Chiến tranh càng ngày càng trở nên ác liệt, tất cả những đau khổ lớn    nhất của nhân loại đã xảy ra tại quê hương  của chúng ta, và hôm nay,    giữa lòng đau đớn khôn cùng của đất nước, đấng Thế Tôn lại ra đời, như    một vì sao Mai vụt hiện trên vùng tối đen của mặt đất thê lương này.
         Đấng Thế Tôn không phải chỉ ra đời cách đây mấy ngàn năm vào một thời    gian ấn định, vào một địa điểm xác định nào đó. Không, Đấng Thế Tôn ra    đời mỗi ngày và mỗi giây phút trong đời sống chúng ta: chúng ta là những    kẻ đồng thời với Ngài, ra đời với Ngài, đau đớn với Ngài, sống với Ngài,    lên đường với Ngài và cùng đi về với Ngài trên con đường giải thoát, con    đường của vì sao Mai tuyệt đối, hình ảnh bất diệt của Chân Như: đó cũng    là dấu hiệu của Pháp thân bất sinh bất diệt giữa sự phân thân bi thảm    trầm trọng của quê hương chúng ta.
         Giữa cơn biến động tàn khốc của đất nước hiện nay, mỗi người đều cảm    thấy rằng mình phải lên tiếng, vì không lên tiếng là có tội lớn với hồn    thiêng của quê cha đất tổ; người nào cũng thấy rằng mình phải nói đến    Hoà Bình và Dân Tộc, nói đến Tôn Giáo và Dân Tột, nói đến Trách Nhiệm và    Dân Tộc.
      Tất    cả sự lên tiếng đều đáng tôn kính, tất cả những danh từ cao đẹp đều đáng    tôn quí, nhưng thật sự thì đằng sau sự lên tiếng ấy, đằng sau những danh    từ cao đẹp ấy chúng ta sẽ thấy được những gì?
      Tất    cả lời nói đều trở nên vô nghĩa. Bất cứ người nào đi giữa đường cũng có    thể lên tiếng và cũng có thể dùng những danh từ cao đẹp…Ai cũng có thể    nói được và dùng được những danh từ chìa khoá của thời thượng, những    danh từ gợi cảm đầy dân tộc tính và nhân loại tính, nhưng tiếng súng đại    bác và tiếng phản lực cơ vẫn ồn ào ấm ĩ và lấn át hết tất cả những khẩu    hiệu cao đẹp trên đời này.
         Chiến tranh càng ngày càng lan rộng, không phải vì thiếu người tranh đấu    cho hoà bình… mà bởi vì đã có quá nhiều người tranh đấu cho hoà bình;    chúng tôi nói đến hoà bình, các ngày nói đến hoà bình; Phật giáo nói đến    hoà bình, các tôn giáo khác đều nói đến hoà bình: Mỹ, Pháp, Anh, Tàu,    Nga, Bắc Việt và Nam Việt đều nói đến hoà bình; tất cả chúng ta đều ca    tụng hoà bình, mà đau đớn biết bao là càng nói nhiều đến hoà bình thì    máu lựa ở Việt Nam càng trở nên ác liệt thảm khốc hơn nữa.
      Nói    như thế, không phải chúng tôi đề nghị chúng ta hãy nói nhiều đến chiến    tranh hay là chúng ta hãy chấp nhận chiến tranh. Không phải thế. Không    ai lại có thể tàn nhẫn lãnh đạm thờ ơ như vậy và chúng tôi cũng không    thể nào có thái độ ngây thơ như vậy.
         Chúng tôi chỉ muốn lễ độ báo nguy với tất cả rằng không phải chỉ lên    tiếng, không phải chỉ dùng những khẩu hiệu tình cảm là đủ; không    phải chỉ suốt ngày suốt đêm chạy Đông cầu Tây để hô hào bênh vực cho hoà    bình là đủ; không phải chỉ nói đến tình thương là có tình thương, không    phải chỉ nói đến Đạo Pháp và Dân Tộc là cứu nguy quê hương và Tôn Giáo,    không phải chỉ nói về hoà bình là đem hoà bình về cho quê hương.
      Khi    nói như trên, chúng tôi cũng không phải ngây thơ đến nỗi đề nghị với các    ngài là đừng lên tiếng và chỉ giữ im lặng thụ động. Không phải thế.
         Chúng tôi chỉ muốn lễ độ báo nguy với tất cả chúng ta rằng    không phải lời nói là quan trọng, không phải im lặng là    quan trọng, mà cũng không phải hành động là quan trọng, mà không phải vô    vi thụ động là quan trọng.
      Chỉ    có một điều duy nhất quan trọng, chỉ một điều quan trọng tối thượng là   mỗi người phải dám nhìn thẳng vào bộ mặt thực của chính mình, tự    hỏi rằng mình có lường gạt mình bằng những đường lối tinh vi; mỗi người    phải tự hỏi rằng mình có thực sự tự do trong tư tưởng; mỗi người phải tự    hỏi rằng mình có thực sự giải phóng khỏi tất cả sự sợ hãi trong ý thức    và vô thức; mỗi người phải tự hỏi rằng mình có thực sự tiêu trừ hết mọi    tham vọng, dù là tham vọng tâm linh; có thực sự tiêu trừ hết mọi đố kỵ,    thù hận; có thực sự tiêu trừ hết mọi sự triển khai bản ngã dưới mọi hình    thức bằng cách lấp đầy sự trống rỗng của bản ngã bằng những ý niệm cao    đẹp, bằng những khẩu hiệu mà ai cũng muốn dùng trên lưỡi và môi như là    dân tộc, hoà bình, bác ái, từ bi, trách nhiệm vân vân?
      Mỗi    người đều chịu trách nhiệm cuộc phân hoá của quê hương hiện nay, mỗi    người đều có tội, mỗi người đều đồng loã với sự tương tàn huynh đệ, máu    đổ, nhà tan. Tất cả chúng ta đều đồng loã với cuộc chiến tranh này, dù    tham chiến hay không tham chiến. Chúng ta đồng loã bằng cuộc sống nông    cạn, bằng tình cảm yếu đuối, bằng thành kiến cố định, bằng sự bảo vệ bản    ngã, bằng lý tưởng giả đạo đức, nhất là bằng tất cả sự sợ hãi, dưới đủ    mọi hình thức.
      Sợ    hãi là cơn bệnh nặng nề nhất trong mỗi người; sợ hãi là mầm mống của tất    cả mọi cuộc chiến tranh; vì sợ hãi nên phải lên tiếng, vì sợ hãi, nên    phải im lặng; vì sợ hãi nên phải thụ động, trống trong tháp ngà.
       Vô    uý là một trong những đức tính quan trọng mà đấng Thế Tôn đã dạy cho    chúng ta. Đó là con đường của tất cả Bồ Tát. Hoá Thân của Đức Di Lặc sẽ    mang đủ đức tính của Bất Không Thành Tựu Như Lai. Đó chính là tư thái    thản nhiên của Ngài được thể hiện trong Vô Uý Ấn (abhaya mudrà).
      Tất    cả những gì xảy đến trong ta đều xuất phát từ trong ta, từ trong bản thể    sâu kín của ta. Không có gì có thể hại ta được, chỉ trừ ta đã chứa    sẵn mầm mống phá hại ấy trong ta; vậy thì không thể nào sợ hãi bất    cứ cái gì xảy ra trong đời này, bạo quyền, bất công, độc tài, chiến    tranh, tai hoạ chỉ xuất hiện khi chúng ta đã chứa sẵn mầm mống trong tự    thân và tự thể. Chiến tranh và bạo quyền là thể hiện bên ngoài của những    gì ta chứa đựng, tiềm tàng trong sâu kín tâm hồn. Vô Uý Ấn là tư thái    của một người thản nhiên mỉm cười nhìn thẳng vào tất cả sự khủng khiếp    rùng rợn trong đời mà không sợ hãi, vì ý thức rằng không có gì có thể    xảy đến cho mình được, chỉ trừ khi mình đã đồng loã với nó, nuôi    dưỡng nó thầm kín trong tâm tư mình.
         Cách đây một tuần, chúng tôi có mời một vị giáo sư người Đức lên giảng    đường Đại Học Vạn Hạnh để diễn thuyết về Heidegger và sự khủng hoảng    của siêu hình học. Lời mời của chúng tôi mang một ý nghĩa kín đáo;    đó là một dịp để tư tưởng của triết gia Heidegger được nẩy mầm trong    khung cảnh đặc biệt của Viện Đại Học Vạn Hạnh, nơi nuôi dưỡng và phát    triển tư tưởng Á Đông trong sự chuẩn bị cho môi trường ngày mai cho sự    đối mặt giữa tư tưởng Tây Phương và tư tưởng Phật Giáo trong sự chuyển    tánh của vận mệnh con người trên trái đất này.
         Nước Đức nằm chung số mệnh phân ly và phân hoá như nước Việt Nam;    Heidegger khi còn làm viện trưởng tại trường Đại Học    Freiburg-in-Breisgau, đã chịu đựng những sự ngộ nhận không thể tránh    được về thái độ mình đối với sự phân tán trầm trọng của nước Đức, nhưng    Heidegger đã không sợ hãi mà từ bỏ con đường lựa chọn của mình và hiện    nay tư tưởng của Heidegger đã lan tràn khắp thế giớ và ảnh hưởng sâu đậm    đến tinh thần của thời đại. Heidergger nói lên sự vắng mặt của Thượng Đế    và sự phục hồi ý nghĩa của tính thể. Heidegger nói rằng tính thể (être)    là xuất nguồn từ ngôn ngữ Phạn (Sanskrit). Học Đại Học Vạn Hạnh được may    mắn là nơi có đủ khả năng để đào sâu kiến thức Phạn ngữ cho những người    muốn tìm lại nguồn để đặt lại giới hạn của tư tưởng Tây Phương trong cơn    khủng hoảng thời đại vô cùng trầm trọng hiện giờ.
         Trước sự sụp đổ của con người và thời đại, Heidegger kêu gọi chúng ta    hãy trở về tư tưởng thiền định (pensée méditante) và từ bỏ tư tưởng tính    toán của tổ chức kinh doanh, kỹ thuật, kỹ nghệ, cơ khí, chính trị, xã    hội, thần học, khoa học. Heidegger đã biết đi về trên con đường Phật    Giáo mà chính Heidegger cũng không ngờ được: đối với Heidegger, con    người chỉ có thể tự giải thoát khi trở về thiền tưởng (méditation) qua    tư thái song hành: tâm hồn thản nhiên trước sự vật (l’âme égale    en présence des choses) và tâm trí mở ra trước huyền diệu bí mật    (l’esprit ouvert au secret)
         Điều trên khiến chúng ta nhớ đến bình đẳng tánh trí và diệu    quan sát trí hai trong bốn trí của Duy Thức Học.
         Bình đẳng tánh trí (Samatājnāna) và Diệu Quan sát trí    (Pratyaveksanājňāna) đưa đến Đại viên cảnh trí (Àdarsanajňāna), cứu cánh    của giải thoát; đó mới chính là con đường giải thoát duy  nhất cho mỗi    người trong chúng ta.
      Tâm    hồn thản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệu, đó là    đường đi của tất cả Bồ Tát, thể hiện cô đọng trong Vô Uý An (Abhaya    mudrà) của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi), hoá thân của Đức    Di Lặc.
      Đức    Thế Tôn của mấy ngàn năm trước cũng là Đấng Thế Tôn vừa đản sinh hôm nay    và sẽ đản sinh ngày mai; nơi nào có chiến tranh và hận thù, nơi nào có    đau khổ, tàn ác, bạo lực và sợ hãi khủng bố thì nơi đó Đấng Thế Tôn ra    đời với Vô Uý Ấn của Ngài.
      Và    hơn bao giờ hết, giữa ngày Phật Đản hôm nay, giữa lúc chiến tranh lan    rộng và sợ hãi đe doạ khắp cả quê hương thì Vô Uý Ấn lại sáng ngời lên    như một ngôi sao Mai vừa sinh trên bầu trời đen tối của nhân loại; cũng    như vì sao Mai trên trời, Đấng Thế Tôn ra đời để báo tin rằng rạng đông    đang đến.
         Chúng tôi xin cầu nguyện chung cho tất cả những người đã chết trên dải    đất này, không phân chia quốc tịnh và phân chia mầu sắc chính trị.
      Sau    cùng, một điều đã khiến chúng tôi vô cùng cảm động: đó là sự hiện diện    của nhiều đại biểu quốc gia trên thế giới tại buổi Lễ Phật Đản hôm nay;    sự kiện ấy nói lên rằng ngày Đản Sinh của Đấng Thế Tôn là ngày vui chung    không phải chỉ thuộc một biên giới quốc gia nào, mà lại là thuộc chung    của cả nhân loại, của tất cả con người thao thức trên mặt đất này, những    con người đón đợi Bình minh bất diệt của tâm linh.
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét