Mục        đích của Ðạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người        có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc.Mục đích của        Ðạo Phật là giải thoát và giác ngộ,và chỉ có trí tuệ (Pan~n~à) mới là        phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ.              
                     Do vậy        vai trò của người có trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy        của Ðức Bổn Sư chúng ta.Và chúng ta có thể nói Ðạo Phật là đạo của người        có trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho được một định nghĩa thỏa đáng cho        Ðạo Phật.        
       Trước hết        chúng ta nên phân biệt giữa người trí thức thông thường được hiểu và người        có trí tuệ như Ðạo Phật thường định nghĩa. Người có trí thức là người có        thể có một trí thức uyên bác về một vấn đề gì, có thể phân tích trình bày        vấn đề một cách khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ có        Biết chớ không có Hành, và người ấy đối với vấn đề ấy vẫn có thể bị chi        phối, không đuợc tự tại. Ví như một người có thể hiểu biếy rất nhiều về        vấn đề rượu,hiểu rượu gồm có chất liệu gì, tác động của ruợu đối với cơ        thể như thế nào, các sự nguy hại của rượu như thế nào. Người ấy gọi là        người tri thúc về rượu nhưng người ấy vẫn uống rượu, vẫn bị say rượu, vẫn        bị rượu chi phối. Như vậy,người ấy chưa có trí tuệ về rượu.Trái lại, một        người hiểu rõ được rượu là gì, biéât rõ sự nguy hại của rượu, lại có khả        năng không bị rượu chi phối, không uống rượu, không say rượu, không nghiện        rượu ,vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy người ấy được xem người        có trí tuệ về rượu. Có người hỏi, nêu có người không có trí thức về rượu,        nhưng không uống rượu, người ấy có được xem là người có trí tuệ không. Lẽ        dĩ nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những lợi ích do không uống        rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu do cử chỉ không uống        rượu của mình. Nhưng rất có thể, trong một trường hợp đặc biệt nào đó, vì        thiếu khả năng đối trị vơi sự cám dỗ của rượu, vị ấy bắt đầu uống rượu, đi        đến say rượu và nghiện rượu. Với sự phân biệt này chung ta mới hiểu được        định nghĩa người có trí như đã được Ðức Phật định nghĩa rất rộng rãit rong        những lời dạy của Ngài.        
              Tăng Chi        I,trang 113 nêu rõ sự sai khác một trời một vực giữa người ngu và người        trí: “Thành tựu ba pháp, người ngu được biết đến.Thế nào là ba: Thân làm        ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Thành tựu ba pháp, người trí được biết đến.        Thế nào là ba ? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ  thiện.”              
              Một sự        sai khác rõ rệt giữa người ngu và kẻ trí là đối với các cảm thọ. Người ngu        khi gặp khổ thọ về thân, thời sầu muộn, than van khóc lóc, đập ngực đi đến        bất tỉnh. Ðức Phật ví dụ người rơi vào vực thẳm, không đứng trên bờ, không        đặt chân chỗ đứng an toàn. Còn bậc trí, đối với khổ thọ về thân, thời “        Không sầu muộn không than van, không khóc lóc không đập ngực, không đi đến        bất tỉnh.” Như vậy Ðức Phật dạy vị ấy được gọi là “Bậc Thánh đệ tử nghe        nhiều đã đứng trên bờ bực thẳm, đã đạt tới chỗ chân đứng an toàn.”(Tương        IV,212). Bậc Ðạo sư lại nói thêm. Người ngu si nghe ít, khi cảm xúc khổ        thọ, thời sầu muộn than van... đi đến bất tỉnh, như vậy cảm thọ hai loại        cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Ðức Phật ví như người bị bắn        trúng 2 mũi tên, vừa đau khổ về thân vừa đau khổ về tâm. Lại nữa, người        ngu si ít nghe, khi cảm xúc khổ thọ, cảm thấy sân hận nên sân tùy miên tồn        tại và tăng trưởng.Vị ấy tìm sự xuất ly khỏi khổ thọ bằng cách hoan hỷ dục        lạc, do không tìm được một xuất ly nào khác. Do hoan hỷ dục lạc ấy, tham        tùy miên đối  với lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Vị ấy không như thật biết        sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm        thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ lạc thọ tồn tại tùy        tăng.Như vậy, nếu vị ấy cảm giác khổ thọ,cảm giác lạc thọ, cảm giác bất        khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm giác như người bị trói buộc. Ở đây Ðức Phật dạy        : “Người ngu si nghe ít , bị trói buộc bởi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ        ưu não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ”. (Trang 213-214).              
               Còn đối        với bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không có sầu        muộn,than van, khóc lóc đập ngực đi đến bất tỉnh.  Vị ây chỉ cảm giác một        cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không cảm thọ về tâm. Ðức Phật ví như người        bị bắn bởi một mũi tên, chỉ đau khổ về thân không đau khổ về tâm. Lại nữa,        vị Thánh đệ tử khi nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không cảm thấy sân hận        nên sân tùy miên không tồn tại tăng trưởng. Vị ấy tìm được sự xuất ly ra        khỏi khổ thọ, ngoài dục lạc. Vị ấy không hoan hỷ dục lạc, nên tham thùy        miên đối với dục lạc không có tồn tại, không có tùy tăng. Vị ấy như thật        tuệ tri sự tập khởi, sự chấm chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly        của những cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ lạc thọ        không tồn tại, không có tùy tăng.Như vậy, vị Thánh đệ tử nghe nhiều ấy cảm        giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có như        người bị trói buộc. Ở đây, Ðức Phật dạy: “Vị Thánh đệ tử nghe nhiều không        bị trói buộc đau khổ.” (Trang 214-215).        
              Ðược hỏi        sự sai khác giữa người ngu và bậc hiền trí, đới với các thân do vô minh        che đậy, do ái trược ràng buộc khởi lên quan điểm có thân này, có danh sắc        ở ngoài. Do duyên thân này,có 6 xúc xứ và có cảm thọ lạc khổ. Vậy có sự        sai khác gì giữa bậc hiền trí và kẻ ngu? Ðức Phật dạy: “Này các Tỷ kheo,        bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân này của người ngu được sanh        khởi. Vô minh ấy, người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy, người ngu không        tận trừ. Vì cớ sao? Này các Tỷ kheo, người ngu sống Phạm Hạnh không phải        vì chân chánh đoạn tận khổ đau. Do vậy, người ngu, khi thân hoại mạng        chung, đi đến một thân khác, vị ấy không giải thoát khỏi sanh già bệnh        chết, sầu bi khổ ưu não. Ta nói rằng vị ấy không thóat khổ đau.” (Tương        Ưng II, 28-29).        
              “Và này        các tỷ kheo bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân người hiền trí        tận trừ. Vì cớ sao? Này các tỷ kheo, người hiền trí sống Phạm Hạnh , vì        chơn chánh tận trừ khổ đau. Do vậy người hiền trí khi thân hoại mạng chung        không đi đến một thân khác, vị ấy giải thoát khỏi sanh già bệnh chết, sầu        bi khổ ưu não. Ta nói rằng: “Vị ấy thoát khỏi Ðau khổ.” (Tương ƯngII,        28-29).        
              Một phân        biệt tế nhị nữa là người có trí ưa thích im lặng như biển lớn, như cái gì        tròn đầy, như no đầy nước, còn kẻ ngu thì ồn ào như khe núi, như cái gì        trống rỗng, như ghè vơi nước:        
       “Hãy học các giòng nước
       Từ khe        núi vực sâu;        
              Nước khe        núi chảy ồn,        
              Biển lớn        đầy im lặng,        
              Cái gì        trống kêu to,        
              Cái gì        đầy im lặng,        
              Ngu như        ghè vơi nước,        
              Bậc trí        như ao đầy.”        
                                                         (Tiểu bộI, 106)        
              Có người        hỏi, vì sao bậc Trí sống Phạm Hạnh rừng sâu, ăn môt ngày một bữa, lại có        dung sắc thù diệu, còn kẻ ngu lại héo mòn, như lau xanh rời cành. Ðức Phật        trả lời với bài kệ:        
       “Thường sống trong rừng núi,
Bậc Thánh sống Phạm Hạnh
Một ngày ăn một bữa,
Sao sắc chúng thù diệu?
Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp đến,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh rời cành.
(Tương Ưng I,6)
       Một số        sai biệt giữa người ngu kẻ trí được khéo diễn tả trong một số bài kệ sau        đây:        
       “Người ngu si thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật,
Người trí không phóng dật,
Nư giữ tài sản quý.”
(Pháp cú 26)
Người trí dẹp buông lung,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Bậc trí không âu lo,
Nhìn chúng sanh sầu muộn,
Chẳng khác đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu đất bằng!
(Pháp cú 28)
        Ðối với        đời, người ngu kẻ trí có thái độ thật sai khác:        
       “Hãy đến nhìn đời này
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Bậc trí nào đắm say.”
(pháp cú 7)
       Nhiều sự        sai biệt giữa người Trí kẻ ngu, sai biệt chỉ bằng gang tấc, tiến tới thành        người ngu, dừng lại thành bậc Trí:        
       “Người ngu nghĩ mình ngu,
Như vậy thành có trí,
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi Chí ngu.”
(Pháp cú 64)
       Một sự        sai khác, khá rõ rệt là thái độ người ngu kẻ trí đối với Chánh pháp :              
       “Người ngu dầu trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp
Như muỗng vị với canh.
Người trí dầu một khắùc,
Thân cận người có trí,
Biếy ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh.
(Pháp cú 64-65)
        Ở nơi        đây, chúng ta cũng đã thấy vì sao, người ngu hay xuyên tạc lời dạy của Ðức        Phật, còn người hiền trí bao giờ cũng giữ một thái độ đúng đắn, trung        thành với lời dạy của Ngài:        
               “Này Các        Tỷ kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai ?        Người nêu rõ Như Lai có nói có thuyết là Như Lai có nói có thuyết.Và người        nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói không thuyết.        Có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai”        
                                                    (Tăng Chi I, 72-73)        
              Khi chúng        ta đã hiểu được định nghĩa người có trí ngang qua một số lời dạy của Ðức        Phật, chúng ta nay có khả năng trình bày các định nghĩa căn bản của trí        tuệ (Pan~n~à) trong Ðạo Phật và khảnăng trí tuệ đưa đến giác ngộ và giải        thoát.        
              Trước hết        một số căn bản định nghĩa của Trí Tuệ:        
              “Như thế        nào được gọi là trí tuệ ? Vì có tuệ tri,vì có tuệ tri nên được gọi là trí        tuệ. Tuệ tri là gì ? Tuệ tri (Pajànàti) đây là khổ. Tuệ tri đây là khổ        tập. Tuệ tri đây là khổ diệt. Tuệ tri đây là con đường đưa đến khổ diệt.        Vì tuệ tri nên được gọi là trí tuệ. (Trung I, 293). Như vậy trí tuệ là        biết với trí tuệ, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn        diệt, biết con đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa        này là tuệ tri vị ngọt (Assàda), tuệ tri sự nguy hiểm (àdinavà), và tuệ        tri sự xuất ly (Nissarana) của các pháp và do vậy nói chung có tất cả 7        lãnh vực cần phải tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện        nào, dầu tốt hay xấu cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ        tri dục, dục tập khởi, dục đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị        ngọt của sự dục, sự nguy hiểm của dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như        vậy mới gọi là tuệ tri.        
              Một định        nghĩa nữa của tuệ tri được đề cập đến. Thế nào là tuệ lực? Ở đây vị Thánh        Ðệ Tử có trí tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc        Thánh vào con đường đoạn tận khổ đau. (Tăng II trang 28). Trí tuệ về sanh        diệt tức là tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt các pháp, như trước chúng        ta đã thấy. Nay có thêm định nghĩa mới là “Với sự thể nhập bậc Thánh vào        con đường đoạn tận khổ đau.” Danh từ Pàli chuyên môn là Ariyàya        nibbedhikàya sammà-dukkha-kkhaya-gàminiyà (D.iii,237). Ở đây chữ        nibbedhikàya có hai cách dịch, một là sự thể nhập đi sâu vào con đường có        khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi khổ đau.Cách        dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu hữu lậu, vô minh lậu hay,        tham, sân si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ, ngoài khả        năng tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt, còn có khả năng đâm thủng được        vô minh để cuối cùng được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ        rệt hơn công năng diệu dụng của trí tuệ (pan~n~à). “Trí tuệ có nghĩa là        thắng tri (abhin~n~àttha), có nghĩa là đoạn tận (pahànattha).Như vậy trí        tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết với thiền định, và thiền định đây        là thiền định bất động thứ tư.Lại có khả năng liễu tri với sự hiểu biết        rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận các lậu hoặc, dục lậu,        hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham sân si, chấm dứt khổ đau. Cho        được rõ ràng hơn, chúng ta cần phân biệt tưởng tri (san~jànàti)nhờ tưởng        (san~n~àna )đưa đến, thức tri (vijànàti) do thức (vin~n~a`) đưa đến, và ý        tri (Jànàti) do ý (manas) đưa đến.Tưởng tri , thức tri và ý tri là ba sự        hiểu biết thông thường của thế gian, đưa đến sự hiểu biết về khoa học, kỹ        thuật, triết học, bác học v.v...Ðạo Phật đóng góp thêm thắng tri và tuệ        tri, sự hiểu biết ngang qua thiền định, tạo thêm sức mạnh cần thiết để con        người làm chủ được bản thân, làm chủ được hoàn cảnh. Tuệ tri đưa đến một        hiểu biết toàn diện, hoàn mãn, có khả năng đâm thủng vô minh, đoạn tận        tham sân si, đưa đến chấm dứt khổ đau. Nhưng trí tuệ chưa phải là cứu cánh        mà chỉ là phương tiện đưa đến giải thoát. Với trí tuệ như vậy, vị ấy sanh        nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, và cuối cùng đưa đến giải thoát,        theo tiến trình như sau: “Do nhàm chán nên ly tham; do ly tham nên giải        thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát”. Vị        ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm Hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã        làm. Nay không còn trở lui lại trạng thái này nữa.” (Tương IV, 29)              
              Như        vậy,vai trò của trí tuệ là lựa chọn các đối tượng để quán tri, để tuệ tri,        mà nhờ tuệ tri mới đưa đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ,và cuối        cùng là giải thoát. Các đối tượng rất nhiều, tùy theo pháp môn lựa        chọn,tùy theo căn cơ của vị hành giả nhưng nếu đối tượng có khác, pháp môn        tu tập có khác, tiến trình giải thoát có thể xem giống nhau hay gần giống        nhau.        
              Sau đây        là một số tiến trình giải thoát, trích thuật từ tạng kinh Pàli, nói lên        vai trò trí tuệ đưa đến giải thoát và giải thoát tri kiến.        
              Trong        Kinh Xà Dụ, đối tượng cần phải tuệ quán là 5 thủ uẩn= Sắc, thọ tưởng,        hành,thức, bất cứ 5 thủ uẩn cần phải tuệ quán: “Cái này không phải của        tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi. Nhờ tuệ        quán như vậy, vị đa văn thánh đệ tử yểm ly sắc, thọ,tưởng, hành,thức. Do        yểm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát        khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát.” Vị ấy biết : “Sanh đã tận,        Phạm Hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,không còn trở lui trạng thái        này nữa.” (Trung I, 138b).        
              Trong Ðại        Kinh Mã Aáp, đối tượng cần phải tuệ quán là khổ và các lậu hoặc. Vị hành        giả cần phải tuệ tri: “đây là khổ; “đây là khổ tập”đây là khổ diệt”đây là        con đường đưa đếnkhổ diệt”. “Ðây là những lậu hoặc,”đây là lậu hoặc tập        khởi”Ðây là những lậu hoặc đoạn diệt;”Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc        đoạn diệt. Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát        khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân        đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”Vị ấy biết        “Sanh đã tận ,Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm. Sau đời hiện        tại, không có đời sống nào khác nữa (Trung I, trang 279).        
              Trong        Kinh Ðoạn Giảm, đối tượng cần phải tuệ quán là các sở kiến , “Này Cuda,        những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ giữa ngã luận hoặc        liên hệ thế giới luận, chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn và chỗ nào những        sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ        rằng: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là của tôi, cái này        không phải là tự ngã của tôi. Có vậy thời có sự đoạn trừ các sở kiến ấy,        có sự xả ly những sở kiến ấy”. (Trung I, 40-40a).        
              Trong        Kinh Mật Hoàn, đối tượng được lựa chọn là các vọng tưởng lý luận        (papan~casan~n~asankhà): “Này các Tỷ kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số        lý luận ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón        mừng, đáng chấp thủ thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận        sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận hỷ tùy miên, sự đoạn        tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu ái tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy        miên, csự đoạn tận chấp trượng, chấp kiến đấu tranh, tránh tranh, luận        tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở nơi đây, những ác, bất        thiện pháp này đều được tiêu diệt, không có dư tàn. (Trung I, 110).              
               Trong        Kinh Song Tầm Ðức Phật kể lại kinh nghiệm của Ngài khi Ngài chưa giác ngộ,        Ngài đã xử dụng bất thiện tầm và thiện tầm như thế nào để hành trì giới        định tuệ, cuối cùng đưa đến giải thoát giác ngộ. Ngài chia các loại tầm ra        hai loại-Bất thiện tầm là dục tầm, sân tầm, hại tầm và-thiện tầm là ly dục        tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Khi dục tầm, sân tầm, hại tầm khởi lên, vị        Bồ tát tuệ tri: “Các bất thiện tầm này khởi lên nơi ta, và các bất thiện        tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí        tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết bàn. Khi Bồ Tát khởi lên        suy tư như vậy thời các bất thiêïn tầm biến mất, và vị Bồ Tát tiếp tục từ        bỏ, tẩy trừ, chấm dứt các bất thiện tầm khởi lên.        
              Khi ly        dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: “Các thiện        tầm này khởi lên nơi ta; và các thiện tầm này không đưa đến tự tại, không        đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự        phần vào phiền não, đưa đến Niết bàn. Nếu ban đêm, Ta suy tư về ly dục        tầm, vô sân tầm bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi.        Nếu ban ngày, Ta suy tầm, suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm,        không phải vì nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và nếu ta suy tầm, suy tư quá        lâu, thân thể ta có thể mệt mỏi, thì tâm bị giao động. Khi tâm bị giao        động, thì tâm xa lìa định tĩnh. Rồi tự nội thân, Ta trấn an tâm, khiến        được nhất tâm, khiến được định tĩnh. (Trung I, 116, 116a). Với tâm định        tĩnh như vậy, Vị Bồ Tát đoạn trừ 5 triền cái, chứng sơ thiền, nhị thiền,        tam thiền, tứ thiền, chứng túc mạng trí, thiên nhãn trí, lậu tận trí và        cuối cùng được giải thoát giác ngộ.        
              Nay chúng        tôi đề cập tới lý duyên khởi để giải thích vai trò của trí tuệ, lấy con        người làm đối tượng để tuệ quán,và từ nơi đây, vừa tìm được công thức đưa        đến sự có mặt của con người và sự tập khởi của toàn bộ 5 thủ uẩn, vừa tìm        được công thức duyên diệt, đưa đến sự chấm dứt sanh tử và toàn bộ 5 thủ        uẩn này, như đã được diễn tả trong Kinh Aùi Tận Ðại Kinh (Trung I trang        261b). Trước hết, Ðức Phật đặt vấn đề sự có mặt của con người (Bhùta), sự        có mặt này lấy bốn thức ăn làm nhân duyên, làm tập khởi, làm sanh chủng,        làm hiện hữu, và một khi bốn món ăn này đoạn diệt thì cũng chấm dứt sự có        maàu7841?t của sinh vật này. Sinh vật đã do 4 món ăn làm tập khởi, ái do        thọ làm tập khởi, thọ do xúc làm tập khởi, 6 xứ làm tập khởi, 6 xứ do danh        sắc làm tập khởi, danh sắc do thức làm tập khởi, thức do hành làm tập        khởi, hành do vô minh làm tập khởi. Như vậy duyên vô minh có hành, duyên        hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có 6 xứ, duyên sáu xứ        có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có        hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, sầu bi ưu não. Như vậy là        sự tập khởi của 5 thủ uẩn.        
              Như vậy,        do duyên sanh nên có già chết, do duyên hữu nên có sanh, do duyên thủ nên        có hữu, do duyên ái nên có thủ, do duyên thọ nên có ái, do duyên xúc nên        có thọ, do duyên sáu xứ nên có xúc, do duyên danh sắc nên có sáu xứ, do        duyên thức nên có danh sắc, do duyên hành nên có thức, do duyên vô minh        nên có hành. Như vậy Ðức Phật xác chứng duyên sanh của toàn bộ khổ uẩn tức        là con người với công thức: “ cái này có mặt, cái đây có mặt. Cái này sanh        cái đây sanh”. (Imasmim sati idam hoti. Imass uppadà, idam uppajjati).              
              Từ lý        duyên sanh, Ðức Phật đi đến lý duyên diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do        thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ        diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do        ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt.        Do sanh diệt, nên già chết, sầu khổ ưu não diệt. Như vậy là toàn bộ 5 thủ        uẩn diệt.        
              Như vậy,        do sanh diệt nên già chết diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do thủ diệt nên        hữu diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do xúc diệt        nên thọ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ        diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do vô        minh diệt nên hành diệt. Như vậy Ðức Phật xác chứng lý duyên diệt với công        thức: “Cái này không có mặt, cái đây không có mặt. Cái này diệt, cái đây        diệt.” (Imasmim asati, idam na hoti. Imassa nidrodhà, idam nirajjhati). Vị        hành giả, với trí tuệ biết được hai công thức duyên sanh và duyên diệt,        nên sau khi giữ giới, sau khi chứng bốn thiền định, khi 6 căn tiếp xúc với        sáu trần, vị ấy không tham ái đối với 6 trần khả ái, không ghét bỏ đối với        sáu trần không khả ái, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với một tâm vô        lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát tuệ giải thoát, chính nhờ        chúng, các bất thiện pháp được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy vị ấy        từ bỏ thuận ứng nghịch ứng, có cảm thọ nào khởi lên, vị ấy không tùy hỷ        không hoan nghênh, không đắm trước thọ ấy. Vì vị ấy không có tùy hỷ, không        hoan nghênh, không đắm trước thọ ấy, nếu có nandi (dục hỷ) khởi lên, đối        với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt không có dư tàn. Do dục hỷ của vị        ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt.        Do sanh diệt nên sầu bi khổ ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của 5 thủ        uẩn này.        
              Như vậy,        với những đối tượng sai khác như 5 thủ uẩn, và các lậu hoặc, các sở kiến,        các vọng tưởng hý luận, các bất thiện tầm và các thiện tầm, lý duyên khởi,        trí tuệ đóng một vai trò then chốt trong trách nhiệm tuệ tri các đối tượng        cuối cùng đoạn tận được các lậu hoặc để chứng quả A La Hán.        
              Ðể nêu rõ        định nghĩa và vai trò của trí tuệ hơn nữa, chúng tôi ghi chép sau đây, một        vài câu Phật dạy trích dẫn từ Kinh Tạng Pali để chứng minh các sự giải        thích trên:        
       “Tất cả hành vô thường
        Với Tuệ,        quán thấy vậy,        
              Ðau khổ        được nhàm chán,        
              Chính con        đường thanh tịnh.        
              Tất cả        hành khổ đau        
              Với Tuệ,        quán thấy vậy,        
              Ðau khổ        được nhàm chán,        
              Chính con        đường thanh tịnh.        
              Tất cả        pháp vô ngã        
              Với Tuệ,        quán thấy vậy,        
              Ðau khổ        được nhàm chán,        
              Chính con        đường thanh tịnh.        
                                                 (Pháp cú 277, 278, 279)        
              “Thấy khổ        và khổ tập        
              Thấy sự        khổ vượt qua,        
              Thấy        đường Thánh tám nghành,        
              Ðưa đến        khô não tận”.        
                                                    (Pháp cú 191)        
              “Mắt        thịt, mắt chư Thiên,        
              Vô thượng        mắt trí tuệ,        
              Cả ba        loại mắt ấy        
              Ðược bậc        vô thượng nhân,        
              Ðã tuyên        bố trình bày...        
              Từ đây        trí khởi lên.        
              Tuệ nhãn        là tối thượng        
              Ai chứng        được mắt ấy        
              Giải        thoát mọi khổ đau”.        
              (Phật        thuyết như vậy, trang 457-458).        
                     ------------------------------               
                     Bị chú: Bài này có một số chữ viết tắt như sau :              
              Trung        =Kinh Trung Bộ        
              D        =Dìgha Nikàya (Trường Bộ Kinh 
              Tương        = Kinh Tương Ưng        
              Tăng        = Kinh Tăng Chi        
              PC = Pháp        Cú
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét