Thiền          sư Achaan Buddhadasa          
---o0o---
Có         lẽ ngài Achaan Buddhadàsa là một vị pháp sư nổi tiếng tại         Thái Lan đương thời. Hơn nữa ngài là một học giả vĩ đại         theo truyền thống kinh điển của Phật giáo, ngài đã học         nhiều lãnh vực khác nhau. Ngài đã viết nhiều sách thiền         bằng tiếng Anh và tiếng Thái, giáo lý có so sánh và áp         dụng chánh pháp cho đời sống hàng ngày. Trong một bài kinh         bao quát, Anàpanasati - nhập tức xuất niệm - thiền sư         Buddhadasa trình bày tỉ mỉ phương pháp thực hành hơi thở chánh         niệm đều đặn từ giai đoạn ban đầu cho đến sự giác         ngộ cuối cùng. Mặc dù đây là phương pháp chủ yếu cho         sự tu tập riêng của ngài, nhưng lúc nào ngài cũng thiên về         những điều này hơn để hướng dẫn theo một lối tu tập         rất cởi mở, sử dụng pháp thiền như là một phương tiện         để tiếp cận mỗi sinh hoạt trong đời sống. Ngài là bậc         thầy chung cho tất cả. Người nhấn mạnh rằng trái tim hay         chân lý của các tôn giáo thì giống nhau, tự do vay mượn các         hình ảnh và các phương pháp của lời dạy từ tất cả các         truyền thống khác nhau. Nhờ đa pháp môn của ngài và những         lời dạy đơn giản cao quý, thiền sư Buddhadàsa đã trở nên         có một tiếng nói lãnh đạo ở Phật giáo Thái Lan, từ nghi         lễ đơn giản cho đến một sự hiểu biết là làm thế nào         cho sự an lạc phát sinh từ lòng không cố chấp.                
Ði vào chùa Suan Moke (vườn hoa giác         ngộ), ta sẽ bắt gặp một pháp môn thiền giống như cảm giác         an lạc và hài hòa với thiên nhiên. Suan Moke là một ngôi chùa         thiền dành cho một số chư ni và ba mươi đến năm mươi chư         tăng trú ngụ cùng với một trung tâm dành cho những du khách         cư sĩ. Từ đầu đến cuối, nó được bao bọc bởi một         vẻ đẹp hào phóng, có ao hồ tĩnh mịch và đất rừng của         miền Nam nước Thái, lăn mình theo đồi núi với những cốc         liêu rải rác khắp nơi. Thiền sư Achaan Buddhadàsa đã xây         dựng một "Viện Bảo tàng" lớn, viện này dành để         trưng bày Phật pháp nhờ nghệ thuật tranh ảnh và nghệ         thuật điêu khắc từ những nước Phật giáo khác nhau và cũng         như từ những tôn giáo khác nữa. Một số những tác phẩm         nghệ thuật nổi tiếng nhứt ở viện bảo tàng là do một người         phương Tây thực hiện, theo truyền thống của người Nhật         Bản và sau đó ông đã qua đời trong khi ông hành thiền trong         một hang động trên bờ biển của miền nam nước Thái. Người         ta tìm thấy trong những bức tường hang động và cuốn sổ         ghi chép của ngài, có nhiều bức tranh thanh tú và những lời         ghi chú nói lên niềm vui giải thoát.                
Ði đến sống với thiền sư Buddhadàsa,         người ta sẽ được tự do để thực tập nhiều pháp môn khác         nhau. Người ta có thể ngồi một mình và theo dõi hơi thở chánh         niệm đều đặn như là tu tập bình thường có tập trung,         hay học tập kinh điển dưới sự hướng dẫn của ngài.         Hầu hết chư tăng và chư ni sống ở Suan Moke tu tập một phương         pháp thiền trong khi làm việc ở những công trình khác nhau         xung quanh tu viện. Ðây là mục tiêu chính theo lời dạy của         thiền sư Buddhadàsa - phương pháp thiền tự nhiên - được         thực hiện qua những hoạt động hàng ngày. Mặc dù thiền sư         Buddhadàsa không phản đối những phương pháp thiền tích         cực do những vị thiền sư của Phật giáo nguyên thủy cổ xúy,         có thể dẫn đến tuệ giác và giác ngộ, ngài cảnh giác chúng         ta về những nguy hiểm của sự chấp thủ với bất cứ phương         pháp tu tập theo nghi thức nào hoặc bất cứ trạng thái đặc         biệt nào của tâm.                
Trong việc cổ xúy một phương pháp         phát huy tự nhiên của tuệ giác, ngài Buddhadàsa không tự cho         mình là một thiền sư, ngài hướng dẫn cho kẻ khác tu tập         như là một người bạn tốt, người đem lại một lối         sống thích hợp và một vài lời khuyên hay về một phương         pháp, giúp cho việc phát triển tự nhiên của tuệ giác. Một         phần lớn phương pháp tự nhiên của ngài là cổ vũ mọi người         thấy rõ bất cứ sự ham muốn nào đều dẫn đến sự đau         khổ. Thiền mang lại sự đoạn trừ tà kiến. Hơn thế nữa,         chúng ta sẽ nhận thấy được sự vô ích trong việc tìm         kiếm hạnh phúc cá nhân, trong một thế giới thường xuyên         thay đổi ở xung quanh chúng ta và nhận chân được sự an         lạc của tâm mà không cần phải nỗ lực tìm kiếm. Con đường         tự nhiên rộng mở này của giới, tâm thanh tịnh và hỉ xả         là phương pháp của ngài, giúp tiếp cận với giáo pháp. Nó         rất trong sáng, giản dị và không huyền hoặc, dẫn đến         sự an vui của trí tuệ và chấm dứt khổ đau.                
Ngài Buddhadàsa nói tiếng Anh rất         giỏi và có nhiều đệ tử người phương Tây theo học với         thiền sư. Ngài nhận được nhiều sự viếng thăm của du khách.         Ngài bao dung và độ lượng. Ðể tìm hiểu thêm về thiền sư         Buddhadàsa chúng ta có thể tìm đọc quyển "Con đường đến         chân lý" (Toward The Truth), một cuốn sách do Donald Swearer         biên soạn và nhà xuất bản Westminster Press phát hành.                
Phương pháp tự nhiên để phát huy Tuệ giác
do Thiền sư Achaan         Buddhadàsa giảng               
Trong         cuộc thảo luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu làm cách nào để         đi đến sự tập trung một cách tự nhiên và một mặt khác         nữa đạt được kết quả của sự tu tập có hệ thống.         Kết quả cuối cùng là sự giống nhau ở cả hai trường         hợp: tâm được tập trung và thích hợp để thực hiện sự         tỉnh tâm sâu sắc. Tuy nhiên có một điều chúng ta cần         phải lưu ý: sự tập trung cao độ thì cần thiết và thích         hợp cho việc tỉnh tâm và tuệ giác, trong lúc đó sự tập         trung đạt được từ một sự tu tập có hệ thống thì thường         thường quá độ, hơn là tu tập theo phương pháp tự nhiên. Hơn         thế nữa sự tập trung cao độ có thể dẫn đến một sự         thỏa mãn sai lầm. Trong khi tâm được tập trung quá mức nó         có thể xảy ra sự cảm nhận một thứ hạnh phúc giống như         trên và hành giả có thể bị dính mắc vào nó, hoặc tưởng         tượng nó là kết quả của con đường đạt được quả         vị Níp-bàn. Sựĩ tập trung xảy ra tự nhiên, thì vừa đủ         và thích hợp cho việc tỉnh tâm, không nguy hại, không gặp         phải những bất lợi thường xuyên xảy ra trong việc tu tập         bằng những phương pháp tu tích cực.                
Trong kinh điển, có vô số điều để         tham khảo giúp người ta đạt được những giai đoạn giác         ngộ một cách tự nhiên. Ðiều này đã thường xuyên xảy ra         trong thời Phật còn tại thế, nhưng nó cũng xảy ra với các         vị thầy khác sau này. Những người này không đi vào trong         rừng ngồi để tu tập, mà thực hành tập trung tinh tấn trên         những đề mục nào đó, hình thức này được mô tả trong         những lời hướng dẫn sau đây.                
Rõ ràng rằng khi năm vị đệ tử đầu         tiên của đức Phật nghe thời pháp về vô ngã hoặc hàng ngàn         vị đạo sĩ nghe bài pháp về lửa đã đạt đến sự giác         ngộ hoàn toàn mà không ai liên quan đến sự nỗ lực có         chuẩn bị. Trong những trường hợp này, sự thể nhập tuệ         giác sâu sắc đã diễn ra một cách hoàn toàn tự nhiên.         Những ví dụ điển hình này cho thấy rõ ràng rằng sự tập         trung tự nhiên thì có thể phát huy một cách tự nhiên trong lúc         một người cố tìm hiểu rõ ràng một vài vấn đề, và         tuệ giác có được hết sức sâu sắc và vững chải miễn là         nó được thiết lập kiên cố. Nó xảy ra một cách tự nhiên,         tự động, và giống như tâm được tập trung ngay khi chúng         ta sắp sửa làm bài toán. Giống như khi bắn súng, chúng ta         nhắm mục tiêu, tâm tự động tập trung và vững vàng. Ðây         là sự tập trung xảy ra một cách tự nhiên là thế đó. Thông         thường chúng ta theo dõi nó một cách cẩn trọng bởi vì nó         không xuất hiện một cách huyền hoặc, kỳ diệu hoặc kinh         hoàng. Nhưng qua sức mạnh của sự tập trung một cách tự         nhiên như thế này, trên thực tế, hầu hết mọi người chúng         ta có thể đạt được sự giải thoát. Chúng ta có thể đạt         được quả giải thoát, Níp-bàn, và sự giác ngộ hoàn toàn,         chỉ bằng những phương pháp tập trung tự nhiên.                
Tuy nhiên chúng ta đừng quá quan tâm         đến sự tập trung xảy ra một cách tự nhiên này. Nó là         một điều gì đó mà hầu hết chúng ta đã có sẳn hoặc phát         huy một cách dễ dàng. Chúng ta có thể sử dụng nó như hầu         hết những người xưa đã thành công trong việc đi đến giác         ngộ , trong lúc đó họ hoàn toàn không biết gì những kĩ         thuật tập trung hiện đại.                
Bây giờ chúng ta cần có một cái nhìn         về bản chất của những giai đoạn nhận thức của nội tâm         dẫn đến tuệ giác đầy đủ của "thân", đó là đi         vào năm uẩn. Giai đoạn đầu là hỉ lạc. Làm một vài điều         tốt nào đó, ngay cả việc bố thí (được xem là hình thức         cơ bản nhứt của việc tạo phước thiện),có thể là một         nguồn vui. Cao hơn nữa là giới hạnh, mang lại nguồn vui cao         quý hơn. Vượt xa hơn giới hạnh là niềm vui của định. Chúng         ta khám phá ra rằng có những sự thỏa thích kỳ diệu hơn,         đi liền theo với những giai đoạn thấp nhứt của sự tập         trung.               
Khi hỉ lạc được phát huy, nó có         một năng lực để dẫn đến sự an tịnh. Thông thường tâm         luôn luôn bị dao động, liên tục bị các ý tưởng khống         chế và những tình cảm bị lôi cuốn bởi những điều         quyến rũ bên ngoài. Nó thường dao động, không yên ổn. Nhưng         khi hỉ lạc trở nên vững chắc an lạc và kiên cố, sẽ liên         kết để gia tăng sự cân xứng. Khi người ta có một sự         quyết tâm hoàn toàn thì sẽ đạt được sự tập trung đầy         đủ. Tâm người ấy trở nên vắng lặng, vững chắc, dễ điều         khiển, dễ sử dụng, sáng sủa và thoải mái. Bây giờ nó         sẵn sàng sử dụng cho bất cứ mục đích hoặc ước muốn nào,         đặc biệt là cho việc loại trừ những phiền não.                
Sự phát sanh hỉ lạc và an tịnh này         không có được với người có tâm nghiêm khắc và lạnh lùng         như đá. Thân tâm phải bình thường, đặc biệt là tâm         phải an tịnh và thích nghi, vào việc suy niệm và tỉnh tâm.         Tâm phải hoàn toàn trong sạch, mát mẻ, tĩnh lặng và không         dao động. Nói một cách khác, nó phải phù hợp với công         việc, sẵn sàng để nhận biết. Ðây là mức độ cần được         đặt mục tiêu, đừng có tập trung quá độ chai cứng như tượng         đá, hoàn toàn thiếu đi sự nhận thức. Ngồi tập trung quá         độ như thế, người ấy không thể khám phá được bất         cứ điều gì. Một tâm tập trung quá độ không thể thực hành         được sự an tỉnh chút nào. Nó ở trong trạng thái không         nhận thức và không sử dụng để phát huy tuệ giác được.         Sự tập trung quá độ là một trở ngại lớn cho việc tu         tập thiền quán. Ðể tu tập cho tâm an tỉnh, trước tiên người         ta phải trở về ở những mức độ tập trung thấp nhứt;         rồi dần dần dùng năng lực của tâm để đạt đến sự         tập trung cao hơn. Thay vì tập trung quá mức, chúng ta nhắm vào         một tâm vững chắc và an tịnh, một người quen thuộc với         công việc như thế khi áp dụng vào việc tu tập thiền quán,         người ấy có được chánh kiến đối với tất cả chúng         sinh. Tuệ giác được phát huy như thế là một tuệ giác tự         nhiên, nó giống như những người đạt được tuệ giác         trong lúc ngồi nghe pháp của đức Phật. Nó dẫn đến ý tưởng         và sự tỉnh tâm chơn chánh, sự chơn chánh đó mang lại sự         hiểu biết. Và nó cũng không liên hệ đến những nghi thức         hoặc những điều kỳ lạ.                
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là         tuệ giác sẽ phát sanh ngay lập tức. Người ta không có thể         đạt được sự giác ngộ đầy đủ ngay lập tức. Tuệ đầu         tiên có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, nhưng tùy thuộc         cả sức mạnh tập trung và nó được áp dụng như thế nào.         Nhờ tập trung, nhận biết trong sáng, những gì tuệ giác phát         sinh hành giả kinh nghiệm qua khá ly kỳ, sâu sắc. Nếu tuệ         đã tu tập thì đó là chánh tuệ, nó phù hợp với kinh         nghiệm trực tiếp với thực tại, và khi thực hành sâu sắc         hơn nó sẽ tiến bộ nữa, chủ yếu là phát huy chánh kiến         về mọi hiện tượng. Dù là tuệ giác tu tập ở một mức         độ thấp, nhưng nó có thể hoán chuyển một người thành         bậc thánh ở giai đoạn thấp nhứt; hoặc là, nếu nó không         có khả năng làm như vậy, thì nó có khả năng xây dựng người         ấy có tâm hồn cao thượng, phẩm chất đạo đức tốt.         Nếu hoàn cảnh thuận lợi và các đặc tính thích đáng của         tâm đã được thiết lập đầy đủ, hành giả sẽ giác         ngộ hoàn toàn. Tất cả đều tùy thuộc vào những hoàn         cảnh. Tuy nhiên, xa hơn nữa, miễn là tâm có sự tập trung         tự nhiên, yếu tố này gọi là tuệ giác phát sanh và tương         ưng nhiều hay ít gần gũi với thực tại. Nếu chúng ta là         những hành giả biết lắng nghe, suy gẫm và học tập về         thế giới, thân và tâm, hoặc năm uẩn một cách thành thật,         thì hy vọng chúng ta sẽ hiểu rõ bản chất thật của chúng,         từ đó suy ra tuệ giác chúng ta đạt được trong trạng thái         an tịnh và tập trung sẽ không bị lầm lạc. Ðiều đó được         thừa nhận là luôn luôn có hữu ích.                
Sự biểu hiện "Tuệ giác vào         bản chất thật của các sự vật" liên quan với sự         nhận biết về vô thường, khổ não, vô ngã, thấy rằng không         có cái gì trên đời này xứng đáng và tồn tại lâu dài,         nhận biết rằng không có bất cứ sự vật gì mà người ta         phải dính mắc và cố chấp vào như là một bản ngã hay là         thuộc về cái tôi hay là thiện ác, hấp dẫn hay ghê sợ. Thích         hoặc không thích bất cứ điều gì, thậm chí nó chỉ là         một ý tưởng hay một nỗi nhớ, là một điều dính mắc. Ðể         nói rằng chẳng có cái gì đáng giá cả hoặc hiện hữu cũng         giống như người ta nói rằng chẳng có cái gì để chấp         thủ cả. "Sở hữu" đề cập đến tài sản địa         vị, giàu sang hoặc bất cứ điều gì mà con người thỏa thích.         "Hiện hữu" đề cập đến sự chấp thủ về nhận         thức bản ngã của con người, dính mắc vào chỗ tình trạng         vợ chồng, giàu nghèo, được thua hoặc con người, hoặc         thậâm chí bản ngã hiện hữu. Nếu ta nhìn sâu sắc về sự         việc này, thậm chí ngay cả bản thân thì chẳng có gì vui         vẻ, mà chỉ là một điều buồn chán, bởi vì khi muốn đạt         được cái gì đó chính là nguyên nhân của đau khổ.                
Nếu một người hoàn toàn có thể         từ bỏ mọi chấp thủ về ý niệm bản thân, bất cứ bản         ngã nào, thì người ấy sẽ không còn đau khổ nữa. Ðây là         điều để nhận biết rằng hiện hữu chẳng có gì đáng giá         cả và thực chất của lời nói đó là chẳng có gì tồn         tại, chẳng có gì quan trọng, bị trói buộc là điều đau         khổ ở một khía cạnh nào đó phù hợp với tình trạng         hiện hữu đó. Khi còn tồn tại bản ngã, thì có nhiều điều         bị trói buộc hơn chính bản ngã nữa và người ta phải         phụ thuộc vào nó. Như vậy khi một người có con, có vợ, có         cái này, cái nọ và những thứ khác. Rồi người ấy phải có         bổn phận làm chồng hoặc làm vợ, chủ hoặc tớ và . . .không         có những tình trạng hiện hữu như thế để bảo vệ thì         sẽ không có sự dấn thân tranh đấu. Sự phiền toái và đấu         tranh để duy trì sự sống chỉ là kết quả của sự mù quáng         với những điều trên.                
Nếu chúng ta buông xuôi mọi việc,         thì làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục tồn tại? Ðây là         nguyên nhân chính bị trói buộc bởi chủ nghĩa hoài nghi cho         bất cứ ai không có suy nghĩ vấn đề sâu sắc. Những từ         ''sở hưũ'' và ''hiện hữu'' được dựa trên tâm phiền não,         ái dục, ý tưởng về ''sự việc xứng đáng sống'', ''xứng         đáng sở hữu'', khơi gợi tâm để ''ham muốn'' và ''hiện hưũ''         trong sự thành đạt thật sự trong tương lai. Ðiều này bị         trói buộc để dẫn đến sự buồn bã, lo âu, chán nản,         bực bội hoặc ít nhứt dẫn đến sự lo nghĩ trong tâm.         Biết được chân lí này, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác,         theo dõi tâm để biết rằng nó không làm nô lệ cho ''sở         hữu và hiện hữu'' do bởi ảnh hưởng của sự chấp thủ.         Chúng ta phải đủ thông minh để tránh xa những ảnh hưởng         bất thiện này.                 
Tuy vậy, nếu chúng ta chưa có lập         trường để từ bỏ hoàn toàn ý tưởng hiện hữu, chúng ta         phải chánh niệm và tỉnh giác, để khi chúng ta đạt được         điều gì khi chúng ta từ bỏ nó mà không bị dính mắc, và         không bị khó chịu.                
Con người và vạn vật luôn có đặc         tính vô thường, khổ não, vô ngã. Bất cứ ai khi bị dính         mắc vào bất cứ điều gì sẽ bị điều đó làm đau đớn         - ngay lúc ban đầu khi người đó ham muốn đạt được nó         hoặc thành tựu nó. Trong quá trình muốn đạt được điều         mơ ước hoặc muốn thành tựu điều mơ ước, và sau đó người         ấy đạt được điều mơ ước hoặc thành tựu ước         nguyện. Tất cả mọi lúc, trước đó, trong khi và sau đó         nếu ai bị dính mắc, người ấy sẽ bị sự dính mắc này         trói buộc như sợi dây xích và nhận lấy vô số khổ đau,         những gì anh ta dính mắc sẽ đưa đến cái chết. Thậm chí         điều đó giống như việc thiện, mà mọi người đánh giá         cao về nó. Nếu bất cứ ai làm điều thiện mà còn dính         mắc và chấp thủ, người ấy sẽ nhận nhiều đau khổ như         là anh ta làm điều xấu. Khi làm điều tốt, chúng ta phải         ghi nhớ điều này trong tâm và hãy cẩn thận để thực         hiện ngay cả những hành động tốt để không bị dính mắc         vào.               
Một người theo chủ nghĩa hoài nghi         có thể hỏi: "Nếu không có gì xứng đáng để đạt         được thì có ai muốn làm hoặc xây dựng sự giàu sang, địa         vị và tài sản". Bất cứ ai hiểu biết được điều này,         đều nhận thấy rằng một người có chánh kiến và trí         tuệ, thì hiển nhiên có một lập trường tốt đẹp hơn để         thực hiện những công việc cần được làm trong thế giới         này hơn là những người ngu si và thiếu hiểu biết chỉ ham         muốn những tham vọng tầm thường. Chúng ta hẳn nhiên phải         làm việc và hoạt động trong thế giới này, nhưng để         khỏi dính mắc vào những vấn đề như vậy chúng ta phải         thực hiện công việc hết sức chánh niệm, những hành động         chúng ta không bị kích động bởi tham dục. Và rồi chúng ta         có thể để kết quả công việc của chúng ta được trôi         chảy ra khỏi thế giới nội tâm một cách tự nhiên và thanh         thản. Ðức Phật và các vị đại đệ tử đã hoàn toàn thoát         khỏi sự ham muốn, tuy vậy vẫn tiếp tục làm nhiều công         việc hữu ích hơn bất cứ ai trong chúng ta. Nếu chúng ta xem         kỷ những công việc mà đức Phật đã làm một ngày như         thế nào, chúng ta nhận thấy rằng ngài chỉ ngủ bốn giờ và         dành toàn bộ thời gian còn lại cho công việc. Chúng ta dành         nhiều hơn bốn giờ trong một ngày chỉ để vui chơi.                
Nếu những phiền não vì tham dục         cần phải đoạn trừ hoàn toàn thì những sức mạnh nào đã         thúc đẩy đức Phật và các đệ tử của ngài? Chính trí         tuệ đi cùng với lòng từ bi. Thậm chí những hành động         dựa trên những bản chất tham muốn tự nhiên chẳng hạn như         nhận và ăn những thức ăn để bát, đã được thực hiện         bởi trí tuệ. Chư vị thoát khỏi phiền não, ham muốn để         tiếp tục sống để đạt được điều này hoặc điều         nọ; nhưng chư vị có khả năng để phân biệt giữa những gì         xứng đáng và những gì không xứng đáng là động lực thúc         đẩy thân chư vị đi ra ngoài tìm thực phẩm? Nếu chư vị tìm         thấy thực phẩm, thì tốt thôi, còn nếu không thì chẳng         bận tâm. Khi chư vị bị cơn sốt hành hạ, chư vị biết cách         chế ngự nó và việc làm như thế cũng có thể dựa trên căn         bản sự hiểu biết này. Nhưng nếu cơn sốt quá mạnh, chư         vị nghĩ rằng chết là một điều tự nhiên và lúc đó thân         không còn kiểm soát được. Dù chết hoặc sống điều đó         không quan trọng với họ. Trong cách nhìn của họ hai sự         kiện này đều có giá trị tương đương. Chư vị không còn         ham muốn nữa.                
Nếu một người hoàn toàn thoát         khỏi đau khổ, đây là quan điểm tốt nhứt mà họ đã đạt         được. Không cần có suy nghĩ gì về bản ngã là người         chủ của bản thân; chỉ có trí tuệ mới có thể giúp thân         xác tiếp tục nhiệm vụ theo sức mạnh tự nhiên của nó. Chính         trí tuệ này đã giúp cho thân và tâm được thanh thản để         tiếp tục nhận thấy rõ mà không bị dính mắc hoặc ham         muốn. Hình tượng của đức Phật cho thấy rằng sức mạnh         của trí tuệ trong sạch và thiện ý sẽ đủ để tiếp tục         làm một người thoát khỏi ham muốn sống trong thế giới và         làm được những điều tốt đẹp hơn những người vẫn còn         lòng ham muốn. Những người bất thiện thì làm những gì có         lợi cho họ bởi vì họ hành động theo sự ích kỷ. Ngược         lại hành động của những vị giác ngộ thì hoàn toàn vô tư         và thật trong sạch.                
Khi một người phàm tục nghe rằng,         chẳng có gì xứng đáng để đạt được hoặc thành tựu,         nếu người ấy không được thuyết phục thì người ấy         sẽ không tin. Nhưng khi một người hiểu đúng ý nghĩa của câu         nói người ấy, sẽ cổ vũ và tin theo. Tâm người ấy làm         chủ các vấn đề và không bị chúng ràng buộc. Người ấy         có khả năng thực hiện bất cứ công việc nào một cách         chắc chắn bằng sự hiểu biết rằng anh ta không làm nô lệ         cho nó. Lý do một người thường không thực hiện công việc         của mình một cách hoàn hảo, đó là anh ta luôn luôn quá quan         tâm để đạt một điều gì, và thành tựu được cái gì,         những vấn đề này luôn luôn bị thúc đẩy bởi lòng ham         muốn của anh ta. Do vậy anh ta không làm chủ được bản thân,         và không thể tốt hoàn toàn, trung thực và công bằng. Trong         mọi trường hợp bị thất bại hoặc đổ vỡ, nguyên nhân         chính là sự nô lệ.                
Ðể đi đến sự hiểu biết bản         chất thực sự của vạn vật là mục đích chân chánh của         người Phật tử. Ðây là phương tiện giúp chúng ta có thể         tự giải thoát. Chúng ta không đặt hy vọng về những lợi         ích tầm thường giàu có, địa vị và danh tiếng - hoặc         lợi ích cho kiếp sau chẳng hạn như cõi trời hoặc lợi ích         Níp-bàn - đạo quả giải thoát - điều duy nhứt để đạt         được nó là chánh kiến và tuệ giác. Chúng ta nỗ lực tu         tập thiền quán. Ở một số sách khác, người ta nói rằng         chúng ta chỉ thanh lọc tâm qua phương pháp thiền quán ngoài         ra không còn có phương pháp nào khác. Con đường đi đến         giải thoát của ta nằm trong thiền quán, nhận thức rõ ràng,         chẳng có điều gì có giá trị trong thế giới này. Chúng ta         có mọi thứ và những thứ đó chỉ là những tên gọi tầm         thường, tục đế. Thông thường chúng ta nói mình là thế này,         thế nọ hoặc như vầy, bởi vì trong bất cứ xã hội nào,         đó là điều thiết thực để chứng minh danh tánh và nghề         nghiệp. Nhưng chúng ta đừng tin rằng chúng ta thực sự thế         này thế nọ; nó được gán vào theo mức độ tục đế. Làm         như vậy là cư xử giống như con dế, khi mặt chúng phủ đầy         bụi, mất phương hướng và rối trí, đá lẫn nhau cho đến         khi chết.                
Chúng ta là con người khi mặt chúng         ta phủ đầy bụi, khi chúng ta chỉ hướng đến những điều         ham muốn và si mê, trở nên hoang mang và mất phương hướng,         đến nỗi chúng ta hành động khác đi, đối với những gì         chúng ta muốn. Vì vậy chúng ta đừng chấp thủ mù quáng         với tục đế vì đó là điều cơ bản cho một sự giao         dịch trong một xã hội chứ không là gì cả. Chúng ta phải         nhận biết thân tâm thực sự là gì, bản chất thực sự là         gì. Ðặc biệt chúng ta nhận thức về sự vô thường, khổ         não, vô ngã của nó, và chúng ta phải luôn luôn chắc rằng mình         không chấp thủ vào nó.                
Ðối với sự giàu sang, địa vị và         v. v. .mà chúng ta cảm thấy không thể làm thì không được,         vậy chúng ta hãy xem nó như là điều tục đế để chúng ta         thoát khỏi những lời nói tầm thường, "Cái này là như         thế này. Cái này là như thế kia". Luật pháp sẽ bảo đảm         quyền sở hữu của chúng ta; chúng ta không cần phải dính         mắc vào ý tưởng của "tôi". Chúng ta phải có mọi         thứ một cách trong sạch và giản dị vì sự tiện nghi và         thoải mái, chúng ta có thể làm chủ tâm của mình. Khi chúng         ta có sự hiểu biết rõ ràng này, mọi vật sẽ là những người         phục vụ và những người nô lệ cho chúng ta và chúng ta sử         dụng nó hơn là nó sử dụng chúng ta. Nếu tư tưởng của chúng         ta theo con đường chấp thủ, chúng ta sẽ mang ý tưởng có cái         này có cái kia, bám víu sâu xa vào những ý tưởng này, thì         vật chất sẽ sai sử ta. Chúng ta dành quảng đời của ta để         cố gắng đạt được những thứ đó và lo sợ việc mất mát         tư hữu, danh vọng, giàu sang hoặc bất cứ điều gì, và chúng         ta sẽ làm đầy tớ và nô lệ cho chúng, dưới sự kiểm soát         của chúng. Cái bàn có thể dời đổi theo cách này hoặc cách         khác, nhưng chúng ta phải cẩn thận. Chúng ta phải sắp xếp         mọi việc có phương pháp để chúng ta tin chắc là giữ được         sự thanh thản trong mọi công việc. Nếu không giữ được         sự thanh thản chúng ta sẽ có một cuộc sống không giá trị         khi đó những gì mà chúng ta bị dính mắc sẽ dẫn đến cái         chết, bởi vì mọi sự việc đều phải như vậy.                
Khi mà chúng ta nhận thức rõ rằng         không có cái gì đáng để đạt được hay thành tựu, sự         thoát ly tốt đẹp với thế gian phát huy cân xứng bằng sức         mạnh của tuệ giác. Ðây là dấu hiệu mà sự dính mắc         trở nên mờ nhạt và đang bắt đầu buông bỏ. Nó là dấu         hiệu mà chúng ta đã bị nô lệ quá lâu đến nỗi sau cùng         chúng ta có ý định muốn trốn thoát. Sự không mê muội và         sự cảnh tỉnh này xuất hiện khi người ta trở nên chán chường         với những sự ngu xuẩn trong sự tham đắm và dính mắc đối         với mọi hiện tượng. Ngay khi sự cảnh tỉnh đã bắt đầu,         có sự ràng buộc xảy ra theo một tiến trình thoát khỏi tự         nhiên, dường như sợi dây thừng mà người ta bị trói buộc         nay được mở ra; việc giặt rửa, khi thuốc nhuộm được         pha vào trong quần áo người ta giặt bằng thuốc nhuộm đó         trong tính chất chiếm hữu. Do đó tiến trình dính mắc này         loại trừ dẫn đến sự thoát ly, hoặc là xả bỏ thân xác,         hay từ đối tượng dính mắc đó được đức Phật dạy là         "giải thoát". Tiến trình này quan trọng nhất. Mặc dù         không phải là giai đoạn cuối, nhưng nó là bước quan trọng         nhứt hướng đến sự giác ngộ hoàn toàn, giải thoát hoàn         toàn đau khổ. Ðiều này được người ta tin chắc là vậy.                
Một khi không còn chấp hình sắc tình         cảm và ý tưởng, người ta không còn nô lệ cho thân xác này         nữa. Hành giả trở nên thanh tịnh và trong sạch mà trước         kia hành giả bị ô nhiễm bởi tham, sân, si. Thoát khỏi sự nô         lệ để có được thân an lạc không còn sự dính mắc thì hành         giả đạt đến an vui và tự tại. Sự thanh tịnh thật sự này         một khi đạt được sẽ phát sinh niềm vui và hạnh phúc         thật sự giải thoát tất cả tâm trạo cử, xung đột và đau         khổ. Trạng thái giải thoát khỏi sự áp bức và tâm trạo         cử này được đức Phật gọi là "an lạc tâm". Nó         là sự trầm lặng, mát mẻ trong mọi hoàn cảnh, một phương         pháp thực nghiệm, một loại Níp-bàn ngay trong kiếp sống này.                
Níp-bàn đã được dịch là         "vắng lặng các phiền não". Nói cách khác, nó có nghĩa         "dập tắt không còn dư sót". Vì thế cho nên danh từ         Níp-bàn có hai nghĩa rất quan trọng: thứ nhất là vắng         lặng và thiêu đốt nguồn gốc đau khổ, giải thoát các         khổ cảnh và sự áp bức; thứ hai là dập tắt, không còn phát         sanh đau khổ thêm nữa. Kết hợp hai ý nghĩa nầy ám chỉ Níp-bàn         là sự giác ngộ hoàn toàn. Níp-bàn có nhiều ý nghĩa hữu ích         khác nhau. Nó có thể là dập tắt đau khổ, đoạn trừ         phiền não hoàn toàn, hay là trạng thái an lạc, là chấm dứt         mọi đau khổ, mọi phiền não, và mọi hành vi nghiệp báo.                
Tuy nhiên danh từ Níp-bàn được sử         dụng theo nhiều trường phái khác nhau, tri giác và học hiểu         danh từ Níp-bàn hoàn toàn không giống nhau. Một số cho rằng         Níp-bàn có nghĩa đơn thuần là thanh tịnh và mát mẻ, bởi vì         họ nhận ra Níp-bàn tâm định uyên thâm. Thậm chí một số         khác cho rằng Níp-bàn là an chỉ định hoàn toàn trong khoái         lạc.               
Ðức Phật định nghĩa Níp-bàn đơn         thuần là sự giác ngộ khỏi ác đạo, khổ ách và đau đớn         mà những kết quả có được từ sự nhận biết bản chất         thực của pháp thế gian và tất cả mọi sự vật, và như         vậy thì có thể thoát khỏi mọi sự chấp thủ. Cần thiết         để chúng ta hiểu được giá trị tuệ giác rất là to tát         trong bản chất thật của các sự vật, và bằng cách này hay         cách khác, hãy cố gắng tu tập tuệ giác này. Ðơn thuần         sử dụng một phương pháp, chúng ta phát huy tuệ giác để nó         tự xuất hiện một cách tự nhiên, bằng sự tu tập ngày và         đêm có được phỉ lạc là nhờ tâm thanh tịnh, chúng ta         niệm cho đến khi có những đặc tính dần dần xuất hiện.         Phương pháp khác nữa gồm có sức mạnh tâm tu tập bằng cách         theo dõi một hệ thống tổ chức thực hành chỉ quán. Phương         pháp sau này thích hợp người có khuynh hướng vững chắc, và         nếu điều kiện thuận lợi, một số người sẽ tiến bộ         nhanh. Tuy nhiên chúng ta có thể thực tập phát huy tuệ giác         bằng phương pháp tự nhiên trong mọi hoàn cảnh và mọi         thời gian - bằng cách thực hiện lối sống hàng ngày của chúng         ta cho trong sáng và thành thật, ở đó phát sanh tâm an lạc,         tuệ giác soi thấu được bản chất thực của vạn vật, giúp         chúng ta tỉnh thức, thanh tịnh và thoát ly mọi phiền não         cấu uế và sau đó là an lạc Níp-bàn, tịch lặng. Trong giai         đoạn sự đau khổ sẽ giảm dần mỗi một ngày qua, chúng ta         nếm được hương vị giải thoát hầu như hoàn toàn.                
Tóm lại con đường của tuệ giác và         thanh tịnh tự nhiên, nhờ thực hiện lời dạy giác ngộ là         không có gì đáng giá để đạt được cả, nên chúng ta         hiểu được làm thế nào một người có thể đạt đến Níp-bàn         và sự giác ngộ. Bất cứ ai muốn cảm nhận được sự giác         ngộ phải cố gắng để tự mình thanh tịnh và tu tập         những đặc tính cá nhân cho tốt đẹp. Từ những thanh tịnh         này hành giả sẽ thấy được nguồn phỉ lạc của chính mình         trong lúc tu tập cũng như trong lúc thư nhàn. Ngay nguồn phỉ         lạc này sản sinh sự trong sáng, mát mẻ, tâm an lạc và tĩnh         lặng một cách tự nhiên, tâm thức có khả năng quán xét.         Bằng cách tự xem xét lại nội tâm này nên phát sinh tuệ giác.         Thật vậy, chính tuệ giác đó nhận biết không có gì đáng         để đạt được hay tồn tại và tâm thức thì không còn         tham đắm vào mọi thứ mà một thời nó đã từng dính mắc         và tham đắm. Tâm thức có thể thảnh thơi mọi thứ trước         đây nó từng dính mắc vào bản ngã và cái tôi, và tất cả         lòng tham muốn ái dục không còn nữa. Ðau khổ (không còn nơi         nào trú cả) biến mất, và nhiệm vụ về diệt khổ đã được         hoàn thành. Ðây là kết quả mà ai cũng có thể đạt đuợc         trong một phương pháp tự nhiên. Nội tâm an lạc này không có         gì sánh bằng, vượt trội hơn sự cảm nhận bất cứ kinh         nghiệm nào hay đối tượng như tôi hay bản ngã, đó là đỉnh         cao của con đường thanh tịnh, giải thoát thật sự của đức         Phật.               
Ðể hoàn tất cuộc thảo luận về         tu tập tuệ quán, ở nơi đây chúng ta cũng phải chú ý đến         những hệ thống tổ chức về tu tập tuệ giác mà Ðức         phật không giảng dạy nhưng được tu tập do bởi những vị         tổ sư sau này. Loại tu tập này thích hợp cho người ở giai         đoạn sơ cơ, vẫn hiên ngang không chấp nhận đau khổ trong         cuộc sống trần tục. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là         những kết quả đạt được do những hệ thống này không có         giá trị đặc biệt như đã đạt được bằng phương pháp         tự nhiên; bởi vì khi chúng ta chiêm nghiệm kinh điển sâu         sắc, chúng ta nhận biết phương pháp tự nhiên chỉ là một         điều được đề cập đến. Một số người nói, thật là         khó để hiểu được phương pháp tự nhiên hay tin rằng phương         pháp tự nhiên có thể được tu tập chỉ một người nào đó,         người đó đã trở thành đạo đức gương mẫu khá tốt hay         đã có túc duyên. Ðối với người không có những nết         hạnh cao và tánh tình hay cố chấp. Các thiền sư dạy họ tu         tập phương pháp theo thứ tự, mở những khóa tu ngắn hạn         bắt đầu từ những sự khó khăn (như ngứa, đau. . .) và         thiền sư thường xuyên theo dõiđể hướng dẫn họ.                
Tu tập theo phương pháp để phát huy         tuệ giác, thuật ngữ chuyên môn gọi là thiền quán (Vipassàna).         Thiền quán hay tuệ giác thì tương phản với pháp học; ngày         nay cả hai được xem là những đường hướng tu tập bổ         sung. Thiền quán là pháp học được người ta tu tập để         luyện tâm cho nghiêm nhặt. Không có gì học trong sách vở         cả. Không có pháp học mà cũng không có pháp hành được đề         cập trực tiếp trong kinh điển, cả hai chỉ xuất hiện trong         những kinh điển sau này; tuy nhiên thiền quán là một pháp môn         thực hành chủ yếu của Phật giáo, thiết lập cho con người         với mục đích đoạn trừ đau khổ. Nó được dựa trên         nền tảng vững chắc nội tâm an tịnh. Ðể giải thích         thiền quán cho mọi người, các vị thiền sư thời xưa ra         những câu hỏi sau đây:                
-         Nền tảng của thiền quán là gì?                
-         Những đặc tính nào mà chúng ta biết đó là thiền quán?                
-         Hoạt động nào thì được gọi là thiền quán?                
-         Kết quả cuối cùng của thiền quán là gì?                
Khi được hỏi nền tảng của         thiền quán là gì? Chúng tôi trả lời giới và định. Thiền         quán có nghĩa là "tuệ giác trong sáng", và ám chỉ         tri kiến mà có thể phát sanh khi tâm của một người đầy         ắp nguồn phỉ lạc và không có bất cứ phiền não nào.         Phỉ lạc phát triển là khi có giới thanh tịnh; giới là điều         kiện quyết định trước hết. Ðiều này được dạy trong         kinh điển của đức Phật, nơi nào người ta thực hành thì         được xem là đang tiếp tục trong một chuỗi giai đoạn mà         được gọi là thất tịnh, và đạt đến quả vị Níp-bàn.         Những vị thiền sư xem sự thành đạt của giới thanh tịnh         như là điều đầu tiên của thất tịnh.                
Lúc nào giới được viên mãn, thân         an tịnh thì lúc đó hành động và lời nói được thanh         tịnh, kết quả sẽ là tâm an tịnh, dẫn đến những giai đoạn         thanh tịnh xa hơn; thoát khỏi sai lầm, thoát khỏi hoài nghi,         trí tuệ để nhận biết con đường nên đi và con đường không         nên đi, trí tuệ và tri kiến phát triển theo đạo lộ và         cuối cùng là tuệ giác hiểu biết hoàn toàn. Năm giai đoạn         cuối cùng này thiết lập thiền quán đúng mức. Ðơn thuần         hành vi và tâm thanh tịnh là đường lối đi vào thiền quán.                
Hiện nay nhiều vị thiền sư dạy         thiền quán bằng cách tu tập có tổ chức. Trước tiên,         những sự thực hành bao gồm những bài tập định tâm như         chánh niệm về hơi thở theo dõi bằng thiền quán hay thực hành         tuệ giác, hoặc là một số hệ thống thiền chính thức         bắt đầu luyện tập tuệ giác ngay từ đầu. Tiếp tục theo         đuổi việc luyện tập có tổ chức, thông thường hành giả         đi đến những khóa tu đặc biệt hay cách ly một thời gian.         Trong suốt khóa tu, hành giả sẽ không làm gì cả ngoại trừ         thực hành thiền tích cực, cố gắng để phát huy đầy đủ         chánh định và chánh niệm để quân bình tâm và sẽ cảm         nhận được sự xuất thế, giải thoát Níp-bàn. Dù hành         giả có thực hành trong một khung cảnh cách ly nghiêm ngặt         hay là thực hành phương pháp tự nhiên, cuối cùng hành giả         phải đi đến sự thích nghi tự nhiên của thiền quán và chánh         niệm trong đời sống hàng ngày. Thật ra người trí không có         suy nghĩ đến quá khứ và vị lai, vị ấy thấy rằng sự giác         ngộ tùy thuộc vào trí tuệ không có cái gì đạt được mà         cũng không có cái gì mất cả, không có cái gì thành tựu mà         cũng không có cái gì tồn tại. Ước mong trí tuệ này sẽ là         nhân đạt đến chân hạnh phúc và giác ngộ cho tất cả chúng         sinh. 
Mời các huynh đệ tìm đọc nhũng bài pháp của vị Thiền sư này. Rất dể hiểu, dể hành cho người đủ duyên. Có thể bắt đầu với bài "Hai thứ ngôn ngữ: nói thường và nói pháp", rất quan trọng để hiểu dể dàng giáo lý nhà Phật.
Trả lờiXóa