngoại cảnh bên ngoài thân tâm. Do đó, chúng ta sống trong hai thế giới: thế giới bên trong của ta và thế giới bên ngoài của chúng sanh có liên quan đến ta.
Khi có trí nhớ, khi đi, ta niệm là đi, hoặc mặt bước - trái bước. Nếu thấy cảnh, niệm thấy-thấy-thấy. Nếu tai nghe, niệm nghe-nghe-nghe. Nếu mũi ngửi, niệm ngửi-ngửi-ngửi. Nếu lưỡi nếm, niệm nếm-nếm-nếm, v.v... Đây là đề mục mà ta học tập trong khóa thiền 10 ngày nầy.
Khi thấy rõ Danh Sắc, nếu chỉ có Sắc ta biết rõ chỉ có Sắc, nếu Sắc liên quan đến Danh ta cũng biết Sắc liên quan đến Danh. Mà không phải chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Trong Danh và Sắc còn có sự cử động, thay đổi của chúng mà ta sẽ kinh nghiệm thêm nữa.
Bây giờ khi đi, niệm mặt bước - trái bước; khi ngồi, niệm phồng xẹp. Đây là niệm thân hay sắc. Còn danh thì sao? Sau đúng một giờ ngồi, nghe tiếng chuông gõ, làm sao quý vị đứng lên được? Để thân đứng dậy, trước hết phải có tâm muốn đứng dậy. Như vậy ta phải xem coi có cái gì làm thân này đứng dậy được, gọi là tác yù. Quý vị dùng trí nhớ niệm muốn đứng dậy - muốn đứng dậy trước khi đứng dậy. Đây là niệm tâm hay niệm tâm quyết định. Sau khi đứng dậy, phải có tác ý muốn đi, quý vị niệm muốn đi - muốn đi - muốn đi rồi mới đi.
Khi đi, quý vị niệm chặt chẽ mặt bước - trái bước. Nếu tiếp tục niệm như vậy thì tâm không phóng ra nơi khác được. Quý vị dùng trí nhớ theo dõi sự cử động của thân và niệm theo nó. Nếu bước nhanh thì niệm mặt bước - trái bước. Nếu chậm thì niệm dở, đạp - dở, đạp. Nếu chậm hơn nữa thì niệm dở, bước, đạp - dở, bước, đạp. Khi đi đến cuối đường, có tác ý muốn ngừng lại khởi sanh, quý vị phải niệm muốn đứng - muốn đứng - muốn đứng rồi mới đứng. Khi đứng rồi, muốn quay thì niệm muốn quay - muốn quay - muốn quay. Lúc quay, niệm quay-quay-quay. Quay xong thì niệm muốn đứng - muốn đứng - muốn đứng; rồi khi đứng, niệm đứng-đứng-đứng. Đứng rồi muốn đi thì niệm muốn đi. Lúc đi thì niệm mặt bước - trái bước trở lại.
Trên đây là tuệ Nhân Quả. Vì tâm muốn đi, cái thân mới đi được, muốn ngồi thân mới ngồi được, muốn đứng thì thân mới đứng được. Nếu không có tác ý thì thân không đi được, ngồi được, hay đứng được. Vừa qua, trong một tiếng đồng hồ theo dõi phồng xẹp của bụng, vì tâm chưa muốn đứng dậy nên thân không muốn đứng dậy được. Rồi sau đó, tâm muốn đứng dậy nên thân mới đứng dậy, và tâm muốn đi nên thân mới đi được.
Muốn này hoặc tác ý này thuộc Danh Pháp. Tiếng Pàli gọi là Nama (Danh). Muốn đi thì thân mới đi. Muốn ngồi thì thân mới ngồi. Vì vậy, muốn đi là nhân của cái đi, và ngược lại đi là quả của sự muốn đi. Muốn ngồi là nhân của cái ngồi, và ngồi là quả của sự muốn ngồi. Như vậy hành giả phải niệm tác ý để thấy rõ nhân quả.
Nếu hành giả niệm tác ý, thật là quý báu vô cùng vì hành giả sẽ nhận thức được động lực sai khiến cho thân làm việc. Nếu quý vị thiếu ghi nhận tác ý là cũng như thể quý vị thiếu tâm. Con người lúc nào cũng có thân và tâm, nhưng cao thượng hơn, mình ghi nhận cái tâm mà người khác không ghi nhận được. Sự cử động của người không hành thiền rất nhanh vì họ không có ghi nhận. Ở đây quý vị phải ghi nhận và phải làm chậm từng cử động một. Nếu làm nhanh thì quí vị sẽ không ghi nhận được, chỉ nghĩ đến rồi làm theo mà thôi.
Tại sao Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta phương pháp này? Vì phương pháp này là phương pháp giải thoát phiền não Tham Sân Si trong nội tâm. Có bấy nhiêu đó thôi. Bây giờ, mình đem ra thực hành để kinh nghiệm những gì mình đã từng nghe, từng đọc, chứ không phải chỉ nghe suông hay chỉ đọc suông. Chỉ có bấu nhiêu mà cả mấy khóa rồi, chúng ta cũng chỉ ghi nhận trạng thái của phồng xẹp. Bây giờ đã đến lúc mời quý vị ngồi và ghi nhận cho rõ sự phồng xẹp để thấy nó như thế nào.
Bây giờ, Sư hỏi thiền sinh: như vậy sự ghi nhận phồng xẹp từ khóa đầu đến bây giờ có khác nhau không? Chắc thế nào quý vị cũng trả lời là khác. Bây giờ, quý vị ghi nhận được nhiều hơn và biết những nét thay đổi trong phồng trong xẹp một cách chi tiết hơn lúc trước. Ở đây, chỉ ghi nhận phồng xẹp thôi mà quý vị luôn luôn có sự tiến bộ. Trong mỗi khóa thiền, quý vị niệm phồng xẹp là có cái mới lạ hơn trước. Nếu ta ghi nhận rõ thì không phải chỉ ghi rõ thân thôi mà còn ghi rõ luôn tâm.
Khi ghi nhận tâm, chúng ta nên ghi nhận một cách tỉ mỉ hơn, vì tâm không thấy hay cảm xúc được nên khó ghi nhận. Ta cũng nên có những hành động chậm chạp hơn, nếu hấp tấp không bao giờ thấy được tâm. Ví dụ, khi quý vị muốn uống nước, đừng hấp tấp hành động liền, mà nên niệm muốn uống - muốn uống - muốn uống vài lần cho thấy rõ tác ý muốn uống rồi mới chậm chạp uống nước. Thực tập lâu ngày, khi nhân "muốn hành động" phát sanh, quý vị có thể niệm nhanh được, nhưng ban đầu hành giả phải niệm chậm mới thấy rõ tâm tác ý.
Không việc gì xảy ra trên thế gian này mà không có Nhân. Vì vậy mới có Quả. Thông thường chúng sanh sợ là sợ cái Quả mà không biết sợ cái Nhân, chỉ có Đức Bồ-Tát mới sợ Nhân vì Ngài thấy rõ cái Nhân và niệm Nhân nên mới thành Phật. Bây giờ nếu ta là đệ tử Phật và muốn thành Phật, ta phải thấy rõ cái Nhân và sợ cái Nhân như Ngài vậy. Đó là phương pháp chúng ta đang thực tập.
Ở đây chúng ta phải niệm chậm chậm. Ví dụ lúc ăn, chúng ta phải niệm nhai-nhai-nhai thật là chậm. Tại sao vậy? Điều này có nhiều ý nghĩa. Ví dụ để làm một việc gì tỉ mỉ, ta phải làm chậm và làm nhiều lần. Thì trong Thiền Minh Sát cũng vậy. Muốn hiểu rõ đề mục một cách tỉ mỉ, chúng ta phải cẩn thận chu đáo, xem xét thật là kỹ lưỡng từ đầu đến cuối. Dù đề mục là phồng xẹp đi nữa, nó có ý nghĩa của cái phồng, cái xẹp. Trong một cái phồng, có bao nhiêu sự chuyển động của cái phồng. Xẹp cũng vậy.
Hoặc đưa tay ra rồi kéo tay vào cũng vậy. Nếu thu hình qua máy quay phim thì phải có nhiều hình ghép lại mới thấy được sự chuyển động của tay; còn nếu chỉ lấy một hình ra thì không thấy được sự chuyển động của tay. Ở đây cũng vậy, nếu niệm đưa ra - đưa ra - đưa ra chậm chậm thì ta cũng biết được chi tiết của thân và của tâm trong sự đưa tay ra hay co tay vào. Chỉ là cái tay đưa ra và đưa vào mà nếu quay phim thì biết bao nhiêu phim mà chúng ta có thể thấy được. Huống chi là tâm. Nếu ta có thể chụp hình được tâm, trong một cái đưa ra của tay là có biết bao sự sinh diệt của tâm để nó theo dõi sự chuyển động của tay.
Đức Phật bảo: "Sắc sanh diệt một lần thì Tâm sanh diệt 17 lần." Vì vậy, mỗi lần niệm, ta phải niệm cho thật chậm để thấy rõ danh sắc. Làm chậm để dễ niệm và phát triển Chánh Niệm, nhờ vậy sẽ có nhiều trí tuệ. Khi có trí tuệ, hành giả biết rõ Danh Sắc và Nhân Quả. Còn hấp tấp thì không bao giờ thấy rõ Danh Sắc hoặc Nhân Quả.
Vì Tuệ Danh Sắc và Nhân Quả quan trọng nên quý vị cần phải kinh nghiệm qua. Nếu Sư giảng theo kinh sách thì không bao giờ quý vị kinh nghiệm được. Quý vị đã từng học rất nhiều trong kinh sách, như trong Vi Diệu Pháp, mà đâu có kinh nghiệm Danh Sắc được đâu! Vì vậy, sau khi thực hành, quý vị đến trình pháp, nói biết rõ cái này là Danh, cái kia là Sắc, Sư rất hoan hỉ. Và nếu quý vị thấy thêm Nhân Quả nữa, Sư càng hoan hỉ hơn. Cho nên, đôi khi Sư khuyên quý vị tự viết lại những kinh nghiệm của mình để xem có đúng hay không. Sách Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) có nói rõ về hai Tuệ này. Tuy hai tuệ này là phàm tuệ, nhưng nếu ta kinh nghiệm hoặc thấy rõ thì nó là trợ duyên cao cho hành giả trong kiếp sống này. Ý nói là nếu hành giả thấy Nhân Quả, thấy được sự thay đổi hay sanh diệt của Danh Sắc, và bắt được tác ý thì quý vị thật sự có một trợ duyên trong Phật Pháp.
Sách Visuddhimagga cũng có nói rằng, hành giả nào thấy rõ được Danh Sắc và Nhân Quả với Tuệ Minh Sát thì người đó sẽ không đi vào 4 đường ác đạo (a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh) trong kiếp kế. Và nếu không đi vào 4 đường ác đạo, quý vị sẽ được tái sanh vào những cõi có trợ duyên để có thể tu tập tiếp và có thể đắc quả cao. Người thấy rõ Danh Sắc, rõ Nhân Quả, và thấy sự sanh diệt từng sát-na một, gọi là tiểu Tu-Đà-Hườn.
Bây giờ nói về Nhân Quả. Khi ngồi lâu quý vị bị đau, niệm đau-đau-đau. Đôi khi quý vị sợ, nghĩ rằng cái đau này do nghiệp kiếp trước làm những việc xấu. Chỉ vì thấy Nhân Quả mà quý vị có thể thấu triệt được hành động trong kiếp trước. Hoặc đôi khi quý vị nghĩ: Tại sao tôi già? Sở dĩ có già là vì có sanh. Tại sao sanh? Sanh tại có Nghiệp. Tại sao có Nghiệp? Tại ái dục, tại thủ, tại chấp thân này nên có thân này. Chúng ta có thể xem và thấy nhân quả đưa đẩy theo thứ tự của Thập Nhị Nhân Duyên. Ngược, ta cũng tìm thấy Nhân Quả; mà xuôi, ta cũng tìm thấy như vậy.
Kế đến, quý vị thấy thân tâm này liên quan với nhau. Nếu có thân mà không có tâm thì thân này chết. Nếu có tâm mà không có thân thì tâm không hoạt động được. Ví dụ, qua cái thấy, sở dĩ tâm hoạt động được là nhờ có mắt mới thấy cảnh bên ngoài. Nếu mắt hư là tâm không thấy chi cả. Nếu có mắt mà không có tâm thì mắt chẳng biết chi cả. Như vậy, chúng ta không có Ngã, chỉ có sự làm việc của thân tâm, mà từ trước đến nay, chúng ta cứ tưởng là có cái "ta".
Bây giờ nói về tâm thức. Khi có trần cảnh bên ngoài, thức sẽ hiện ra trong căn và trí nhớ theo niệm tâm thức. Khi ta không có trí nhớ (Chánh Niệm), tâm sẽ hoạt động theo thiện ác. Người không có Chánh Niệm sẽ bị cảnh ở ngoài chi phối và ác pháp khởi sanh. Khi có Chánh Niệm, ví dụ khi thấy thì ta niệm thấy, thì ác pháp không khởi sanh được; và nhờ đó, ta không bị lầm. Từ trước đến nay, khi thấy hay khi nghe ai, chúng ta không cho đó chỉ là người mà còn cho là cái gì khác hơn nữa rồi tô điểm thêm. Vì vậy phiền não sanh lên. Giờ đây dù thấy người đó tốt hay xấu, mình cũng chỉ niệm thấy-thấy-thấy. Niệm được giây phút nào thì tâm ta trong sạch trong giây phút ấy.
Chánh Niệm ghi nhận rõ đề mục và dạy tâm thức trú trong đề mục. Chánh Niệm khi thấy thì nói thấy nên tâm không bị những tư tưởng khác bôi nhọ. Từ trước đến nay vì không có Chánh Niệm, vừa thấy thì tâm đã tưởng một cái gì khác xấu hoặc tốt, rồi phiền não sanh lên. Vậy Chánh Niệm có khả năng sửa ác pháp thành thiện pháp và chỉ sửa được trong giây phút này thôi. Nếu thấy qua rồi hay chưa thấy thì không bao giờ sửa được. Vì vậy đang thấy phải niệm thấy-thấy-thấy. Đang nghe, phải niệm nghe-nghe-nghe. Đang nhai, phải niệm nhai-nhai-nhai. Thì lúc đó phiền não không khởi sanh được. Và cứ như vậy ta niệm cho đến khi không còn phiền não nữa.
Làm việc gì cũng có Nhân, có Quả. Ta ngồi đây cũng có Nhân, có Quả; hay đi đâu cũng có Nhân, có Quả. Vì vậy, Sư khuyến khích quý vị tinh tấn tu niệm trong những ngày còn lại cho thấy rõ Danh Sắc và Nhân Quả. Có như vậy, quý vị mới không còn nghi ngờ. Khi hành giả tích cực niệm không gián đoạn, tâm không phóng và sẽ thấy đề mục rõ ràng. Khi hành giả đang ăn hoặc đang đi, nếu làm chậm chậm, tinh tấn niệm, và chú ý kỹ thì sẽ thấy rất rõ Danh Sắc đi chung với nhau cũng như lúc ngồi vậy.
Khi chú tâm niệm vào bất cứ đề mục nào, hành giả sẽ thấy đó là Danh và Sắc, là sự thay đổi Vô Thường từng sát-na một; và như vậy không chấp vào nó. Đề mục khởi sanh có thể nhỏ, to, dễ chịu, khó chịu hay thay đổi. Quý vị không nên sợ sệt vì đề mục thay đổi, cũng không nên dính mắc vì đề mục dễ chịu. Cứ niệm cho qua, dù khó khăn hay dễ chịu. Nhiệm vụ hành giả là ghi nhận cái gì đang xảy ra trong hiện tại; không nên nghĩ lại quá khứ và tưởng tượng đến tương lai. Hành giả cứ sống trong hiện tại. Vì vậy trong thời gian còn lại của khóa thiền, Sư khuyến khích quý vị tinh tấn tu niệm và mong quý vị kinh nghiệm chính chắn những loại Tuệ mà Sư vừa trình bày.
Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành, mau đến nơi giải thoát
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Năm
Tứ Diệu Đế
Hôm nay Sư sẽ giảng về Tứ Diệu Đế, một đề tài sâu xa nhất và khó hiểu nhất trong Phật giáo.
Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế là gì? Đây là bốn sự thật. Gọi là thật vì nó không thay đổi. Bốn sự thật này chỉ có bậc thánh nhân mới thấy rõ được. Bậc thánh nhân là các vị: Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán, Phật Độc Giác và Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỉ những bậc thánh nhân mới thấy rõ Tứ Diệu Đế, hiểu rõ đó là thật, và nhận thức đó là thật.
Đức Phật tìm ra Tứ Diệu Đế, chứ Ngài không sáng tạo ra Tứ Diệu Đế. Lịch sử Phật Giáo có ghi rằng: "Tất cả các vị Phật trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, như Đức Thích Ca Mâu Ni, đều tìm thấy Tứ Diệu Đế." Vì vậy, Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế là những sự thật luôn luôn hiện hữu và không thay đổi.
Đức Phật thuyết giảng về Tứ Diệu Đế lần đầu tiên tại rừng Lộc Giả cho năm anh em Kiều-Trần-Như. Và trong 45 năm trên đường hoằng pháp của Đức Phật, Ngài luôn luôn nhắc nhở về Tứ Diệu Đế, vì Tứ Diệu Đế rất quan trọng. Ngài luôn luôn nhắc đến bốn sự thật đó vì muốn chúng sanh thấy được sự thật như Ngài. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Đó là những sự thật có lợi ích mà Ngài đã tìm kiếm trong bao nhiêu kiếp. Công phu tu luyện, từ khi nguyện trong tâm cho đến khi nguyện ra lời, thành Phật của Ngài chỉ có một mục đích là để thấy rõ sự thật.
Ngày hôm nay, Đức Thế Tôn đã thấy rõ ràng, nên Ngài luôn luôn đề cao sự thật và hướng dẫn cho các đệ tử của Ngài để nếm được hương vị của sự thật như Ngài. Chỉ có bốn sự thật này là liên quan đến tất cả các pháp của Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 45 năm. Bất cứ đề tài nào của giáo pháp cũng không ngoài Tứ Diệu Đế.
Đức Phật dạy rằng chỉ có bốn sự thật, gọi là Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế gồm có: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, và Đạo Đế. Đức Phật bảo Khổ là thật. Nếu ta nghĩ Khổ là giả là ta vẫn còn mê lầm. Nhân gây ra Khổ, gọi là Tập, cũng là thật nữa. Nhân này gây ra sự đau khổ cho chúng sanh cũng như cho chính Đức Bồ-Tát trong bao nhiêu kiếp. Sau khi biết được hai sự thật này rồi, Đức Phật còn tìm thấy sự Diệt Khổ. Do vậy, sự Diệt Khổ hay Niết-Bàn cũng là một sự thật. Và cái gì có thể dập tắt sự đau khổ? Đức Phật tìm ra phương pháp để diệt hẳn sự khổ. Phương pháp diệt khổ, gọi là Đạo, là sự thật thứ tư. Tóm lại, Tứ Diệu Đế là bốn sự thật mà chư Phật tìm ra và chỉ dẫn lại cho các hàng đệ tử của Ngài.
Một bậc thánh nhân phải thấy bốn sự thật này. Nếu chưa thấy thì chưa phải là thánh nhân. Vì vậy, giáo lý của Đức Phật luôn đề cập đến Tứ Diệu Đế. Khi nói đến Tứ Diệu Đế thì có Khổ là đầu; mà chúng sanh thì không muốn nghe như vậy, cho nên họ thấy dường như giáo lý đạo Phật có vẻ bi quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta thông hiểu sâu xa thì không phải như vậy.
Thế nào gọi là Khổ? Đức Phật bảo sanh là khổ. Tại sao vậy? Vì đây là nhân của sự giaụ. Sau cái sanh là già, mà già thì khổ thật vì nhiều bệnh hoạn ốm đau. Cái Khổ này, không ai muốn có nhưng không thể tránh được. Suy xét lại, ta thấy nếu không có sanh thì làm sao có già và có khổ? Vì vậy, có phải sanh là nhân làm cho ta khổ không? Tại vì ta không có trí tuệ suy xét nên không biết đó thôi. Bây giờ ta thấy già có cái Khổ của già, lại thêm bệnh hoạn vì thân này đã cũ. Cái gì đã cũ, đã hư hoại thì đau khổ. Vậy già là khổ, bệnh hoạn là khổ. Kế đó là sự chết, một cái khổ nữa. Không ai muốn đi đến cái chết; mà dù muốn dù không, lúc nào ta cũng phải bước về chỗ đó. Vì vậy, cuộc đời là một chuỗi đau khổ từ đầu đến cuối.
Còn có những cái khổ khác trong đời sống. Một là cái ta thích mà lại xa lìa ta thì cũng làm ta đau khổ. Hai là cái ta ghét mà lại phải gặp thì ta cũng khổ. Ba là điều mà Đức Phật tóm tắt trong câu: "Sankhithena paccuppanna khandhadukkha." Nghĩa là gom tất cả các sự khổ ấy trong một chỗ gọi là "ngũ uẩn thủ". Khi chúng ta chấp vào ngũ uẩn này, đó là khổ. Điều này hơi khó hiểu. Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong con người. Thuộc về ngoại thân là ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Chữ "chấp" ở đây có nghĩa là khi thấy thân này, ta chấp vào một cái Ta hay một cái Ngã. Con người thường cho sắc là ta, thọ là ta, tưởng là ta, hành là ta, thức là ta; và chấp vào đó. Ví dụ: chấp ta đau. Khi có cái chấp này rồi, tự nhiên cũng có chấp vào ngoại cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc là ta nữa. Chẳng hạn chấp vật đó là của ta. Càng chấp nhiều chừng nào thì ta càng khổ nhiều chừng ấy. Vì vậy, Đức Thế Tôn thường nói chấp ngũ uẩn thủ là khổ.
Đức Phật và các bậc A-La-Hán cũng có ngũ uẩn nhưng không còn khổ vì các Ngài không còn chấp ngũ uẩn này là của các Ngài nữa. Các Ngài đã thấy rõ con người là Danh và Sắc. Do đó, cái Ta của các Ngài mất hẳn. Đối với các Ngài, đây chỉ là Danh Sắc đang hoạt động đó thôi. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, các Ngài không có chấp cái sắc là ta, cái thọ là ta, v.v... Vì vậy các Ngài không đau khổ. Chúng sanh khổ vì chúng sanh chấp ngũ uẩn là của ta. Cho nên, Khổ là khổ ở cái chấp đó.
Khi thân tâm khổ, ta cho là khổ, thì dễ hiểu. Nhưng tại sao khi thân tâm vui, mình cũng cho là khổ? Đây là điều chúng sanh không nhìn nhận vì thấy khó hiểu. Muốn hiểu điểm này, phải hiểu thêm giáo lý của Đức Phật. Ở đây, Ngài thuyết giảng về các loại khổ cho ta hiểu. Nếu hiểu rõ, ta sẽ thấy đạo Phật không phải bi quan.
Đức Phật nói có ba cái Khổ cần phải hiểu rõ:
1. Một là dukkha dukkha (khổ khổ): Khổ vì khổ, hay nói rõ hơn khi thân đau, tâm cũng cảm thấy khó chịu.
2. Hai là viparinamadukkha (hoại khổ): Khổ vì thay đổi. Đức Phật bảo, nếu không có thay đổi thì chúng sanh không khổ. Nhưng mọi việc trên thế gian đều thay đổi, vì vậy mà chúng sanh khổ nhiều nhưng không hay biết. Ví dụ, trèo cao thì té nặng. Chức vị càng cao thì khi bị giáng chức, lại càng đau buồn. Càng vui nhiều thì lúc hết vui cũng buồn nhiều. Vui bao nhiêu thì cái khổ cũng trả lại bấy nhiêu, không bao giờ ít hơn. Cũng như khi ta có một cái gì làm ta hết sức vui mừng, mà sau đó vật ấy lại bị hư hỏng thì ta khổ cũng nhiều như vậy hoặc còn hơn đó nữa. Tại sao vậy? Vì cái vui có thời hạn. Vui được một tháng, hai tháng, một năm, hai năm. Mà cái khổ không có thời hạn. Một năm vẫn còn khổ, hai năm vẫn còn khổ, đôi khi khổ suốt đời. Do đó Đức Phật dạy: "Sự thay đổi gây ra cái khổ".
3. Ba là sankharadukkha (hành khổ): Khổ ở trong điều-kiện-pháp. Chỗ này hơi khó hiểu. "Điều kiện pháp" là gì? Tất cả các pháp thên thế gian này đều nằm trong 3 điều kiện pháp, cũng được gọi là tam tướng. Điều kiện thứ nhất là Vô Thường, thứ hai là Khổ, thứ ba là không có ai làm chủ được hết, cũng gọi là Vô Ngã. Vậy sankharadukkha bao gồm hai cái Khổ trên. Vì Khổ ở trong điều kiện pháp này nên hành giả mới lại tu tập. Mà làm sao thấy được những điều kiện pháp này được? Muốn thấy rõ, chỉ có thực hành Thiền Minh Sát hay Vipassana, và khi có Minh Sát Tuệ mới thấy những điều kiện pháp như vậy được. Vì vậy có câu kệ: "Sabbe sankhara aniccati yada pannaya passati atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiya"; có nghĩa là "Khi hành giả suy xét các tập hợp pháp là Vô Thường trong giờ nào thì ắt chán nản sự khổ trong giờ ấy. Đó là con đường thanh bạch trong sạch."
Tất cả các tập hợp pháp đều là Vô Thường. Ở đây, các tập hợp pháp có nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay là sắc, thanh, hương, vị, xúc, hay là danh sắc. Chỉ có người có trí tuệ mới thấy được Vô Thường. Khi hành giả thấy được Vô Thường như vậy thì phát sanh sự chán nản trong các tập hợp pháp hay là trong Danh Sắc. Đây là con đường thanh bạch hay là con đường Niết Bàn vậy.
Khi hành giả tu niệm trong 10 ngày, niệm Danh niệm Sắc, thì hành giả sẽ thấy sự thật hay chân đế. Danh Sắc hay Ngũ Uẩn gom lại gọi là tập hợp pháp hay pháp hành. Bằng Tuệ Minh Sát, hành giả luôn luôn thấy nó. Ngoài Tuệ Minh Sát, không bao giờ ta thấy được những pháp này. Nếu không có Tuệ Minh Sát, chúng sanh lầm lẫn, cho đời là vui, là thường rồi mừng. Càng vui mừng nhiều, khi nó thay đổi, thì càng khổ nhiều, vì không thấy được pháp sanh diệt.
Như Sư vừa nói, chỉ có Đức Phật và các vị A-La-Hán mới không còn khổ nữa. Chúng sanh còn Khổ vì chưa diệt trừ được phiền não trong tâm. Nhưng dù chưa hoàn toàn diệt được phiền não, khi đang hành Thiền Minh Sát, hành giả có thể tranh đấu với sự Vô Thường, Khổ Não một phần nào; hay là có trí tuệ để diệt sự Khổ một phần nào. Do nhờ Tuệ Minh Sát, hành giả thấy rõ Danh cũng như Sắc luôn luôn sanh diệt. Nếu thấy rõ sanh diệt (hay thay đổi) là quý vị sẽ thấy Khổ trong lúc đang tham thiền. Thiết tưởng hành giả nào cũng vậy, chán nản sự Khổ này, không muốn có nó. Để giải thoát đau khổ, chúng ta phải niệm cho thấy danh sắc rõ ràng và có như vậy, mới giải thoát được. Đây là phương pháp của Đức Phật dạy. Chính nhờ Tuệ Minh Sát này, Đức Phật mới diệt hẳn phiền não, diệt hẳn điều kiện pháp.
Như vậy, Đức Phật dạy: "Khổ là do sự thay đổi, Khổ do sự chấp, và Khổ do ngũ uẩn." Tất cả đều là Khổ hết. Đây gọi là Khổ đế. Đức Phật thuyết bài pháp này cho loài người trên thế gian nghe vì con người mới có đủ trí để suy xét và nhận thức được giáo lý này. Chúng sanh ở cõi thấp hơn thì lại quá đau khổ, luôn bi quan, không nhận thức được. Còn chúng sanh ở cõi cao thì lại quá vui, quá lạc quan, cũng không nhận thức được. Đức Phật cũng dạy giáo lý này ở cõi trời cho những Chư Thiên nào đã tu tập và có chánh kiến, nhận thức giáo lý của Đức Phật; chứ không phải thuyết cho vật vô tri vô giác.
Bây giờ chúng ta đã thấy rõ Khổ và nhìn nhận có thật như vậy. Khổ này không thay đổi, gọi là Khổ Đế. Có Khổ rồi, vậy cái gì làm cho chúng sanh Khổ? Đức Phật dạy rằng nhân sanh ra Khổ là ái dục. Ái dục hay tham lam, tham ái là guồng máy của sự đau khổ. Tâm tham ái là tâm không muốn mất. Nếu chúng sanh có tâm như vậy thì tự nhiên có hành động hay tạo nghiệp để gìn giữ những cái mình có mà không muốn mất. Có ba cấp ái dục: ái dục ở cõi người và cõi trời Dục giới, ở cõi Sắc Giới, và ở cõi Vô Sắc Giới.
Bây giờ nói về ái dục ở cõi Dục Giới. Khi có tâm ham muốn thì tự nhiên tạo hành động cũng gọi là tạo nghiệp. Nghiệp thì có nghiệp thiện và nghiệp ác. Và khi có nghiệp thì có quả. Nếu có quả rồi, tự nhiên sẽ đưa tới những nghiệp và quả khác nữa. Vì vậy, khi nói về Khổ, ta thấy rõ sự Khổ trong hiện tại do nghiệp trước đưa lại; mà nghiệp là do ái dục. Vậy sự Khổ trong hiện tại là do ái dục đưa lại. Rồi ái dục còn bảo hộ, duy trì, gìn giữ, và tạo thêm nghiệp mới nữa.
Cũng vậy, nghiệp mới sẽ sanh ra những quả mới. Quả mới sẽ đưa đẩy chúng sanh đi trong kiếp khác nữa. Đây là guồng máy luân hồi tạo đau khổ không bao giờ chấm dứt; từ những đau khổ trong quá khứ đến những đau khổ khác trong kiếp này và từ những đau khổ trong kiếp này đến những đau khổ khác trong kiếp vị lai. Như thế, nếu còn ái dục thì sự đau khổ sẽ không bao giờ chấm dứt.
Khi ta thấy rõ lý Tứ Diệu Đế thì sẽ thấy đây là khía cạnh của luân hồi và đau khổ. Không phải là ta không thoát ra được. Đức Phật còn thuyết thêm hai sự thật kế tiếp. Đó là Diệt Đế và Đạo Đế. Diệt Đế có khả năng dập tắt sự đau khổ, và làm cho sự đau khổ không còn trở lại nữa. Muốn có Diệt Đế, phải có phương pháp cho chúng ta thực hành, đó là Đạo Đế.
Chữ Diệt Đế có nghĩa là Niết-Bàn, vì Niết-Bàn diệt hẳn phiền não và làm phiền não không còn trở lại. Đây là có ý nói về Đức Phật và các bậc A-La-Hán. Còn các bậc Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm và A-Na-Hàm chỉ diệt được một phần nào và vẫn còn những phiền não vi tế. Diệt ở đây là do đạo tâm diệt. Các bậc A-La-Hán diệt phiền não rồi đi đến Niết-Bàn thì sự khổ không còn trở lại nữa.
Riêng hành giả khi thực hành, làm sao biết được là phương pháp đó đúng và kết quả của sự thực hành đó là gì? Như thế nào là diệt trừ phiền não? Sư xin nhắc lại: "Khi ái dục diệt thì phiền não cũng diệt, vì ái dục là nhân của phiền não." Diệt trừ phiền não hay diệt trừ ái dục cũng có cấp bậc. Đức Phật và các vị A-La-Hán có đạo tâm đi đến Niết-Bàn và diệt hẳn phiền não. Riêng hành giả, lúc tu niệm cũng diệt được phiền não một phần nào. Với chánh niệm, hành giả diệt được phiền não từng sát-na một. Vì vậy khi thực tập, hành giả phải luôn luôn có Chánh Niệm và tâm Định. Định, Huệ ở trong Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Đây là những chi của sự giải thoát. Khi ta ở trong những chi phần này thì ta có khả năng diệt trừ phiền não trong lúc ấy.
Đức Phật dạy sankharadukkha, nghĩa là ngũ uẩn là khổ hay các pháp hành là khoạ. Nếu chúng ta chấp nó là chúng ta khổ. Nếu có ngũ uẩn này mà chúng ta không chấp nó thì chúng ta không khổ. Vì vậy, khi chúng ta niệm Danh Sắc chính là niệm ngũ uẩn này. Niệm Danh, niệm Sắc chính là niệm các tập hợp pháp này. Và khi niệm, chúng ta có huệ, thấy sự thay đổi hay sanh diệt trong Danh Sắc. Người đời thấy vui chạy theo vui mà khi hết vui trở thành buồn. Nhưng hành giả không phải vậy. Có đề mục, dù vui dù buồn, hành giả đem ra thực tập, niệm cho thấy sự Khổ Não, cho thấy các điều kiện pháp mà chúng sanh thường không thấy.
Như Đức Phật đã nói, muốn thấy Niết-Bàn phải thấy điều kiện pháp. Vì vậy, ta phải thấy điều kiện pháp ở trong Danh Sắc này. Nếu chúng ta thấy điều kiện pháp rồi, thì hiểu Danh Sắc ở trong điều kiện pháp là ở trong sự vô thường. Nếu ở trong vô thường như vậy, ta dạy tâm ta, là danh sắc sanh rồi diệt. Hay khi Tham sanh lên, với trí nhớ mạnh ta niệm, cái Tham sẽ diệt mất đi. Như vậy mình có khả năng diệt Tham được liền trong giây phút đó. Nhưng vì chúng ta còn ở trong sát-na Định, chưa đi đến đạo tâm, nên tâm Tham còn trở lại sau đó. Nếu ta đi tới đạo tâm thứ tư như vị A La Hán, phiền não tiêu diệt hoàn toàn và không bao giờ trở lại.
Như chúng ta, khi niệm đến ngày thứ năm, thứ sáu, là đã thấy phiền não khó khởi sanh làm chi phối tâm ta. Huống chi là các Ngài A-La-Hán. Khi các Ngài đi đến đạo tâm thứ tư, phiền não hoàn toàn diệt hẳn, không còn khởi sanh trở lại trong tâm. Nghĩa là mất hẳn. Tham không còn sanh lại được, Sân cũng không còn sanh lại được, thì đâu có gì có thể chi phối tâm của một vị A-La-Hán. Vì không có phiền não, các Ngài không cần phải niệm. Trong khi chúng ta phải niệm vì phiền não còn khởi sanh trong tâm ta. Và vô thường, phiền não có thể khởi sanh bất cứ lúc nào. Ví dụ như đang vui, cái buồn khởi sanh lên, cắt đứt niềm vui đi. Nếu chỉ có vui thôi, còn buồn không sanh lên thì mình đâu có lo. Vì vậy chúng ta phải niệm, niệm cho thấy vui cũng vô thường mà khổ cũng vô thường. Đang vui, niệm vui là nó mất rồi. Đang buồn, niệm buồn là nó cũng mất. Đức Phật chỉ dạy đây là viparinama dukkha, là "khổ vì thay đổi" mà chúng sanh thường mê lầm, không biết vậy.
Chúng ta phải có kinh nghiệm hết tất cả các điều đó. Chúng ta phải nhìn nhận Khổ vì khổ, Khổ vì sự thay đổi, và Khổ vì chấp ngũ uẩn. Và cứ như vậy, ta niệm. Đây là phương pháp diệt trừ phiền não từng sát-na một. Chúng ta cứ diệt từng cái cho đến khi phiền não không còn trở lại trong tâm. Bây giờ phiền não của ta đang "ốm yếu" dần dần. Nghĩa là phiền não lắng xuống, không còn hoạt động mạnh, như vậy tâm hành giả có thể khắn khít với đề mục. Và khi tâm khắn khít trong đề mục thì phiền não lại càng yếu và càng không có sức mạnh nổi dậy. Đây là sát-na diệt trong khi hành giả đang hành thiền tích cực, nhưng chưa phải là cái diệt cuối cùng của phiền não. Cái diệt cuối cùng của phiền não chính là Diệt Đế, là sự thật thứ ba vậy.
Làm sao có sự thật thứ ba này? Để có Diệt Đế, phải có phương pháp cho chúng ta thực tập. Phương pháp diệt hẳn phiền não hay diệt trừ từng sát-na một là Đạo Đế. Đạo Đế, hay con đường đến Niết-Bàn có tám chi: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
Nói tóm lại, tất cả là bốn sự thật mà Đức Thế Tôn tìm thấy. Ngài không tìm thấy ở nơi nào khác, không phải cõi trời, hay ở cõi Phạm Thiên. Mà Ngài tìm thấy trong thân tâm này. Vì vậy, Đức Phật dạy con đường đến Niết-Bàn chính ở trong thân tâm ta, và Ngài chỉ phương pháp cho chúng ta áp dụng.
Chúng ta phải trở lại với chính bản thân ta và thực tập. Đức Phật bảo, phải thấy Danh Sắc là điều thứ nhất. Làm sao thấy Danh Sắc? Phải niệm: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Phải niệm cho đến khi thấy rõ Danh Sắc. Khi thấy rõ Danh Sắc rồi, niệm cho đến khi thấy trong Danh Sắc có Nhân có Quả. Danh Sắc ở đâu đưa lại đây? Trước khi ngồi đây, từ đâu đưa lại? Tại sao thân cử động được? Cái gì là chủ chốt đưa thân này ngồi xuống trong khi tứ đại không biết gì hết?
Phần chủ động sự cử động của thân chính là tâm. Tác ý muốn cử động như muốn đi, muốn đứng, muốn nằm, muốn ngồi, v.v... làm chủ động cho sự cử động. Tác ý muốn cử động là nhân của sự cử động và sự cử động là quả của tác ý muốn cử động. Đây là nhân quả. Vì vậy, quý vị phải niệm tác ý muốn cử động. Đây là nhân quả. Vì vậy, quý vị phải niệm tác ý trước khi làm một điều gì, niệm cho đến khi bắt được nó.
Quý vị cần phải khuyến khích tâm, đừng dải đãi. Người ta ở đời còn dạy được. Con cháu ta không biết chi hết mà ta còn dạy cho biết đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, v.v... được. Huống chi chúng ta có trí tuệ đầy đủ và ở đây ta chỉ làm lại những việc đã làm rồi trong bao nhiêu năm. Chỉ khác là bây giờ ta tìm sự thật đang ẩn trong ta. Vì vậy, Đức Phật nói, Niết-Bàn ở trong thân tâm. Bây giờ, chúng ta đang tìm kiếm từ từ, sự sáng suốt sẽ lần lần đến với chúng ta.
Nếu thấy rõ Danh Sắc, lần lần ta không còn chấp vào một cái Ngã. Như vậy là bớt một cái khổ rồi. Và nếu niệm, ta thấy nhân quả và sanh diệt nữa thì càng đáng vui cho thân tâm này.
Mỗi lần ta thấy rõ sự sanh diệt là mỗi lần ta thêm xa rời phiền não, vì ta bớt chấp thân tâm này. Đây là diệt phiền não. Ta xa nó bằng cách nhìn nó, hiểu nó cho rõ. Không phải ta xa nó bằng cách chạy trốn. Vì vậy Đức Phật bảo rằng Niết-Bàn ở trong thân tâm chứ không phải ở ngoài thân tâm.
Sự khổ không ngoài thân tâm. Ái dục không ngoài thân tâm. Niết-Bàn không ngoài thân tâm. Cũng như Bát Chánh Đạo không ngoài thân tâm. Vì vậy, cái khổ, cái vui ở trong thân tâm chứ không phải ở ngoài thân tâm. Và con đường đi đến Niết-Bàn cũng ở trong thân tâm.
Bây giờ, chúng ta đang trên con đường đến Niết-Bàn. Mong rằng quý vị phát triển trí tuệ hiểu biết Danh Sắc, hiểu biết nhân quả, và trí tuệ thấy sự sanh diệt từng sát na một của Danh cũng như Sắc. Mong rằng quý vị luôn gặt hái được quả báu cao thượng cho đến khi đắc đạo quả Niết-Bàn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Sáu
Khi nói đến giáo lý của Phật giáo, chúng ta nói về nhân quả. Tay làm thì thân sẽ hưởng quả. Miệng (khẩu) nói thì thân sẽ hưởng quả. Tâm suy nghĩ thì tâm sẽ hưởng quả. Như vậy, giáo lý Phật Giáo chỉ nói đến nhân quả của thân và tâm, mà không nói đến Ngã. Và vì vậy, khi thuyết giảng, Đức Phật thường dùng chữ Danh Sắc để chỉ con người. Trong xã hội, Đức Phật cũng dùng chữ Ta hay Như Lai để chỉ Ngài khi nói chuyện. Đây là tục đế chứ không phải là chân đế. Để hiểu nghĩa đó thật đúng mức, ta phải thực hành như quý vị đang thực hành đây.
Như Sư đã nói hôm trước, mọi việc trên thế gian này, có ta hoặc không có ta làm, có người hoặc không có người làm, đều liên quan đến Thập Nhị Nhân Duyên. Sư sẽ giảng về Thập Nhị Nhân Duyên sau khi giải thích cho quý vị rõ hơn thế nào là nhân quả.
Con người có từng giai đoạn liên quan với nhau. Những giai đoạn này không hoàn toàn giống nhau mà cũng không hoàn toàn khác nhau. Như vậy, con người chỉ là sự thay đổi từng giây từng phút một, là vô thường, tùy theo nhân quả. Vì vậy, không có một việc gì bất biến, trường tồn mãi mãi. Nếu không có sự thay đổi, thì không bao giờ con người có thể thành Phật, thành Thánh. Thành Phật, thành Thánh được là vì có nhân thay đổi. Thay đổi từ phàm đến thánh, đến khi thành Phật. Vì vậy, chúng ta phải chắc chắn tin tưởng là không có một cái Ta trường cửu, mà chỉ có một sự thay đổi.
Nếu nhìn nhận không có luật trường tồn, ta nên hiểu giáo lý sâu hơn, trong Thập Nhị Nhân Duyên, cũng gọi là Thập Nhị Duyên Khởi. Chỉ có Thập Nhị Duyên Khởi mới đánh đổ được thường kiến và đoạn kiến vì nó giải thích rõ từng giai đoạn một của con người và cho ta thấy sự liên quan giữa những giai đoạn này. Sự thay đổi từ chặng này qua chặng kế tiếp có một ý nghĩa sâu xa. Chúng ta xem, từ vô minh đổi sang hành, từ hành đổi sang danh sắc, rồi thức, lục căn, v.v... theo hệ thống của nó. Sự thay đổi này luôn luôn diễn biến không ngừng nghỉ, cho đến khi con người đi tái sanh, rồi già, chết.
Luật thay đổi này, dù có Đức Phật Toàn Giác ra đời hay trong thời kỳ không có giáo lý của bậc Toàn Giác, vẫn tồn tại với chúng sanh và nhân loại. Dưới cội Bồ-đề, Đức Phật dùng hơi thở làm đề mục để nhập định. Ngày xưa, một đêm chia làm ba canh, mỗi canh có bốn giờ đồng hồ. Chỉ trong canh đầu, Ngài đắc Thiền Sắc Giới (theo thứ tự từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ngũ thiền) và Vô Sắc Giới (theo thứ tự từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền). Sau đó cũng trong canh đầu, Đức Phật đắc Túc Mạng Minh. Với tuệ này, Ngài soi thấy sự sanh tử luân hồi của Ngài. Bắt đầu từ thời điểm ngồi ở đó và đi ngược lại thời gian, Ngài thấy sự luân hồi của Ngài trôi lăn không tận cùng. Và Ngài soi thấy những chúng sanh khác cũng như thế. Đó gọi là Túc Mạng Minh.
Ngài tiếp tục tham thiền và đắc Thiên Nhãn Minh, cũng gọi là Sanh Tử Minh, trong canh thứ nhì. Ngài thấy chúng sanh sau khi chết rồi, lại đi tái sanh nữa. Điều nầy có nghĩa là luật luân hồi không bao giờ ngừng nghỉ đối với chúng sanh. Đi tái sanh là do nghiệp. Rồi tạo thêm nghiệp và trả quả từ kiếp này qua kiếp khác, kéo dài nghiệp quả như vậy, không bao giờ ngừng nghỉ trong thời gian vô định.
Trong canh thứ ba, Đức Phật quán về Thập Nhị Nhân Duyên. Ngài bắt đầu từ già, đau, chết. Rồi tìm xem trước già, đau, chết là cái gì; Ngài thấy là sanh. Rồi trước sanh là nghiệp. Nghiệp là do chấp, do ái. Rồi theo Thập Nhị Nhân Duyên, Ngài đi lần tới danh sắc (hay con người) và thức. Khi quán tới đó, Ngài quán ngược, cũng thấy chết trở lại. Kế đó, Ngài quán thuận, quán nghịch, để tìm hiểu làm sao cho mất cái già, đau, chết. Ngài quán thấy, nếu muốn mất già, đau, chết phải mất sanh; rồi tuần tự, những giai đoạn khác cũng phải mất hết. Nếu cái này mất thì cái kia phải mất; cái kia mất thì cái nọ mất, v.v... Như vậy là cắt đứt vòng sanh tử luân hồi. Quán như vậy gọi là quán Thập Nhị Nhân Duyên.
Trong khi quán, Ngài tuần tự đắc quả Tu-Đà-Hườn, kế đến là Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán. Làm sau quán như vậy? Ngài biết công thức niệm. Lúc đầu, Ngài dùng hơi thở đắc Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Sau đó, Ngài đắc thêm hai tuệ Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh. Rồi tại sao Ngài lại quán Thập Nhị Nhân Duyên? Sự thật, đây là luật lệ của một vị Bồ-Tát. Các vị Bồ-Tát tu Ba-La-Mật không biết là bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp và khi Ba-La-Mật tròn đủ rồi, Ngài có đủ trí tuệ quán như vậy. Tất cả các vị Bồ-Tát đều quán giống nhau; phải qua Thập Nhị Nhân Duyên rồi mới đắc quả theo thứ tự Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán trong canh ba.
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Ngài kiểm điểm lại pháp Ngài đang quán, thấy rằng Ngài không còn sanh tử luân hồi nữa. Vì sau kiếp này, không còn sanh tử luân hồi nên gọi là Lậu Tận Minh. Sau đó, Ngài ngồi dưới cội cây Bồ-đề hưởng hương vị giải thoát trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám, Ngài quán thêm thấy nguồn gốc sanh tử luân hồi là vô minh; "avijja paccaya sankhara, sankhara paccaya vinnanam..."; nghĩa là vô minh sanh ra hành, hành sanh ra thức, v.v... Quán thuận hay nghịch, Ngài cũng thấy vòng Thập Nhị Nhân Duyên như vậy.
Giáo lý này thật là cao siêu và khó hiểu, cho nên một hôm Ngài Ananda đến hầu Đức Phật tại xứ Kammasadama và bạch hỏi Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, con thấy rằng giáo lý của Ngài giác ngộ thật là sâu xa và khó hiểu; nhưng nhờ Đức Thế Tôn giảng dạy con hiểu được rõ ràng.
Ngài Ananda vừa nói xong, Đức Phật liền ngăn lời:
- Ananda, không nên nói như vậy. Giáo lý của Như Lai thật là sâu xa khó hiểu, không phải là dễ hiểu.
Dù là bậc Sơ Quả, đã thông hiểu và thuộc Tam Tạng Pháp Bảo mà Ananda còn bị Phật ngăn lời, bảo rằng không nên nói là "dễ hiểu". Chữ "dễ hiểu" ở đây có ý chỉ rằng phải giác ngộ rốt ráo, không còn Tham Sân Si trong nội tâm, mới hiểu được thuyết Thập Nhị Nhân Duyên.
Đôi khi, có người vì có duyên lành đầy đủ nên chỉ nghe thuyết có một câu ngắn thôi cũng lãnh hội được. Tuy rằng có những câu kệ ngôn khác nhau, chúng cũng đều có ý nghĩa thâm sâu vi diệu liên quan đến Thập Nhị Nhân Duyên. Để đưa ra một thí dụ điển hình, Sư xin kể về cuộc gặp gỡ giữa Ngài Asajji và Đức Xá-Lợi-Phất:
Lúc bấy giờ, Ngài Asajji là một trong năm anh em Kiều-Trần-Như, đã giác ngộ giáo lý của Đức Phật; còn Ngài Xá-Lợi-Phất là một vị đạo sĩ đang khao khát đi tìm sự giải thoát. Một hôm, Ngài Xá-Lợi-Phất thấy Ngài Asajji đi trì bình khất thực với một tác phong trong sạch và một dáng điệu giải thoát, bèn đi theo. Đợi đến khi Ngài Asajji tìm nơi thanh vắng và dùng cơm xong, Ngài Xá-Lợi-Phất mới bạch hỏi:
- Bạch Ngài, Ngài tu theo giáo lý nào? Thầy của Ngài là ai? Thầy của Ngài dạy những giáo lý nào cho Ngài?
Ngài Asajji đáp:
- Bần tăng tu với vị sa môn Cồ-Đàm. Thầy của bần tăng dạy bần tăng rất ít. Bần tăng không hiểu được nhiều.
Ngài Xá-Lợi-Phất thưa:
- Bạch Ngài, tuy rằng thầy của Ngài dạy Ngài rất là ít, mong Ngài chỉ dạy cho con. Con thiết tưởng sau khi nghe, có thể con sẽ giác ngộ được giáo lý của Ngài.
Sau khi nghe lời yêu cầu của Ngài Xá-Lợi-Phất, Ngài Asajji chỉ đọc một bài kệ tóm tắt mà Ngài đã học từ Đức Phật. Bài kệ như sau: "Ye dhammà hetuppabhavà tesam hetum tathàgato àhatesamca yo nidrotho evamvàdì mahà samano." (Về các pháp phát sinh từ một nhân, Đức Như Lai đã chỉ rõ, và cũng chỉ rõ sự diệt các pháp đó. Đó là lời dạy của bậc Đại Sa-môn). Ý nói, tất cả các pháp đều có nhân sanh. Theo bài kệ này, có nhân sanh thì có quả; muốn diệt quả đó phải biết cái nào là nhân. Vậy, bài kệ này liên quan đến Thập Nhị Nhân Duyên.
Đức Xá-Lợi-Phất chỉ cần nghe hai câu đầu của bài kệ là Ngài giác ngộ được giáo lý của Đức Phật, đắc Sơ Quả và trở thành bậc thánh nhân. Ngài hỏi tiếp:
- Bây giờ thầy của Ngài ở đâu?
Ngài Asajji trả lời:
- Bây giờ thầy của tôi đang ở Vương Xá Thành.
Nghe vậy, Ngài đi tìm người bạn thân là Đức Mục-Kiền-Liên vì họ đã hứa với nhau là nếu ai gặp được giáo lý giải thoát trước thì phải cho người kia biết. Đức Mục-Kiền-Liên thấy bạn mình đi lại, gương mặt từ bi, thanh tịnh; dáng đi nhẹ nhàng, thanh thoát, Ngài rất lấy làm lạ. Ngài bèn hỏi cớ sự. Ngài Xá-Lợi-Phất lập lại bài kệ đã nghe từ Ngài Asajji ,và sau khi nghe xong, Ngài Mục-Kiền-Liên cũng đắc Sơ Quả. Sau đó hai người đi tìm Đức Phật. Khi thấy hai người từ xa, Đức Phật biết rằng hai vị đại đệ tử của Ngài đã đến.
Cho nên, giáo lý của Đức Phật thật là vi diệu; và chúng ta đang thực hành giáo lý ấy tại đây. Nếu chúng ta tin tưởng rằng có thiện ác, có nhân quả, đó là một việc tốt. Mà nếu chúng ta còn tìm thêm nữa để cho thấy là không có Ngã như lời Đức Phật giảng dạy thì còn tốt hơn nữa. Nghĩa là không có Ngã, mà chỉ có nhân quả, có nghiệp làm, có sự thay đổi như vậy. Điều này có nghĩa là chỉ có Danh Sắc, chỉ có Thập Nhị Nhân Duyên: bắt đầu từ vô minh sanh ra hành, thức, v.v... Đếm một loạt như vậy thì ta không thấy có một người nào cả, chỉ là một hệ thống của danh và sắc vận hành mà thôi. Do vậy, con người là một cái trống biết đi. Nhưng đôi lúc, khi ta nói về luật tái sanh thì lại cảm thấy khó hiểu.
Người đời có thể lý luận rằng, phải có người ta thì mới tái sanh được; khi chết rồi, người ta đi đầu thai lại, thì mới gọi là tái sanh. Giờ đây, nếu nói là không có ta, làm sao có thể nhìn nhận luật đó được? Vì vậy mà nó khó hiểu. Nói là không có ta mà lại bảo có tái sanh, có luân hồi, thì làm sao hiểu được? Chỗ này phải hiểu là có luân hồi thật, nhưng không có cái "ta" hay là một "linh hồn" đi tái sanh. Có nghĩa là vì có nhân quả, có danh sắc, mà đi luân hồi đó thôi.
Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngày Thứ Bảy
Vô Minh: Căn Nhân của sự Luân Hồi
Hôm qua, Sư có giảng về Thập Nhị Nhân Duyên. Trong Thập Nhị Nhân Duyên, chi pháp này liên quan đến chi pháp khác, nên cũng còn gọi là Thập Nhị Duyên Khởi. Sư cũng có nói là vị Bồ-Tát quán Thập Nhị Nhân Duyên trước khi thành đạo. Sau khi thành đạo, Ngài đem giáo lý này giảng dạy cho chúng sanh trong 45 năm vì đây là giáo pháp rất quan trọng.
Thập Nhị Nhân Duyên là gì? Có câu kệ bằng tiếng Pàli, Sư xin đọc cho quý vị nghe: "Avijja (vô minh) paccaya (sanh ra) sankhara (hành), sankhara paccaya vinnana (thức), vinnana paccaya namarupa (danh sắc), namarupa paccaya ayatana (lục căn), ayatana paccaya phassa (xúc), phassa paccaya vedana (thọ), vedana paccaya tanha (ái dục), tanha paccaya upadanam (thủ), upadana paccaya bhavo (hữu hay cảnh giới hay nghiệp), bhava paccaya jati (sanh), jati paccaya vachanam (già chết), charamaranam sakhaparaveta dukkha domanasa payasasam pavanti (già chết, buồn rầu, khóc than, khổ não, phiền muộn, đau đớn cũng phát sanh lên)." Đó là 12 chi của Thập Nhị Nhân Duyên.
Đức Phật dạy: "Này các vị Tỳ-khưu, vô minh khởi, kế tiếp là điều kiện pháp bắt đầu khởi, khi hành khởi rồi thì pháp kế tiếp sanh lên, v.v... Thì khi diệt trừ vô minh, hành mới diệt được và các pháp kế tiếp cũng không sanh lên được." Đây là các chi pháp Thập Nhị Nhân Duyên mà Sư giảng hôm qua. Hôm nay, Sư xin nói về sự quan trọng của Giáo Pháp này.
Trước hết, Vô Minh trong Thập Nhị Nhân Duyên là gì? Vô minh là sự hiểu biết không đúng, hay là không có trí tuệ trong sự quán sát. Như vậy, vô minh là hiểu biết không đúng. Đức Phật chỉ rõ vô minh trong Tứ Diệu Đế là không thấy Khổ Diệu Đế, không thấy Tập Diệu Đế, không thấy Diệt Diệu Đế, không thấy Đạo Diệu Đế. Nghĩa là hiểu không đúng trong Khổ-Tập-Diệt-Đạo. Theo Khổ Diệu Đế, tất cả vạn vật trên thế gian này đều là Vô Thường, Khổ Não và Vô Ngã; nhưng trái lại chúng sanh cho là thường, vui và ngã. Hiểu ngược sự thật như vậy gọi là vô minh.
Vô Minh này thật là sâu dày, khó diệt được. Đức Phật có nói rõ: "Vô minh chỉ được diệt hẳn khi hành giả đắc A-La-Hán quả." Vì vậy, ta thấy cái gốc của Vô Minh rất là sâu dày. Sơ Quả, Nhị Quả và Tam Quả vẫn còn vô minh. Tại sao ta có vô minh? Vì ta không chú ý và không có trí nhớ trong những kinh nghiệm. Như thế nào là không chú ý và không trí nhớ trong kinh nghiệm? Có ý nói là không nhớ trạng thái, bản chất của nó. Ví dụ đây là lửa và trạng thái của lửa là nóng, ta kinh nghiệm như vậy. Nhưng sau đó không kinh nghiệm nữa nên ta không còn nhớ lửa là nóng. Vậy là không chú ý và không có trí nhớ trong kinh nghiệm. Quên như vậy gọi là vô minh. Trên thế gian này, tất cả chúng sanh cho ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) là vui, là đẹp; mà sự thật nó là không vui, không đẹp. Bản chất nó là như vậy. Biết bao chúng sanh trên thế gian này gặp những chuyện khổ não. Tuy nhiên, khi xa nó một thời gian, rồi cũng lặp lại những chuyện đó và chịu khổ nữa. Cứ luôn tiếp diễn như thế! Tại sao vậy? Tại vì chúng sanh không có trí nhớ. Nếu biết cái đó là khổ, mình tránh xa nó thì không còn bị khổ nữa. Nhưng vì thói quen nên cứ quay trở lại. Như vậy gọi là Vô Minh.
Vô Minh như thế là vì thiếu Minh Sát Tuệ. Chỉ có Minh Sát Tuệ mới cho ta thấy rõ bản chất của sự vật. Nếu thấy rõ, gọi là Minh. Minh Sát Tuệ tiếng Pàli gọi là Vipassana, có nghĩa là "pannati visesena passati vipassana" -- "thấy vạn vật trên thế gian với thật tướng của nó, gọi là Vipassana". Như vậy, ta phải quán sát tất cả vạn vật trên thế gian này với Tuệ Minh Sát để thấy rõ. Đó gọi là Minh Sát Tuệ.
Không thấy rõ, không nhận thức rõ điều khổ, đó là Vô Minh trong Khổ Diệu Đế. Ví dụ khổ già, khổ sanh; tuy vậy nhưng có bao giờ chúng sanh thấy sanh là khổ đâu? Ngay cả khi những người già, dù đang đau yếu, cũng không bao giờ nghĩ trong tâm: già là khổ. Và ngay cả mình đang khổ đây mà cũng không thấy là khổ nữa. Tại sao vậy? Vì thiếu Minh Sát Tuệ. Huống chi những vật trên thế gian liên quan đến danh sắc, lục căn, lục trần, luôn luôn che mờ chúng sanh không cho thấy sự khổ!
Hai là Vô Minh trong Tập Diệu Đế. Chúng sanh lúc nào cũng muốn được vui mà không biết khổ là do ái dục sanh ra. Khi muốn được vui, chúng sanh tạo biết bao hành động để tìm sự vui thú, rồi cũng tạo biết bao hành động để bảo vệ, duy trì sự vui thú và ham muốn của mình. Bất cứ cái gì mà chúng sanh tạo với sự ham muốn, với nhân ái dục, là toàn đem lại Khổ Não.
Bây giờ lấy ví dụ là mấy chương trình quảng cáo trên máy truyền hình. Khi đem ra quảng cáo, cái gì xem cũng hay, cũng đẹp, cũng tốt; và nếu chúng sanh thấy cái đó là hay, là đẹp, là tốt thì cứ chạy theo. Mà càng chạy theo đời sống vật chất thì càng lo lắng để kiếm tiền của cung ứng cho những nhu cầu trên. Như vậy, càng chạy theo ái dục (nhân) nhiều chừng nào thì càng chịu khổ đau (quả) nhiều chừng ấy. Đó là Vô Minh trong Tập Diệu Đế.
Bậc thánh nhân thấy thế gian này là Khổ; ngược lại, phàm nhân thấy thế gian này là vui. Đó là vì bậc thánh nhân có Tuệ Minh Sát và hiểu sự thật thế gian toàn là Khổ; và vì phàm nhân không có Tuệ Minh Sát nên thấy thế gian toàn là vui. Vì thế, phàm nhân cứ mãi bị dính mắc trong Tam giới -- đó là Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. Còn bậc thánh nhân thấy Khổ nên không dính mắc trong Tam giới. Nếu ta thấy thế gian này vui thì chính ta đang có vô minh trong Dục Giới hay ái dục, hay ta đang vô minh trong Tập Diệu Đế.
Vì vô minh nên thấy đời khổ cho là vui, thấy vô thường cho là thường, không có Ngã nhưng lại cho là có Ngã. Như vậy, làm sao diệt được Vô Minh? Chỉ có con đường đến Niết-Bàn mới diệt được thôi. Diệt đây là diệt cái gì? Như ta đã biết, Vô Minh là căn bản tạo ra Danh Sắc (nama rupa). Nói gọn lại, khi Danh Sắc này còn, ta vẫn tiếp tục luân hồi, thì sự đau khổ kéo dài. Nhưng nếu không thấy rõ Danh Sắc này là khổ, là thay đổi, thì làm sao thấy Niết-Bàn được? Tại sao vậy? Vì Danh Sắc che áng không cho chúng sanh thấy Niết-Bàn. Và vì không thấy Niết-Bàn, nên chúng sanh không muốn đến Niết-Bàn. Đây là Vô Minh trong Diệt Diệu Đế. Sự sanh diệt hay sự diệt hẳn của Danh Sắc rất là khó hiểu vì Vô Minh che áng không cho ta thấy rõ điều này. Vì vậy, Khổ Đế, Tập Đế, và Diệt Đế là ba sự thật mà chúng sanh không thấy rõ.
Còn Diệu Đế thứ tư là Đạo Diệu Đế hay Bát Chánh Đạo, là con đường tốt nhất trên thế gian này; nhưng cũng vì Vô Minh che áng, chúng sanh không nhận thức được đó là con đường đúng. Như vậy, bốn sự thật đều bị che áng bởi Vô Minh, khiến cho chúng sanh không thấy một sự thật nào. Nếu Vô Minh như vậy gọi là Vô Minh trong Tứ Diệu Đế hay là Vô Minh trong Thập Nhị Nhân Duyên.
Với sự vui thú, con người tạo biết bao hành động tàn ác, như giết súc vật để tế thần. Làm như vậy không phải là con đường vui, là con đường diệt khổ. Chỉ vì mê lầm, chúng sanh cầu sự an vui bằng cách làm như vậy. Nhưng thật ra, con đường an vui là con đường đi đến Niết-Bàn. Và ta chỉ thấy được con đường đi đến Niết-Bàn nếu ta có Minh Sát Tuệ (Vipassananana). Nếu không có Minh Sát Tuệ thì không bao giờ thấy con đường an vui. Nhưng vì bị Vô Minh che áng nên chúng sanh không tìm thấy Minh Sát Tuệ được. Mà không có Tuệ Minh Sát thì làm sao thấy rõ Danh Sắc? Nhờ Tuệ Minh Sát, ta thấy đúng thật, hay thấy Tứ Diệu Đế.
Thấy rõ Tứ Diệu Đế gọi là thấy rõ sự thật. Vậy thì làm sao có Tuệ Minh Sát để ta thấy rõ Tứ Diệu Đế? Muốn có Tuệ Minh Sát, ta phải thực hành. Chính Đức Bồ-Tát cũng thực hành Vipassana để đắc đạo quả. Hôm qua, Sư có giảng, qua canh thứ ba Đức Bồ-Tát quán Thập Nhị Nhân Duyên bắt đầu từ chỗ sanh, già, đau, chết. Ngài quán thấy: "Sở dĩ có già, có chết là tại có sanh. Tại sao có sanh? Vì có hữu. Tại sao có hữu? Vì có thủ. Tại sao có thủ? Vì có ái. Tại sao có ái? Vì có thọ? Tại sao có thọ? Vì có xúc. Tại sao có xúc? Vì có lục căn. Tại sao có lục căn? Vì có Danh Sắc. Tại sao có Danh Sắc? Vì có thức. Vì khi có thức là có hành vi." Đến đây, Ngài quán ngược lại, thấy rằng nếu muốn không già, đau, chết thì phải không có sanh, v.v... Nghĩa là nếu pháp này mất thì pháp kia cũng mất; rồi tuần tự những pháp khác cũng mất hết. Cứ thế, Ngài quán xuôi quán ngược. Sau khi quán phần này rồi, Ngài chuyển sang hành Minh Sát Tuệ (hay Tứ Niệm Xứ) và đắc đạo quả thánh theo thứ tự Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán; nghĩa là đắc Lậu Tận Minh, thành Phật trong canh ba. Đó là Ba-La-Mật của một vị Bồ-Tát.
Sau khi thành Phật, đến ngày thứ tám, Ngài quán Thập Nhị Nhân Duyên một lần nữa. Nhưng ở đây, Ngài quán thêm, thấy rõ nguồn gốc của hành là Vô Minh. Và dưới cội cây Bồ Đề, Ngài thốt lên: "avijja paccaya sankhara" nghĩa là "Vô Minh sanh ra Hành." Theo thứ tự trong Thập Nhị Nhân Duyên, pháp này sanh thì pháp kia cũng sanh; pháp này diệt thì pháp kia cũng diệt. Khi diệt một pháp thì mọi pháp khác cũng diệt, nghĩa là Vô Minh cũng diệt. Khi diệt được Vô Minh thì có Minh, tức là Niết-Bàn vậy.
Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Tám
Niết-Bàn
Sư đã giảng về phương pháp tực tập của Thiền Chỉ và Thiền Quán. Hôm nay, Sư xin nhấn mạnh về sự an vui của các pháp thiền này, nhất là Thiền Quán.
Sự an vui của Thiền Chỉ có 5 chi: Tầm, Sát, Hỷ, Lạc, Định. Khi tâm chú trên một đề mục, các chi thiền bắt đầu sanh lên theo thứ tự. "Tầm" là sự chú tâm nơi đối tượng. "Sát" là bắt dính theo đối tượng và quán cho kỹ. Tâm không rung động theo đối tượng khác. Tâm được an vui gọi là "Hỷ". Sau đó tâm lên đến Lạc và Định.
Sơ thiền bao gồm cả 5 chi trên. Đến Nhị thiền, tâm của hành giả bén nhạy, tự nhiên mất Tầm và bắt đầu từ Sát trở lên Hỷ, Lạc, Định. Tam thiền thì mất hai chi đầu là Tầm và Sát, chỉ bao gồm Hỷ, Lạc, Định. Tứ thiền mất ba chi đầu chỉ bao gồm Lạc và Định. Ngũ thiền thì có Xả và Định. Đó là trạng thái an vui của tâm định trong một đối tượng cố định. Khi có đối tượng, hành giả chú tâm khắn khít trên đối tượng. Tâm sẽ được an vui, tránh khỏi 5 pháp chướng ngại là Tham Ái, Oán Thù, Phóng Dật, Hôn Trầm và Hoài Nghi. Đó là sự an vui của Thiền Chỉ hay Thiền Định.
Hôm nay, quý vị đi sâu trong Thiền Quán, cũng được gọi là Thiền Minh Sát hay Thiền Tuệ, sự an vui của Thiền Tuệ là Niết-Bàn. Tuy rằng Niết-Bàn khó hiểu đối với hành giả nào chưa kinh nghiệm, nhưng qua những câu Phật ngôn trong kinh tạng Pàli và qua sự thực hành, hành giả có thể đoán được ý nghĩa của Niết-Bàn.
Cái gì mà có thân, có tâm, có ngũ căn, có ngũ trần làm đối tượng thì vấn đề đó dễ hiểu. Trái lại, nói về Niết-Bàn là một vấn đề khó hiểu, vì Niết-Bàn không có thân tâm, không có ngũ uẩn làm đối tượng. Như vậy, nói về một vấn đề không thân, không tâm mà được sự an vui là một vấn đề khó hiểu vô cùng.
Trừ những người Phật Tử có duyên lành, có nhiều Ba-La-Mật mới có đức tin mạnh mà đi tìm và thực hành để giác ngộ được Niết-Bàn. Còn lại, chúng sanh thường chạy theo những thú vui của thế tục. Đó là thú vui qua lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), mà đối thượng là lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp hay đối tượng của ý). Thú vui ở đời thấy rõ như vậy. Tại sao hành giả lại chạy theo một sự an vui khác không có đối tượng, một sự an vui mà nhiều người không chấp nhận là có như vậy? Điều này khó giải thích được, mà tại sao ta lại ngồi tìm?
Nếu hành giả không hấp tấp chạy theo bàn luận ở đời mà suy nghĩ cho kỹ, thì hành giả phải nhìn nhận là sự vui thú ở đời không phải là cái vui vĩnh viễn. Nhìn nhận có sự vui thật, nhưng sau cái vui ấy có một sự khổ. Tại sao vậy? Tại sao mà sự vui ở thế gian này không vĩnh viễn? Sự vui do đối tượng của lục căn là lục trần có sẵn như vậy mà nó không vĩnh viễn, vì có sự thay đổi trong cái vui. Khi mắt thấy cảnh vật hoặc tai nghe tiếng động, mắt cũng như tai bắt được đối tượng mà đối tượng lại không tồn tại lâu dài. Vì đối tượng không tồn tại lâu dài nên biến thành sự khổ. Đành rằng lúc ban đầu nó vui thật, nhưng cuối cùng nó cũng mất đi. Cái mất đó làm cho tâm đau khổ. Vì vậy, nếu chúng sanh thèm khát, càng chạy theo thú vui ở đời bao nhiêu thì càng khổ bấy nhiêu.
Cụ thể trên thế gian này, biết bao người chỉ nghĩ đến và chạy theo lạc thú của ngũ trần. Biết bao người phạm luật pháp để phải bị tù tội, chẳng những chỉ trong kiếp hiện tại thôi mà còn hậu quả lâu dài trong những kiếp tương lai. Ta mới thấy rằng sự an vui trong ngũ dục có cái quả không mát mẻ; mà lại nóng nảy, đưa tới đau khổ.
Không phải chỉ có ngày nay, mà từ xa xưa đã có câu hỏi về Niết-Bàn. Vào thời Đức Phật còn tại thế, có câu chuyện bàn luận về Niết-Bàn như sau:
Tại Trúc Lâm Tịnh Xá ở Vương Xá Thành, Ngài Xá-Lợi-Phất hội họp các thầy Tỳ-khưu lại và hỏi:
- Vậy sự an vui ở Niết-Bàn như thế nào? Nghĩa của Niết-Bàn như thế nào?
Ngài Udayi trả lời:
- Niết-Bàn thì không còn cảm thọ.
Ngài Udayi lại hỏi:
- Nếu không còn cảm thọ, làm sao có sự an vui?
Ngài Xá-Lợi-Phất trả lời:
- Như vậy đó, Niết Bàn thì không còn cảm thọ, không còn vui thú ở ngoại cảnh. Nơi đó dập tắt hết mọi khổ đau, không còn già, không còn chết.
Trong thời xưa, có nhiều tín ngưỡng quan niệm về Niết-Bàn khác nhau. Có người nói Niết-Bàn là tinh hoa của thân và tâm. Có người lại bảo Niết-Bàn là một cái nghiệp báo do con người đào tạo. Khi thân tâm này chềt rồi thì nghiệp báo đó trở thành một sự an vui. Nhưng theo Phật Giáo, Niết-Bàn là sự dập tắt hết Danh và Sắc. Có nghĩa là cho dù có giác quan tiếp xúc với trần cảnh, tâm vẫn không bị chi phối. Tâm không bị chi phối gọi là tâm Niết-Bàn.
Chúng sanh trên thế gian này không chấp nhận có sự an vui của Niết-Bàn, vì Niết-Bàn ở ngoài sự kinh nghiệm của thân tâm, của giác quan này. Mở mắt ra nhìn, thấy cảnh đẹp thì vui với cái đẹp; tiếng hay tới tay thì với tiếng hay; v.v... Mà lại bảo rằng Niết-Bàn không có thân tâm, không có ngũ uẩn, không có giác quan; như vậy, sự an vui ấy từ đâu mà có? Khi phủ nhận, không cho rằng cái vui theo mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là sự an vui thật sự, như vậy còn cái vui nào hơn nữa? Vì vậy Niết-Bàn khó hiểu vô cùng! Ngoại trừ những hành giả nào có duyên lành, có một đức tin mạnh và đã từng trải luân hồi ở sông mê bể khổ, đã từng kinh nghiệm sự vui thú ở đời và nhận thức rằng nó không đưa tới sự an vui vĩnh viễn, thì mới đi tìm cái gì khác hơn. Nghe nói Niết-Bàn là an vui vĩnh viễn nên mới thử đi tìm và ngày hôm nay mới ngồi tại đây trong khoá thiền này.
Niết-Bàn có được là phải đầy đủ Ba-La-Mật. Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay các Chư Phật khác trong qua khứ đã đầy đủ Ba-La-Mật mới giác ngộ, đắc được pháp cao thượng là Niết-Bàn. Mười pháp Ba-La-Mật gồm có:
1. Bố Thí Ba-La-Mật,
2. Trì Giới Ba-La-Mật,
3. Xuất Gia Ba-La-Mật,
4. Trí Tuệ Ba-La-Mật,
5. Tinh Tấn Ba-La-Mật,
6. Nhẫn Nại Ba-La-Mật,
7. Chơn Thật Ba-La-Mật,
8. Nguyện Vọng Ba-La-Mật,
9. Tâm Từ Ba-La-Mật, và
10. Tâm Xả Ba-La-Mật.
2. Trì Giới Ba-La-Mật,
3. Xuất Gia Ba-La-Mật,
4. Trí Tuệ Ba-La-Mật,
5. Tinh Tấn Ba-La-Mật,
6. Nhẫn Nại Ba-La-Mật,
7. Chơn Thật Ba-La-Mật,
8. Nguyện Vọng Ba-La-Mật,
9. Tâm Từ Ba-La-Mật, và
10. Tâm Xả Ba-La-Mật.
Mười Ba-La-Mật này khi tròn đủ sẽ đưa chúng sanh đến nơi an vui vĩnh viễn. Sự an vui đó ở ngoài sáu giác quan này. Đó là sự an vui của Niết-Bàn.
Sư không biết nói chi hơn, vì Niết-Bàn thuộc về kinh nghiệm thực chứng. Bây giờ thì Sư chỉ thí dụ thôi cho quý vị có đức tin mạnh để tiến bước và không bỏ Ba-La-Mật của quý vị. Ở đây, Sư không dám đề cập đến kiếp trước, nhưng trong kiếp này quý vị đã và đang đào tạo 10 pháp Ba-La-Mật kể từ Bố Thí, Trì Giới, Xuất Gia, Trí Tuệ, v.v... trong những khóa thiền như thế này.
Hành thiền gặp khó khăn, quý vị rán nhẫn nại chịu đựng sự khó khăn. Đó là Nhẫn Nại Ba-La-Mật. Ngồi tinh tấn kéo tâm lại, không cho buông lung là Tinh Tấn Ba-La-Mật. Người đời không nghĩ như quý vị. Đụng một chút đau khổ là người ta phản ứng ngay, tìm một cái gì để che lấp sự đau khổ đó. Ngược lại, hành giả ngồi như thế này, nguyện chịu đựng sự khổ đau và lấy đó làm đối tượng để tìm sự an vui. Tại sao lấy sự đau khổ ấy nhìn để đổi lấy sự vui? Ai ai cũng đã từng kinh nghiệm rằng thú vui ở đời chỉ mở đường cho đau khổ và hội ngộ sẽ nảy mầm chia ly. Chỉ có Niết-Bàn mới dập tắt được sự khổ và sự hội ngộ ấy mới được an vui mãi mãi.
Không gì hơn là bây giờ quý vị từ chối những lạc thú ở đời và đến đây để thực hành những Ba-La-Mật pháp như vậy. Ba-La-Mật nhiều chừng nào, quý vị lại càng có đức tin mạnh chừng ấy, có một nguyện vọng, một sự chân thật và tâm Từ mạnh chừng ấy. Không phải luyện tâm Từ mới có tâm Từ. Tâm Từ của chúng sanh đã có từ hồi nào đến giờ, chỉ cần hành giả cố gắng thì sẽ phát triển nó. Thương thân tâm này, không muốn cho thân tâm này đau khổ nữa nên quý vị mới nhẫn nại lại ngồi đây, cầu cho thân tâm được an vui mãi mãi. Vì thương mình nên quý vị mới hành thiền thanh lọc tâm. Quý vị dám hy sinh bỏ những thú vui ở đời mà người khác luôn chạy theo, vì biết đó chỉ là vui tạm và chỉ có Niết-Bàn mới là vĩnh viễn.
Bây giờ hỏi lại, tại sao chúng ta không kinh nghiệm được Niết-Bàn mà vẫn cố gắng đi tìm? Chúng ta chỉ nghe Chư Phật và các vị đã từng đi theo dấu chân của Đức Phật thuyết lại, nói rằng sự an vui của Niết-Bàn không có giác quan mà cũng không có đối tượng của giác quan. Nói về ngũ uẩn này, có mắt, chúng ta mở từ sáng đến tối thì mắt mỏi. Tai nghe từ sáng đến tối cũng mỏi. Mũi ngửi, lưỡi nếm, thân đụng chạm cả ngày nên cũng mỏi mệt. Nói tóm lại, ngũ uẩn chạm xúc cả ngày nên mệt mỏi lắm rồi. Làm sao cho mắt đừng thấy, tai đừng nghe, mũi đừng ngửi, lưỡi đừng nếm, thân đừng đụng chạm thì được an vui. Mà cũng làm sao quên được cái thấy, cái nghe, cái ăn, v.v... thì nó sẽ được an vui.
Để tìm kiếm an vui, không gì hơn là chúng sanh đi ngủ một giấc ngon lành. Cũng như có một người sau một đêm ngủ dài, không mộng mị xấu xa, thức dậy khoe: "Đêm hôm qua tôi ngủ ngon lành."
Hỏi: - Trong lúc ngủ ngon lành như vậy, mắt có thấy không?
- Dạ không.
- Tai có nghe không?
- Dạ không.
- Thân có đụng chạm, giường cao chiếu rộng có cảm giác không?
- Dạ không.
Như vậy nếu giác quan không có cảm giác, tại sao người đó có thể nói là ngủ một đêm ngon lành? Câu hỏi này, không ai trả lời được; chỉ biết là an vui trong cái quên, quên cái mỏi mệt của giác quan mà xác nhận là một đêm ngủ ngon lành. Nếu Sư không lầm thì có lẽ sự an vui đó là một an vui của cái gì không thay đổi.
Hậu quả cuối cùng của ngũ trần lục dục, mà chúng sanh đeo đuổi, là đau khổ. Và nếu chúng sanh thức tỉnh, tâm không còn bị chi phối bởi ngũ trần, thì cảm thấy được sự an vui. Sự an vui này gọi là an vui Niết-Bàn mà Đức Thế Tôn đã tìm thấy dưới cội cây Bồ Đề. Giác quan Ngài vẫn dùng mà tâm Ngài không bị động. Vì vậy tâm Ngài lúc nào cũng có sự an vui. Chúng sanh thì không như vậy. Chạm vào ngũ trần thì bị động, không thương thì ghét, không ghét thì thương. Ghét cũng là một cái ghét rung động. Thương cũng là một cái thương rung động. Có chỗ nào là an vui đâu? Trái lại, một tâm không rung động mới là một tâm an vui. Có nghĩa làụ tâm không bị chi phối bởi sự thay đổi, sự Vô Thường của trần cảnh. Trong khi đó, chúng sanh đau khổ vì sự thay đổi của ngũ trần, của giác quan, và của đối tượng. Đó là ví dụ sơ qua về Niết-Bàn mà hành giả đang đi tìm.
Nếu hỏi lại Niết-Bàn ra làm sao, thưởng thức như thế nào, thì khó trả lời được. Như một người ngủ thức dậy nói là ngủ được một giấc ngon lành, thì có lẽ người kinh nghiệm Niết-Bàn cũng vậy. Mà có lẽ Niết-Bàn còn an vui hơn nhiều. Trong A-Tỳ-Đàm (Vi Diệu Pháp) có giải thích rõ về Tâm Vương, Tâm Sở, Sắc Pháp và Niết-Bàn. Khi nói về Tâm Vương hay Tâm Sở là nói về trạng thái tâm làm việc thiện hoặc ác, chủ động hoặc thụ động, là một tâm luôn luôn tạo nghiệp không ngừng nghỉ. Khi nói về Sắc Pháp là nói về đất, nước, gió, lửa mà trạng thái của nó cũng không ngừng thay đổi. Nhưng khi nói về Niết-Bàn, thì lại nói là ở ngoài Sắc Pháp, ngoài Tâm Vương và Tâm Sở. Như vậy, khi nói về Niết-Bàn có thể nói là khi nào dập tắt được Danh và Sắc này. Nếu ở ngoài Danh Sắc, thì khi Danh Sắc này diệt rồi, tự nhiên đó là Niết-Bàn vĩnh viễn vậy. Nếu còn thân tâm này mà tâm hành giả không còn bị phiền não, không còn bị chi phối theo giác quan, đó gọi là "Niết-Bàn tâm" hay "hữu dư Niết-Bàn". Đấy là cái nghĩa của Niết-Bàn. Nếu quý vị nào đã kinh nghiệm qua thì sẽ hiểu được.
Sư xin đọc một đoạn trong quyển Thắng Pháp Tập Yếu Luận (hay A-Tỳ-Đàm Tập Yếu, Abhidhammattha Sanghaha) để quý vị nhận thức thêm về Niết-Bàn:
"Niết-Bàn là Lokuttara Sankhàtam, được gọi là Siêu Thế, là Catumagganànena do bốn Đạo cần được chứng đắc. Sacchikàtabbam: trở thành đối tượng cho Đạo và Quả. Vànasankhataya tanhàya: Ái được gọi là vàna (rừng rậm). Nikkhantattà: Thoát ly. Sabhàvato: Về tự tánh. Ekavidhampi: Chỉ một loại. Saupàdisesa vibbànadhàtu: Hữu-dư-y Niết-Bàn giới. Anupadisese vibbànadhàtu: Vô-dư-y Niết-Bàn giới. Karanapariayyena: Theo phương thức tự kinh nghiệm trước và sau khi chết. Sannatam nghĩa là Không. Animittam là Vô Tướng. Niết-Bàn không có Tướng. Appanihitam làVô Nguyện. Akarabhedena Theo hành tướng."
Việt văn: "Niết-Bàn được gọi là Siêu Thế và phải được chứng ngộ bởi trí của bốn Đạo, thành một đối tượng cho bốn đạo và quả. Và được gọi là Niết-Bàn, vì là một sự thoát ly khỏi tham ái xem như là rừng rậm (vanà).
Niết-Bàn theo tự tánh chỉ có một loại; theo phương thức tự kinh nghiệm trước và sau khi chết có hai: Hữu dư y Niết-Bàn giới và Vô dư y Niết-Bàn giới. Còn theo hành tướng có ba: Không, Vô Tướng và Vô Nguyện."
Giải thích: "Niết-Bàn, Nirvana hay Nibbana, gồm có Ni và bana. Ni có nghĩa là không, bana có nghĩa là dệt hay ái. Chính ái này tác dụng như một sợi dây nối liền đời sống của một cá nhân, khi cá nhân này trôi lăn trong biển sanh tử luân hồi. Ni có nghĩa là không. Bana có nghĩa là thổi tắt. Nibbana có nghĩa là thổi tắt lửa tham ái, sân hận, và si mê. Niết-Bàn là nguyên lý cuối cùng, (Vatthudhama) thuộc về Siêu Thế, ra ngoài thế giới của Danh và Sắc, hay Năm Uẩn. Niết-Bàn được chứng ngộ nhờ trực giác (Paccakkha), hiện kiến hay là Thông-đạt-trí (Pativedhanàna), và Tỷ Lượng (Anumàna), hay Tùy-Giác-Trí (Anubothanàna). Để diễn đạt hai ý trên, Niết-Bàn cần phải được chứng ngộ bởi trí tuệ thuộc bốn thánh đạo và trở thành một đối tượng cho các Đạo và Quả.
Về tự-tánh (Sabbhàvatto), Niết-Bàn là an tịnh (santi), và như vậy chỉ có một (kevala). Niết-Bàn này được xem là hai, tùy theo sự chứng nghiệm trước và sau khi chết. Trong chính văn có dùng danh từ Karanapariyàyena được các tập sớ Pàli ở Tích Lan giải thích là nguyên nhân được gọi vậy vì có hữu dư y hay không có hữu dư y. Saupadisesa: sa là với, upàdi là 5 uẩn (thân và tâm), Sesa là còn dư sót lại. Upàdi từ nguyên chữ upa+a+da lấy nghĩa là 5 uẩn do tham ái và tà kiến chấp chặt. Upàdi cũng có nghĩa là Kilesa (phiền não). Theo chánh bản và các tập sớ, Niết-Bàn do các vị Sotàpanna, Sakadàgami, và Anàgami chứng ngộ thuộc Saupadisesanibbànadhàtu. Vì còn thân và còn phiền não. Niết-Bàn của các vị A-La-Hán cũng vẫn là Saupadisesanibbànadhàtu vì các vị này vẫn còn thân. Chỉ có Niết-Bàn của vị A-La-Hán sau khi chết mới gọi là anupadisesanibbànadhàtu. Vì cả phiền não và ngũ uẩn đều đã được vất bỏ, dứt sạch. Sunnata là Không, có nghĩa là không có Tham Sân Si hay mọi pháp hữu vi. Animitta, Vô Tướng, có nghĩa là không có tướng Tham Sân Si hay tướng các pháp hữu vi. Appanihita, Vô Nguyện, có nghĩa là không còn đèo bồng, luyến ái gì nữa."
Đây là Niết-Bàn. Có bấy nhiêu đó thôi. Nói rất là tóm tắt mà Đức Phật phải tu 4 A-Tăng-Kỳ 100 ngàn kiếp mới kinh nghiệm được. Như vậy, ta thấy Niết-Bàn nằm ngoài sự suy nghĩ, ngoài cái thấy, nghe, ngửi, vị, xúc giác của thân.
Như thế nào gọi là kinh nghiệm hay thấy Niết-Bàn? Và làm sao tin tưởng đó là Niết-Bàn? Hành giả phải hành thiền, lấy đối tượng để quán. Và khi quán, tất cả đối tượng đem lại đều thấy Vô Thường, Khổ Não và Vô Ngã. Vô Thường là luôn luôn thay đổi. Và cái gì thay đổi là Khổ. Cứ như vậy, Thay Đổi - Khổ, Thay Đổi - Khổ, Thay Đổi - Khổ. Và nếu cứ thấy vậy, hành giả sẽ không còn chấp vào sự thường tồn ở chỗ nào nữa.
Trong khi hành thiền, quý vị nhận thức được cảm xúc trong thân; và khi theo dõi tỉ mỉ, hành giả sẽ nhận thức được sự thay đổi của cảm xúc. Chính sự thay đổi đó làm cho quý vị đau khổ. Cuối cùng, trong một giây phút nào đó, quý vị không còn chấp là của mình nữa. Không chấp là không chấp vào suy nghĩ, vào thân, cũng như vào thọ hoặc vào pháp. Tất cả những đối tượng nào thuộc ngũ uẩn cũng đều thấy đến rồi đi, ngoài ý muốn của quý vị. Sự thay đổi hay sanh diệt là Vô Thường. Không còn chấp cái này là của ta, là thuộc quyền sở hữu của ta, hay dưới sự kiểm soát của ta, chính là Vô Ngã.
Mong rằng Ba-La-Mật mà quý vị đang đào tạo đây sẽ đưa quý vị đến kinh nghiệm Niết-Bàn trong một giây phút nào đó. Hãy tĩnh lặng mà kinh nghiệm, không có suy nghĩ ngoài đối tượng. Đó gọi là Niết-Bàn tâm.
Thời giáo lý đến đây xin tạm đứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày Thứ Chín
Sống theo Đức Phật
Hôm nay là ngày thứ chín. Chỉ còn ngày mai nữa là quý vị hành trì tròn đủ 10 ngày của khóa thiền này. Thông thường lớp học nào cũng vậy, tới ngày cuối chúng ta nên ôn lại những bài đã học. Cho nên, hôm nay, Sư xin ôn lại những gì quý vị cần kinh nghiệm và hiểu biết trong 9 ngày qua.
Chúng ta đã và đang học những gì? Chúng ta học phương pháp sống theo Đức Phật. Chúng ta đã từng biết đau, biết buồn, và chúng ta để trôi theo cái đau cái buồn. Bây giờ, ta không buông trôi theo nó mà nhìn thẳng vào nó, để biết rõ những cảm xúc này. Khi biết rõ, ta mới có thể đối phó với chúng được. Khi xưa, lúc đi, lúc cười, ta trôi theo cái đi, buông theo tiếng cười. Ngày nay, ta đi và ta cười theo phương pháp của Đức Phật. Đi, ta biết ta đi. Cười, ta biết ta cười. Nếu biết đi, biết cười theo phương pháp của Đức Phật, ta sẽ sống an vui mãi mãi.
Đức Phật dạy: Sabbesata aharatthitika, nghĩa là tất cả chúng sanh trên thế gian này sống nhờ vật thực. Hôm nay ta cũng học làm sao ăn theo cách của Đức Phật. Từ trước đến nay, ta ăn theo thói quen, theo thói vui, ăn mà nhiều khi không biết mình ăn. Hôm nay, ta ăn theo cách của Đức Phật. Ta ăn trong tỉnh thức. Khi ăn, ta biết ta ăn. Khi không ăn, ta biết ta không ăn. Ta ăn theo cách ăn của Đức Phật. Ăn cách này sẽ tạo chất bổ tinh thần cho tất cả chúng sanh có duyên lành muốn giải thoát những khổ não đã đầu độc thân tâm ta.
Vấn đề chúng ta đang tìm hiểu ở đây chính là vấn đề ở gần ta nhất. Đó là con người của ta. Đức Phật dạy: con người là Danh Sắc cũng gọi là thân tâm, hay con người là Ngũ uẩn. Như vậy, trong thân tâm này, có cái gì cho ta biết cái này là Danh, cái kia là Sắc? Đó là trí nhớ (hay Chánh Niệm). Chính trí nhớ này làm cho ta cao thượng hơn, và dẫn ta đi đến nơi an vui vĩnh viễn. Vì vậy, ta dùng trí nhớ đó mà thực tập trong mấy ngày nay.
Đức Thế Tôn dạy rằng Bát Chánh Đạo có tám chi, mà quan trọng nhất là Chánh Niệm. Chính như bản thân Ngài cũng như tất cả chúng sanh, khi đem Chánh Niệm ra áp dụng thì tất cả những chi pháp khác cũng sẽ phát sanh. Vì vậy, hôm nay ta đem chánh niệm hay trí nhớ ra áp dụng.
Trí nhớ là gì? Trí nhớ là sự phân biệt của tâm ở trong thân này. Chúng sanh nào cũng có một phần trí nhớ; mà khi trí nhớ này được đem ra áp dụng thì nó sanh lên đều đều và đưa tuệ giải thoát lại cho chúng ta.
Tập như thế nào để ta có trí nhớ và trí tuệ? Không phải tập ở đâu bên ngoài, mà chính là ở trong thân ta. Sư xin kể lại một câu chuyện để quý vị thấy sự thực hành rất là quan trọng: Câu chuyện ở Âu Mỹ về một vị thuyền trưởng và một ông giáo sư.
Một hôm nọ. ông giáo sư đi nghỉ hè theo đường biển. Trong chuyến du lịch, vị giáo sư muốn tìm hiểu thêm, cho nên mỗi ngày ông đến hỏi vị thuyền trưởng. Lần đầu, ông hỏi:
- Ông là thuyền trưởng, vậy ông có biết Hải Dương Học không?
Vị thuyền trưởng trả lời:
- Thưa ông, không. Tôi không học về môn đó. Tôi chỉ chuyên lái thuyền thôi.
Vị giáo sư bảo:
- Vậy là ông đã mất một phần tư của đời sống. Hải Dương Học là môn học quan trọng về biển.
Ngày thứ nhì, ông giáo sư hỏi nữa:
- Thưa thuyền trưởng, ông có biết Khí Tượng Học không?
Ông thuyền trưởng trả lời:
- Thưa giáo sư, tôi không biết. Đừng nói đến biết, ngay cả danh từ ấy tôi cũng ít nghe tới.
Ông giáo sư nói:
- Vậy là ông mất hết hai phần tư của đời sống.
Đến ngày thứ ba, ông giáo sư lại hỏi:
- Thưa thuyền trưởng, ông có biết Thiên Văn Học không?
Vị thuyền trưởng trả lời:
- Thưa ông, tôi không biết về môn học đó. Sự thật, nghề của tôi là lái thuyền. Và tôi lái đã 10 năm rồi.
Vị giáo sư nghĩ vị thuyền thưởng này không biết chi hết, nên bảo:
- Vậy là ông mất hết ba phần tư của cuộc sống.
Đến ngày thứ tư, có một trận bão to thổi đến. Thuyền trưởng báo động để mọi người chuẩn bị khi bão tới. Trong lúc ấy, vị thuyền trưởng chạy tới chạy lui, nhắc nhở mọi người. Khi đến ông giáo sư, thuyền trưởng hỏi:
- Thưa giáo sư, ông có biết bơi lội không?
Vị giáo sư trả lời:
- Thưa ông, tôi không biết bơi.
Vị thuyền trưởng bảo:
- Vậy là giáo sư mất hết bốn phần của đời sống rồi!
Quý vị thấy đó, mặc dù sự học hỏi có lợi cho đời sống thật, nhưng chỉ có lợi phần nào thôi. Nếu đi biển mà không biết bơi lội thì thật là có hại cho sinh mạng chúng ta.
Hôm nay, quý vị đến đây học phương pháp bơi lội trong biển sanh tử luân hồi. Chúng sanh vì mù quáng tối mê nên luôn luôn nằm trong luân hồi, bị sanh lão bệnh tử mãi mãi. Chỉ có Đấng Giác Ngộ là Đức Phật mới tìm thấy phương pháp để ra khỏi sự đau khổ này. Đó là phương pháp chúng ta đang thực tập mấy ngày nay. Phương pháp niệm cho biết cái nào là Danh, cái nào là Sắc.
Đây là phương pháp bơi lội mà đại dương chính là thân tâm của ta. Tuy rằng đại dương này nhỏ mà ta lại không biết bờ bến, không biết chiều sâu, nghĩ không cùng, đi không cạn, tìm hiểu không hết. Mặc dù vẫn còn trong sanh tử luân hồi, nếu ta biết được phương pháp Đức Phật dạy là chúng ta vững tâm hơn. Tuy vẫn còn trầm luân, nhưng nhờ biết bơi lội, ta yên lòng đi trên chiếc thuyền Danh Sắc. Nếu ta không biết phương pháp Đức Phật dạy là ta mãi mãi chìm đắm trong đau khổ.
Tóm lại, con người chỉ có hai phần thôi, phần vật chất gọi là Sắc (hay thân) và phần tinh thần gọi là Danh (hay tâm). Nếu chỉ có bấy nhiêu thôi, ta phải thực tập để kinh nghiệm sâu xa trong thân tâm chúng ta. Nếu đem thân tâm ra phân tách thì ta sẽ thấy có một phần tử cao quý hơn mà Đức Phật đã tìm ra và dạy lại cho chúng ta. Đó là yếu tố giải thoát, gọi là trí nhớ (hay Chánh Niệm). Chính trí nhớ này, ta đem ra áp dụng.
Trí nhớ hay Chánh Niệm, tiếng Pali gọi là Sati. Sati nghĩa là phải để trước mặt, phải đem đề mục ra áp dụng. Đề mục đầu tiên phải là đề mục về Sắc. Tại sao vậy? Vì trí nhớ là phần của tâm. Và tâm không có hình ảnh nên tâm không thể nào nhìn thấy tâm được.
Đức Phật, với trí tuệ siêu phàm, hiểu rõ vấn đề. Ngài cho mình biết, phần từ đầu đến chân là vật chất hay cũng gọi là thể Sắc. Ngài dạy ta lấy tâm soi lại thể Sắc này và lấy trí nhớ ra để niệm. Ngài dạy mình để trí nhớ vào một địa điểm nào nhỏ, dễ trụ tâm; nên các thiền sư nhiều kinh nghiệm dùng hơi thở nơi mũi hoặc nơi bụng. Hai đề mục này liên quan với nhau. Khi hơi thở vào thì bụng phồng, thở ra thì bụng xẹp. Vì lý do này nên dùng chỗ nào cũng được; nhưng ở bụng thì dễ chú tâm hơn.
Bây giờ, vì ta muốn sát cánh trong thân hơn nên ta để trí nhớ nơi bụng. Chính ở trong thân thì dễ theo dõi hơn là một thể sắc từ ngoài chen vào thân. Ví dụ, hơi thở vô ở mũi khó cho mình cảm giác nó một cách rõ ràng từ đầu đến cuối vì nó vi tế hơn sự chuyển động ở bụng. Một hơi thở vô mà mình tìm bắt, kinh nghiệm cho được một cách rõ ràng ở mũi rất là khó cho người mới thực tập. Thay vào đó, chúng ta để tâm niệm nơi bụng. Bụng phồng, nó cử động rõ ràng. Bụng xẹp, nó cử động rõ ràng. Vì sự cử động của bụng thô sơ hơn nên dễ theo dõi. Ngoài ra nó còn có thân xúc mạnh hơn nên dễ bắt và dễ theo dõi hơn. Vì vậy khi hành giả mới chú tâm nơi bụng là tự nhiên thấy bụng phồng xẹp liền. Mà khi thấy bụng phồng xẹp, đó chính là ta học về thân (sắc) vậy.
Phồng Xẹp là gì? Là sự cử động hay chuyển động của thân. Tại sao chúng ta niệm theo phồng xẹp, mà không niệm nơi chân hay bàn tay hay nơi nào khác? Thật ra, niệm ở những nơi này cũng được; nhưng nếu để tâm một chỗ không có sự cử động làm cho nó thức tỉnh, thì tâm định ở đó dễ đưa đến buồn ngủ. Để tâm trong đề mục chuyển động là bắt tâm luôn luôn thức tỉnh. Vì vậy, đề mục nơi bụng phồng xẹp là đề mục của Thiền Minh Sát, một đề mục Thiền Quán; nghĩa là làm cho mình luôn thức tỉnh và sự thay đổi của đề mục (hết phồng rồi xẹp) làm cho mình có một trí nhớ phân biệt.
Sau khi niệm một thời gian, ta sẽ biết bụng cử động đều hoặc không đều, mạnh hoặc yếu, dài hoặc ngắn. Do vậy mà ta luôn kinh nghiệm được sự cử động của thân. Rồi chúng ta dạy tâm phân tách. Phần nào trong thân cử động hay nhìn được, rờ được, cảm giác được gọi là sắc (thân). Phần thể sắc này không biết chi hết. Dùng trí nhớ kinh nghiệm, cảm giác nó, biết sự cử động của nó. Sự phân biệt này gọi là danh (tâm).
Chánh Niệm là trí nhớ ghi nhận những gì xảy ra trong hiện tại; còn tâm thức là phần suy nghĩ. Nhưng bây giờ quý vị thấy tâm không suy nghĩ. Vậy tâm ở đâu? Khi trí nhớ chạy sát theo phồng xẹp, tâm ở yên trong đề mục. Nhờ có Chánh Niệm ghi nhận tỉ mỉ nên tâm thức nhận biết đề mục rõ ràng. Biết sự cử động và xúc giác của bụng trong hiện tại. Như vậy, Chánh Niệm luôn luôn theo từ đầu đến cuối của phồng của xẹp. Khi có trí nhớ như vậy gọi là biết mình.
Biết mình là phần trí tuệ. Nhờ vậy mới phân tách được phồng rồi xẹp, xẹp rồi phồng; biết được sự cử động của phồng xẹp. Đây gọi là trí tuệ phân tách. Nghĩa là trí nhớ theo dõi đối tượng; và song song với trí nhớ, tâm phân tách được đây là phồng, khác với xẹp. Tuy có một chút suy nghĩ, nhận xét. Nhưng suy nghĩ này là suy nghĩ, phân tách và kinh nghiệm trong đề mục hiện tại và thực tế, không phải do tưởng tượng hay suy nghĩ về quá khứ và tương lai. Đây, tâm luôn luôn ở trong hiện tại, có đề mục chắc chắn của nó để tâm kinh nghiệm, cảm giác được. Vì vậy ta mới phân tách được cái nào là Danh, cái nào là Sắc.
Khi phân tách được, ta thấy phần thân (sắc) cử động và chỉ cử động thôi, không biết chi cả. Rồi có cái biết sự cử động của thân. Biết đó thuộc về tâm (danh). Khi thấy vậy, ta biết con người chỉ là Danh Sắc, thân tâm, hay là thể chất và tinh thần. Đấy là bài học đầu tiên của hành giả.
Bây giờ ta đã tìm thấy trong con người có thân có tâm. Khi niệm như vậy, ta phân tách được trong thân có trạng thái như thế nào, và trong tâm có trạng thái như thế nào. Theo Vi Diệu Pháp, trong thân có Tứ Đại: đất, nước, gió, lửa. Nhờ có trí nhớ ở trong thân, ta mới cảm giác được trạng thái của Tứ Đại; và nhận thức được mỗi thể chất có một trạng thái riêng. Đó là cứng mềm, dính mắc, chuyển động, và nóng lạnh.
Nếu tiếp tục Niệm như vậy, chúng ta càng có trí tuệ, càng có thể đi sâu vào vấn đề và phân tách rõ từng chi tiết một. Phần cử động trong thân là gió, thuộc về thể sắc. Nó luôn luôn thay đổi và không biết chi hết. Chỉ có Tâm là phần cao thượng hơn, mới biết được. Khi có nhiều trí nhớ, ta sẽ kinh nghiệm hơn nữa, sẽ thấy thân tâm này sanh diệt chung nhau. Kế đó, ta kinh nghiệm thêm một phần tử tế nhị hơn nữa, gọi là thọ.
Nếu ta đếm đủ ngũ uẩn theo thứ tự: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; thì tiếp theo sắc là thọ. Vì thọ là cảm giác trong thân nên cũng gọi là thân thọ. Thân thọ có thọ dễ chịu (thọ lạc), thọ khó chịu (thọ khổ), và thọ không lạc không khổ (thọ vô ký). Có Chánh Niệm theo dõi, tâm phân tách được thọ này là dễ chịu hoặc không dễ chịu. Dù dễ chịu hoặc không dễ chịu, ta vẫn niệm. Thọ là thọ. Ví dụ, khi nóng, ta niệm là nóng. Nóng lạnh là lửa; cứng mềm là đất đó thôi. Hay là khi đau, ta cũng niệm là đau.
Khi niệm như vậy là ta cũng tập đi trong thân này với một tâm xả, không vui không buồn. Thân này chuyển động, ta đi song song với nó mà không chìm đắm. Cảm thọ này nổi lên, ta cũng đi song song với nó. Đấy là ta biết được Danh Sắc, bài học đầu tiên mà Đức Phật đã dạy.
Chúng sanh thường chấp con người có cái Ta. Nếu chấp vậy gọi là tà kiến. Nếu có tà kiến, ta sẽ chìm đắm dưới đáy biển. Riêng hành giả hôm nay làm một vị thuyền trưởng, học theo phương pháp của thuyền trưởng. Tuy rằng có học thức ít, nhưng ta chú trọng về phần kinh nghiệm. Kinh nghiệm trong thân và trong tâm, và phân tách hơn nữa để biết thân tâm làm việc như thế nào.
Bây giờ nói về tâm. Như thế nào gọi là tâm? Trạng thái của tâm là suy nghĩ. Khi nãy, Sư có nói chánh niệm là trí nhớ ghi nhận Danh Sắc trong hiện tại. Vì vậy, chánh niệm là một phần tử giải thoát ở trong thân tâm đó nữa. Khi tâm ta suy nghĩ hoặc muốn làm gì, ta cũng biết. Người không thực tập thì không thấy rõ thân tâm, muốn làm gì thì làm. Tại sao vậy? Bởi một cái Ngã đã che áng luôn thân tâm này. Khi đi lúc nào cũng nói "ta đi". Khi nghỉ lúc nào cũng nói "ta nghỉ", v.v... Nhưng hành giả ở đây lại phân tách. Khi đi hoặc nghỉ, hành giả phải niệm, phải phân tách Danh Sắc coi cái gì xảy ra, cái gì chuyển động.
Bây giờ lấy một ví dụ. Lúc nãy thân này ngồi, bây giờ lại đi. Nhưng tại sao ta đi được? Trước khi đi, phải có cái gì sai khiến cái đi, mới đi được. Như vậy thì phải có cái tâm. Trí nhớ trong hiện tại lần lần cho ta thấy rõ ý định mình muốn làm gì. Trước khi đi, phải có một ý định muốn đi thì thân này mới đi được; và trí nhớ biết như vậy. Lúc nãy thân phồng xẹp, chúng ta biết niệm vì đã quen niệm phồng xẹp. Bây giờ tâm muốn đi, thì trí nhớ cũng phải niệm muốn đi - muốn đi - muốn đi. Như vậy, trí nhớ biết thêm một phần tử nữa thuộc về tâm (danh), gọi là tác ý.
Chúng ta thấy danh và sắc nương qua nương lại nhau tạo thành con người. Khi tâm muốn đi thì thân mới đi được. Khi tâm muốn ngồi thì thân mới ngồi được. Và hơn đó nữa, vì có trí nhớ nên ta phân tách được thân tâm mấy ngày nay. Chỉ vậy thôi. Nếu nhớ như vậy mãi mãi là ta đánh đổ cái gọi là Ta, chỉ thấy có Danh Sắc đó thôi. Đây là điều đầu tiên mà hành giả phải có trong Thiền Minh Sát.
Muốn có Minh Sát Tuệ để giải thoát phiền não trong thân tâm này, ta phải biết cái nào là thân, cái nào là tâm, mới đi vào chi tiết được. Như quý vị thấy, đầu tiên chỉ có niệm thân là phồng xẹp thôi mà quý vị đã biết tới bản chất của nó (nóng lạnh, nặng nhẹ, chuyển động) và biết được thân thọ. Quý vị cũng biết được ý muốn của mình trước khi làm gì. Vì vậy, chúng ta luôn luôn đi trên con đường Bát Chánh Đạo. Và đi như vậy, ta không bị chìm đắm trong sông mê bể khổ này. Chúng sanh trên thế gian cứ mãi chìm đắm trong sanh tử luân hồi vì không thấy Danh Sắc và cứ chấp vào một cái Ngã.
Bây giờ ta biết con người là Danh và Sắc. Rồi hơn đó nữa, ta phân tách thấy Danh Sắc luôn luôn ở trong trạng thái thay đổi. Cứ theo dõi vậy, thì ta sẽ thấy không một ngày nào, một giờ nào, một phút nào mà nó không thay đổi. Trạng thái thay đổi này làm cho ta khó chịu. Cái khó chịu này là phần của trí tuệ - trí tuệ chán nản. Chán nản thân vì nó có trạng thái thay đổi; chán nản tâm vì nó có trạng thái thay đổi. Mà ai cấu tạo thân tâm này? Ta không biết được. Nguyên nhân nó từ đâu? Ta không biết được. Cho dù từ trước đến nay, người ta nói là có Bề Trên tạo con người đi nữa, ta vẫn để qua một bên. Ai gieo cho mình? Mình không biết. Bây giờ, chúng ta chỉ thấy sự Khổ; rồi làm sao ra khỏi cái Khổ mà ta đang có đây. Để giải thoát sự khổ này, chỉ có phương pháp Đức Phật dạy mà chúng ta đang thực tập ở đây.
Trong mười ngày, quý vị đã kinh nghiệm thế nào là trạng thái thay đổi của thân tâm, và thế nào là sự chán nản thân tâm này. Chúng ta được lợi ích gì trong 10 ngày nay? Lợi ích trong sự đau mỏi của thân hay là sự đau khổ của tâm? Có như vậy, chúng ta kinh nghiệm sự đau khổ của thân cũng như tâm. Hơn đó nữa, ta kinh nghiệm phần chán nản của thân tâm này, và lấy chán nản đó để ta trắc nghiệm. Tại sao vậy? Vì do chán nản đó, ta mới lần lần rời khỏi sự đau khổ. Tâm không chán nản là tâm luôn luôn ở trong bóng tối Tham Sân Si. Khi tâm chán nản, tự nhiên Tham Sân Si lần lần diệt mất.
Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có lần Ngài hỏi một nhóm các thầy Tỳ-khưu:
- Đêm qua, lúc nằm hay lúc ngồi, tâm các con để đâu?
Vị Tỳ-khưu thứ nhất đáp:
- Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong thế giới này.
Ý nói là vị Tỳ-khưu kinh nghiệm việc trong quá khứ và tương lai, nơi nào tâm cũng đều biết tới hết. Đức Thế Tôn im lặng. Vị Tỳ-khưu thứ nhì trả lời:
- Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong làng này. Từ đầu làng cho đến cuối làng, con đều biết hết.
Đức Phật cũng im lặng. Vị thứ ba trả lời:
- Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong nhà này.
Đức Phật cũng im lặng. Vị thứ tư trả lời:
- Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong thân này.
Đức Thế Tôn tán dương vị Ty-khưu thứ tư:
- Này con, thật đúng như vậy. Thân tâm luôn luôn nương nhờ nhau. Phải sống như vậy mới gọi là sống đúng chân lý, sống đúng theo chánh đạo.
Bây giờ biết sống theo Đức Phật, ta xóa bỏ những cái sống trong dĩ vãng hay tương lai. Sống trong kinh nghiệm của quá khứ hay trong tưởng tượng của vị lai thì sẽ mãi mãi đau khổ. Nhưng, sống bên bờ giác ngộ, sống theo Đức Phật, thì có hương vị giải thoát như chúng ta đang thực tập đây.
Quý vị còn thêm một ngày nữa. Một ngày vẫn còn nhiều thời gian, vì có 24 giờ đồng hồ. Ngồi một giờ là có 60 phút. Một phút có 60 giây mà một giây có biết bao sự sanh diệt của thân và tâm này. Như vậy thì chúng ta có cơ hội tu niệm được nhiều nữa trong ngày nay và đêm nay. Còn một ngày một đêm nữa, mong quý vị lấy thời giờ quý báu ấy mà cố gắng thực tập như vị Tỳ-khưu thứ tư. Quý vị cố gắng để kinh nghiệm bơi lội trong thân tâm này như vị thuyền trưởng biết bơi lội trong đại đương. Chúng ta sống với thân tâm mà không bị chết chìm với nó, nghĩa là luôn luôn sống thực với nó.
Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
---o0o---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét