Lời giới thiệu
Lời nói đầu
I. CHƯƠNG MỘT: Trích dịch những lời dạy của đức Phật về Hòa bình
II. CHƯƠNG HAI: Trích dịch về lời dạy của đức Phật
Phẩm 1: Ðấu tranh và hòa hợp
Phẩm 2: Sân hận và nhu hòa
Phẩm 3: Làm hại và không làm hại
Phẩm 4: Hận thù và thân hữu
Phẩm 5: Sát sanh và tôn trọng sự sống
III. CHƯƠNG BA: Trích dịch lời dạy về Tăng
IV. CHƯƠNG BỐN: Trích dịch về các hạng người thiên về chiến tranh và hạng người thiên về hòa bình
Phẩm 1: Người ác và người thiện
Phẩm 2: Người ngu và bậc trí
Phẩm 3: Người phóng dật và bậc tự điều
V. Bảng các chữ viết tắt
Quyển sách nhỏ này nhằm    giới thiệu "Những lời đức Phật dạy về Hòa bình và giá trị con người"   được trích dịch từ một số kinh quan trọng trong kinh tạng Pàli, bằng    ba thứ tiếng: Pàli, Anh văn và Việt văn. Những trích dịch này không làm    sao đầy đủ được, nhưng chúng đã được lựa chọn thận trọng để có thể giới    thiệu một cách trung thành và chân thực những lời dạy cao qúy của Ngài    về những đề tài này.
   Ðức Phật không bao giờ xem    Hòa bình như là một quà tặng từ đâu đến. Quan điểm của Ngài, Hòa bình là    kết quả của một ý chí quyết liệt, một cuộc tranh đấu kiên cường, một vấn    đề tự giáo dục và tự huấn luyện, để dân chúng có thể yêu quý Hòa bình    như là một vật báu cần phải thực hiện ngay từ bây giờ, trên quả đất này.    Như vậy tập sách nhỏ này phục vụ mục đích chung bằng cách trích dịch    những lời Phật dạy về Hòa bình và giá trị con người. Hiện nay, với mọi    phát minh các kỹ thuật mới giết người hàng loạt, với sự đe dọa mới của    bom nguyên tử và bom khinh khí, có khả năng tiêu diệt hoàn cầu, Hòa bình    trở thành nguồn cứu tinh duy nhất cho nhân loại. Do vậy những lời dạy    của đức Phật, vị được tôn xưng là sứ giả của Hòa bình cần phải ôn lại,    cần phải suy tầm suy tư, cần phải đem ra áp dụng và trở thành một nếp    sống cho toàn thể loài Người.
   Vậy, chúng tôi có vài lời    xin giới thiệu với toàn thể Phật tử, với những ai có quan tâm đến vấn đề    Hòa bình.
   Tp. Hồ Chí Minh, tháng    06 năm 1995
Tỷ-kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
      Tỷ-kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
-ooOoo-
         Tập sách này nhằm trình bày một số lời dạy của đức Phật    về Hòa bình và giá trị con người được chia thành 4 chương.
Chương I chứa đựng những tinh hoa qua các buổi thuyết    pháp của Ngài, mục đích của Ngài khi hoằng dương Chánh pháp, thái độ của    Ngài đối với các tôn giáo khác, các giáo lý đối nghịch và lòng từ bi    thương tưởng của Ngài đối với chúng sanh, đối với Thế giới.
Chương II đề cập đến Chánh pháp, những lời dạy của Ngài    về 5 vấn đề căn bản quan trọng: 1. Ðấu tranh và hòa hợp. 2. Sân hận và    nhu hòa. 3. Làm hại và không làm hại. 4. Hận thù và thân hữu. 5. Sát    sanh và kính trọng sự sống.
Chương III đề cập đến Giáo hội các Tỷ-kheo, các    Tỷ-kheo-ni (Sangha), sự chú tâm của Ngài xây dựng những giới luật căn    bản để thực hiện một sự hòa hợp nhất trí hoàn toàn giữa các vị đồng Phạm    hạnh, những lời khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài cần chung sống với    nhau trong niềm đồng tâm nhất trí hoàn toàn và những lời khiển trách của    Ngài khi các vị Tỷ-kheo không sống đúng như lời Phật dạy.
Chương IV giới thiệu hai hạng người. Hạng người ưa thích    gây hấn, xung đột, chiến tranh và hạng người thiên về một đời sống hòa    hợp nhất trí và Hòa bình.
Hạng người đầu là hạng người làm điều ác, hạng người ngu    si, ám độn và hạng người phóng dật, sống đời sống ngang tàng phóng túng.
Hạng thứ hai là hạng làm các hạnh lành về thân, về lời,    về ý, những bậc Thiền trí, những bậc Hiền Thánh, những bậc Biết tự điều.
Ðể làm nổi bật sự mâu thuẫn, mỗi hạng người với hạng đối    nghịch được đề cập song song bên nhau. Như vậy, Phẩm một nói đến hạng    người làm điều ác và hạng người làm điều lành. Phẩm hai giới thiệu hạng    người ngu và bậc có trí. Phẩm ba đối mặt giữa kẻ phóng dật và những    người biết tự điều phục mình.
Lại nữa, trong mỗi chương, mỗi phẩm, trước hết là những    lời giới thiệu tổng quát của vị biên tập cho từng chương, từng phẩm, rồi    đến những lời trích dịch bằng ba thứ tiếng: Tiếng Pàli dành cho những vị    chú tâm đến cổ ngữ Pàli và nguyên bản, tiếng Anh dành cho độc giả biết    tiếng Anh và tiếng Việt dành cho độc giả người Việt.
Như đã được đề cập trước, các trích dịch không có thể    xem là đầy đủ chu toàn, và nhiều lời dạy có giá trị có thể bị bỏ quên.    Nhưng người biên tập chỉ có hy vọng mong rằng: Tập sách này là một sự    cống hiến khiêm tốn cho những lời dạy của đức Phật về Hòa bình và là một    đóng góp nhỏ bé vào sự nghiệp hoằng dương chánh pháp trên có thể giúp    chúng ta ngày nay.
   Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 1995
Tỷ-kheo THÍCH MINH CHAÂU
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
   Tỷ-kheo THÍCH MINH CHAÂU
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
*
* *
      * *
   TRÍCH DỊCH NHỮNG    LỜI DẠY CỦA ÐỨC PHẬT VỀ HÒA BÌNH
      Tổng kết 45 năm thuyết pháp của    Ngài, đức Phật tuyên bố rõ ràng là Ngài chỉ dạy hai vấn đề: Khổ và diệt    khổ, ngoài ra không dạy gì nữa. Chiến tranh đem đến đau khổ. Hòa bình    nghĩa là chấm dứt khổ đau. Do vậy Ngài được tôn xưng là "vị Sứ giả hòa    bình".
Ngài khuyến khích các đệ tử của Ngài du hành để thuyết    pháp và giải thích đời sống Phạm hạnh, vì hạnh phúc và an lạc của quần    sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc của chư    Thiên và loài Người.
Ðức Phật nêu rất rõ ràng mục đích thuyết pháp của Ngài    là không tranh luận với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác và không cạnh    tranh với các lý thuyết đối nghịch. Không có sự tranh chấp trong sự    thuyết pháp của Ngài. Ngài chỉ trình bày con đường dẫn đến giác ngộ, và    giải thoát mọi khổ đau.
Ðức Phật luôn luôn tràn đầy lòng từ bi đối với tất cả    loài hữu tình. Cho đến khi nằm nghỉ, Ngài cũng "Tâm từ, thương chúng    sanh" và Ngài có thuyết pháp cũng chỉ vì tình thương của Ngài đối với    mọi loài.
* * *
"Này các Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự    khổ và diệt khổ". (Trung Bộ I. 140)
"Này các Tỷ-kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần    chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi    ích, vì hạnh phúc, vì an lạc, cho chư Thiên và loài Người. Chớ có đi hai    người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện,    hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên    mãn, thanh tịnh". (Tương Ưng I. 128)
"Này các Tỷ-kheo, Ta không tranh chấp với đời. Chỉ có    đời tranh chấp với Ta. Này các Tỷ-kheo, người nói pháp không tranh chấp    với một ai ở đời". (Tương Ưng III. 165)
"Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: "Cao thượng thay, an    trú lòng từ". "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm    này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ" - "Này Jìvaka, cái gọi là    tham, là sân, là si do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được    Như Lai đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây ta- la,    khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này    Jìvaka, nếu như vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời Ta đồng ý với Ông". -    "Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói". (Trung Bộ II.    370A-370B)
"Khi thức không lo âu,
Khi ngủ chẳng sợ hãi
Ngày đêm không khởi lên,
Phiền não bận lòng Ta.
Ta không thấy tai hại,
Một chỗ nào trên đời.
Do vậy, Ta nằm nghỉ,
Tâm từ, thương chúng sanh". (Tương Ưng I. 136)
"Này Sàriputta, những ai nói một cách chơn chánh sẽ nói    như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì hạnh    phúc cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời,    vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người". Vị ấy    sẽ nói về Ta một cách chơn chánh như sau: "Một vị hữu tình không bị si    chi phối, đã sanh ra ở đời, vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc cho số    đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư    Thiên và loài Người". (Trung Bộ I. 83)
"Ngài hiểu biết tất cả,
Ngài trình bày Chánh pháp.
Vì lòng thương, từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh.
Ngài vén mở bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi.
Không cấu uế, thanh tịnh.
Ngài chói toàn thế giới". (Kinh tập. Kệ 378)
*
* *
      * *
   TRÍCH DỊCH VỀ LỜI DẠY CỦA ÐỨC PHẬT
      Thế Tôn chỉ cho chúng ta rõ các dục là nguồn gốc của đấu    tranh, kháng tranh, xung đột và chiến tranh.
"Một nguyên nhân nữa của đấu tranh và xung đột là sự so    sánh giữa mình và người, xem các người khác là bằng mình, hay hơn mình    hay thua mình".
Một phương pháp làm lắng dịu các tranh luận là sự ý    thức, chính tại đây, "trong tranh luận này, chúng ta đều tàn hại".
Có một trường hợp này thật là bẽ bàng, như đức Phật đã    nêu rõ, là một người đến phỉ báng người không có phỉ báng, nhiếc mắng    người không có nhiếc mắng, gây sự với người không có gây sự. Tất cả sự    phỉ báng, nhiếc mắng ấy tự nhiên trở lui lại cho người đã nhiếc mắng.    Cũng như đồ ăn được đưa mời mà người được mời không chấp nhận, thời món    ăn sẽ trở lại với người chủ của nó.
Thái độ đức Phật đối với tranh luận rất rõ ràng. Ngài    không có tranh luận với ai ở đời. Ngài thuyết pháp chỉ với mục đích nêu    lên con đường chấm dứt khổ đau. Ngài không bao giờ tự cho chỉ có Pháp    của Ngài là sự thật, ngoài ra đều là hư vọng. Ngài giải thích Pháp của    Ngài rõ ràng cho mọi người đến để xem để thấy và để tự mình phê phán.
Phương pháp hay nhất để tránh xa các tranh luận và xung    đột, đức Phật khuyên chúng ta, là đừng có khởi lên các hý luận, vọng    tưởng, các tà kiến. Và trong trường hợp chúng có khởi lên, thời thái độ    tốt nhất là chớ hoan hỷ, đón mừng và chấp thủ chúng. Thái độ này sẽ chấm    dứt đấu tranh, xung đột, chiến tranh và các pháp bất thiện.
Chiến tranh nào cũng đem đến đau khổ vô lượng vô biên.    Chiến thắng sanh thù oán, bại trận nếm khổ đau. Cho nên phương pháp hay    nhất là đừng dùng chiến tranh để giải quyết các xung đột, nhưng phải tìm    mọi phương tiện hòa bình để chấm dứt các bất đồng ý kiến và các xung    đột.
Do vậy các bậc Thánh đã từ bỏ gia đình, sẽ không tạo nên    các trói buộc mới. Các vị này chấm dứt mọi tranh luận, bất cứ với một    ai.
* * *
"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm    duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với    vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với    Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ; mẹ tranh đoạt với con, con    tranh đoạt với mẹ; cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha; anh    em tranh đoạt với anh em; anh tranh đoạt với chị; chị tranh đoạt với    anh; bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi chúng dấn mình vào tranh chấp,    tranh luận, tranh đoạt, chúng tấn công nhau bằng tay, chúng tấn công    nhau bằng gạch đá, chúng tấn công nhau bằng gậy gộc, chúng tấn công nhau    bằng đao kiếm. Ở đây, chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử    vong". (Trung Bộ I. 87)
"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm    duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, chúng cầm mâu và    thuẫn, chúng đeo cung và tên, chúng dàn trận hai mặt và tên được nhắm    bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Chúng bắn,    đâm nhau bằng tên, chúng quăng, đâm nhau bằng đao, chúng chặt đầu nhau    bằng kiếm. Ở đây, chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong".    (Trung Bộ I. 87A)
"Bằng, thắng hay thua Ta,
Nghĩ vậy đấu tranh khởi,
Cả ba không dao động,
Bằng, thắng không khởi lên". (Tương Ưng I. 15)"Người khác không hiểu biết,
Chúng ta đây (Trong tranh luận này) suy vong.
Ai hiểu biết chỗ ấy,
Tranh luận được lắng êm". (Pháp Cú. 6)
"Phẫn nộ, không hoan hỷ, Bà-la-môn Akkosaka Bhàradvàja    đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói những lời không tốt đẹp, ác ngữ, phỉ    báng và nhiếc mắng Thế Tôn. Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn    Akkosaka Bhàradvàja: -"Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào? Các thân hữu bà    con huyết thống, các khách có đến viếng thăm Ông không?" - "Thưa Tôn giả    Gotama, thỉnh thoảng các thân hữu bà con huyết thống, các khách có đến    viếng thăm tôi" - "Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào? Ông có sửa soạn cho    họ các món ăn loại cứng, loại mềm và các loại đồ nếm không?" - "Thưa Tôn    giả Gotama, thỉnh thoảng tôi sửa soạn cho họ các món ăn loại cứng, loại    mềm và các loại đồ nếm". - "Nhưng này Bà-la-môn, nếu họ không thâu nhận,    thời các món ăn ấy về ai?" - "Thưa Tôn giả Gotama, nếu họ không thâu    nhận, thời các món ăn ấy về lại chúng tôi".
"Cũng vậy, này Bà-la-môn, nếu Ông phỉ báng chúng tôi là    người không phỉ báng, nhiếc mắng chúng tôi là người không nhiếc mắng, xỉ    vả chúng tôi là người không xỉ vả, chúng tôi không thâu nhận sự việc ấy    từ Ông, thời này Bà-la-môn, sự việc ấy về lại Ông. Này Bà-la-môn, sự    việc ấy chỉ về lại Ông. Này Bà-la-môn, ai phỉ báng lại khi bị phỉ báng,    nhiếc mắng lại khi bị nhiếc mắng, xỉ vả lại khi bị xỉ vả, thời như vậy,    này Bà-la-môn, người ấy được xem là đã hưởng thọ, đã san sẻ với Ông. Còn    chúng tôi không cùng hưởng thọ sự việc ấy với Ông, không cùng san sẻ    việc ấy với Ông, thời này Bà-la-môn, tất cả sự việc ấy về lại với Ông và    tất cả sự việc ấy chỉ về lại Ông mà thôi". (Tương Ưng I. 199)
"Này Hiền giả, theo lời dạy của Ta, trong thế giới với    chư Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư    Thiên và loài Người, không có tranh luận với ai ở đời". (Trung Bộ I.    109A)
"Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận    vọng tưởng ám ảnh một người, nếu ở đây không có gì đáng hoan hỷ, đáng    đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự    đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy    miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu ái tùy miên, sự đoạn tận    vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng chấp kiếm, đấu tranh, tránh    tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở nơi đây,    những ác bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn".    (Trung Bộ I. 110)
"Thắng trận sanh thù oán,
Bại trận nếm khổ đau,
Ai bỏ thắng, bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc". (Tương Ưng I. 102)"Bậc Thánh bỏ gia đình,
Du hành không trú xứ;
Ðối với dân trong làng,
Không tác thành hệ lụy.
Tuyệt không các dục vọng,
Không ước vọng hão huyền,
Chấm dứt mọi tranh luận,
Bất cứ với một ai". (Tương Ưng III. 14)
*
* *
* *
Sân hận hành động như một cái kềm siết chặt những ai rơi    vào sự chi phối của sân hận, và được xem là gây tai hại cho người đời.
Cho nên, tốt hơn là đừng nói lời thô ác đối với bất cứ    ai, vì lời nói thô ác đem lại những lời thù hận và cho đến đao trượng    chạm người.
Cho đến thiên chủ Ðế Thích cũng khuyên chớ nên phẫn nộ,    vì phẫn nộ nghiền người ác, như núi đá nghiền người.
Do vậy, bậc có trí "nhiếp phục giận với không giận".
Những ai xứng đáng với danh xưng Bà-la-môn, phải thân    thiện giữa thù địch, ôn hòa giữa hung hăng.
Ai chận được cơn giận đang nổi lên mới xứng đáng là bậc    đánh xe, còn kẻ khác không làm được vậy, chỉ đáng gọi là người cầm cương    hờ.
Thiên chủ Ðế Thích khuyên chư Thiên chớ để phẫn nộ nhiếp    phục, chớ để lòng sân chống đối sân hận, vì không phẫn nộ thì không làm    hại mình, hại người, hại cả hai.
Bậc trí đã nhổ tận gốc phẫn nộ xứng đáng được tôn xưng    là bậc Hiền thiện.
Người không phẫn nộ thật sự là người hòa bình. Tệ hơn cả    hai là người bị mắng, lại mắng trả. Vị chiến thắng cả hai, chiến thắng    mình và chiến thắng người, khi vị ấy tự chế, không mắng lại.
* * *
"Lửa nào bằng lửa tham,
Chấp nào bằng sân hận,
Lưới nào bằng lưới si,
Sông nào bằng sông ái". (Pháp Cú. 251)"Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân hận hại người đời,
Bố thí người lìa sân,
Do vậy được quả lớn". (Pháp Cú. 357)"Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẫn nộ,
Ðao trượng phải chạm người". (Pháp Cú. 133)
"Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, thiên chủ Ðế Thích tại Thiện    pháp đường, muốn làm lắng dịu chư Thiên ở cõi Ba mươi ba, lúc ấy nói lên    bài kệ này:
"Hãy nhiếp phục phẫn nộ,
Giữ tình bạn không phai,
Không đáng mắng, chớ mắng,
Không nên nói hai lưỡi,
Phẫn nộ nghiền người ác,
Như núi đá nghiền người". (Tương Ưng I. 305)"Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy". (Pháp Cú. 223)"Thân thiện giữa thù địch,
Ôn hòa giữa hung hăng,
Không nhiễm giữa nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn". (Pháp Cú. 406)"Ai chận được cơn giận,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ". (Pháp Cú. 222)
Này các Tỷ-kheo, thuở xưa thiên chủ Ðế Thích, tại Thiện    pháp đường, muốn làm lắng dịu chư Thiên ở cõi Ba mươi ba, lúc ấy nói lên    bài kệ này:
"Chớ để lòng phẫn nộ,
Nhiếp phục chi phối ông.
Chớ để lòng sân hận,
Ðối trị với sân hận.
Không phẫn nộ, vô hại,
Bậc Thánh thường an trú.
Phẫn nộ nghiền người ác,
Như núi đá nghiền người". (Tương Ưng I. 305)"Chỉ ai đã cắt tiệt,
Nhổ tận gốc, đoạn trừ,
Người trí ấy diệt sân,
Ðược gọi người Hiền thiện". (Pháp Cú. 263)"Với vị không phẫn nộ,
Phẫn nộ từ đâu đến?
Sống chế ngự, chánh mạng,
Giải thoát nhờ chánh trí,
Vị ấy sống như vậy,
Ðời sống được tịch tịnh.
Bị mắng phỉ báng lại,
Tệ hơn cả hai người,
Những ai bị phỉ báng,
Không phỉ báng chống lại,
Người ấy đủ thắng trận,
Thắng cho mình, cho người
Vị ấy tìm lợi ích,
Cho cả mình và người.
Và kẻ đã phỉ báng,
Tự hiểu, lắng nguôi đầu". (Tương Ưng I, 200)
*
* *
* *
Hại người không làm hại ai, chẳng khác ngược gió tung    bụi, với kết quả là tự mình phải chịu kết quả hành động của mình.
Ðức Phật trong khi quan sát tâm trí của mọi loài chúng    sanh đã tuyên bố rằng, mọi loài thương tự ngã của mình là tối thượng.    Nếu chúng ta thương tự ngã của chúng ta, chớ có làm hại tự ngã của    người. Mọi loài cầu an lạc. Hại người để cầu an lạc cho mình thật là hạ    sách. Ðừng hại người mới là thượng sách đem lại hạnh phúc cho mình. Ðối    với đức Phật, chỉ những ai thật sự không làm hại một ai, mới xứng danh    là vị "Bất hại".
Bậc Thánh, bậc có trí không hại một chúng sanh nào. Hành    động các vị ấy, thân nghiệp, khẩu nghiệp hay ý nghiệp hoàn toàn bất hại.    Ðó là lý do tại sao các vị ấy được gọi là các bậc Thánh.
* * *
"Vì nghĩ đến tư lợi,
Nên mới cướp hại người,
Khi người khác cướp hại;
Bị hại, lại hại người.
Người ngu nghĩ như vậy,
Khi ác chưa chín muồi;
Khi ác đã chín muồi,
Người ngu chịu khổ đau.
Sát người bị người sát;
Thắng người bị người thắng;
Mắng người, người mắng lại;
Não người, người não lại.
Do nghiệp lực diễn tiến,
Bị hại, lại hại người". (Tương Ưng I. 103)"Không xúc, không có chạm,
Có xúc thời có chạm,
Nếu hại người không hại,
Tức có xúc, có chạm.
Ai hại người không hại,
Người tịnh không ô nhiễm,
Kẻ ngu hái quả ác,
Như ngược gió tung bụi". (Tương Ưng I. 16)"Tâm ta đi cùng khắp.
Tất cả mọi phương trời,
Cũng không tìm thấy được,
Ai thân hơn tự ngã.
Tự ngã đối mọi người,
Quá thân ái như vậy,
Vậy ai yêu tự ngã,
Chớ hại tự ngã người". (Tương Ưng I. 92)"Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Tìm an lạc cho mình,
Ðời sau không được lạc". (Pháp Cú. 131)"Chúng sanh cầu an lạc,
Không dùng trượng hại người,
Tìm an lạc cho mình,
Ðời sau được hưởng lạc". (Pháp Cú. 132)
Bà-la-môn Ahimsaka thưa với đức Phật: "Con là Ahimsaka,    thưa Tôn giả Gotama. Con là Ahimsaka, thưa Tôn giả Gotama". Ðức Phật nói    lên bài kệ với Bà-la-môn:
"Danh phải tương xứng người,
Người phải là bất hại.
Ai với thân, khẩu, ý,
Không làm hại một ai.
Ai không hại người khác,
Người ấy thật Bất hại". (Tương Ưng I. 203)"Còn sát hại sinh linh,
Ðâu được gọi Hiền Thánh.
Không hại mọi chúng sanh,
Mới được gọi Hiền Thánh". (Pháp Cú. 270)"Ai sống tự trang sức,
Nhưng an tịnh nhiếp phục.
Sống kiên trì Phạm hạnh,
Không hại mọi sanh linh.
Vị ấy là Phạm chí,
Hay Sa-môn, khất sĩ". (Pháp Cú. 142)"Bậc Hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự,
Ðạt được cảnh bất tử,
Ðến đấy không ưu sầu". (Pháp Cú. 225)
*
* *
* *
Ðức Phật tuyên bố rất rõ ràng rằng, một tâm đầy những    hận thù và thù địch, người như vậy không thể hiểu một cách tốt đẹp,    không thể nói một cách tốt đẹp. Một người ôm ấp nuôi dưỡng sự bất mãn và    uất hận sẽ không làm dịu bớt hận thù của mình. Với niệm một mình, hận    thù không có thể trừ diệt. Chỉ với một tâm tư ngày đêm thích thú trong    bất hại và với lòng từ mẫn đối với tất cả loài hữu tình, người như vậy    mới có thể chấm dứt hận thù.
"Ðịnh luật ngàn thu xác định hận thù không thể trừ diệt    hận thù. Chỉ có tình thương mới trừ diệt được hận thù. Do vậy, sung    sướng thay là đời sống của chúng ta, nếu chúng ta sống không hận thù    giữa những người thù hận".
Một người biết cách tự nhiếp phục mình để chấm dứt mọi    hận thù, mọi thù địch, người như vậy đạt được Niết-bàn, vì rằng ở    Niết-bàn sẽ không có hận thù.
Ðức Phật, với lòng từ thương tưởng mọi chúng sanh sẽ    không thích thú trong hận thù. Cho nên Ngài sẽ làm tất cả những gì có    thể làm được để làm vơi bớt, nhẹ bớt và chấm dứt mọi thù địch và hận thù    trong thế giới này.
* * *
"Tâm Ông thật ô uế,
Và đầy những thù hận,
Làm sao biết tốt đẹp?
Làm sao nói tốt đẹp?
Ai nhiếp phục thù hận,
Nhiếp phục tâm chống đối,
Từ bỏ mọi hận tâm,
Vị ấy biết tốt đẹp,
Vị ấy nói tốt đẹp". (Tương Ưng I. 222)
Và đầy những thù hận,
Làm sao biết tốt đẹp?
Làm sao nói tốt đẹp?
Ai nhiếp phục thù hận,
Nhiếp phục tâm chống đối,
Từ bỏ mọi hận tâm,
Vị ấy biết tốt đẹp,
Vị ấy nói tốt đẹp". (Tương Ưng I. 222)
"Nó thắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, diệt tôi".
Ai ôm niềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi". (Pháp Cú. 3)"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, diệt tôi".
Không ôm niềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi". (Pháp Cú. 4)
Dạ xoa Manibhadda đi đến Thế Tôn và nói lên bài kệ này:
"Lành thay, thường chánh niệm,
Nhờ niệm, lạc tăng trưởng.
Có niệm, ngày mai đẹp,
Hận thù được giải thoát!"(Thế Tôn) :
"Lành thay, thường chánh niệm,
Nhờ niệm, lạc tăng trưởng.
Có niệm, ngày mai đẹp,
Hận thù chưa giải thoát.
Với ai, trọn ngày đêm,
Tâm ý lạc, bất hại.
Từ tâm, mọi hữu tình,
Vị ấy không thù hận". (Tương Ưng I. 260)"Hận thù diệt hận thù,
Ðời này không có được,
Không hận diệt hận thù
Là định luật ngàn thu". (Pháp Cú. 5)"Vui thay, chúng ta sống,
Không hận giữa hận thù,
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù". (Pháp Cú. 197)"Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn". (Pháp Cú. 400)"Nếu tự mình yên lặng,
Như chiếc chuông bị bể,
Ông đã chứng Niết-bàn,
Ông không còn sân hận". (Pháp Cú. 134)
*
* *
* *
Thế Tôn kính trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, cho đến    sự sống của côn trùng và sự sống của cỏ cây. Ngài tự mình thực hành,    không đổ các đồ ăn dư thừa của mình trên đám cỏ xanh, hay nhận chìm    trong nước có các loại côn trùng nhỏ. Ðức Phật khuyên các đệ tử chớ có    sát sanh để cúng dường đức Phật và các đệ tử của Ngài, vì nếu làm vậy,    chúng tích lũy nhiều phi công đức.
Ngài trình bày rõ ràng rằng, sát sanh đưa tới tái sanh    trong địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ và quả báo nhẹ nhất của sát sanh là    sanh ra làm người với tuổi thọ ngắn. Lại nữa, sát hại chúng sanh đem đến    sự sợ hãi và hận thù trong hiện tại và trong tương lai và làm sanh khởi    tâm khổ, tâm ưu.
Do vậy, đức Phật khuyên chớ nên sát sanh vì rằng mọi    chúng sanh sợ hãi hình phạt, đối với mọi loài hữu tình sự sống là quý    nhất trên đời. Giới thứ nhất của một cư sĩ phải thọ trì là kính trọng sự    sống, không sát hại chúng sanh. Và một Bà-la-môn xứng đáng với danh    xưng, một vị Thánh xứng đáng với Thánh vị, phải thực hiện sự kính trọng    đời sống này một cách toàn diện và đầy đủ.
* * *
"Và còn lại đồ ăn thừa này của Ta cần phải quăng bỏ. Nếu    các Ông muốn, hãy ăn. Nếu các Ông không muốn ăn; Ta sẽ quăng bỏ đồ ăn ấy    tại chỗ không có cỏ xanh, hay Ta sẽ nhận chìm trong nước không có các    loại côn trùng". (Trung Bộ I. 13-13A)
"Này Jìvaka, nếu người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như    Lai, giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm    nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: "Hãy đi và dắt con thú này đến"    đó là nguyên nhân thứ nhất, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con    thú ấy khi bị bắt đi, vì bị lôi kéo nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là    nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi nó nói    như sau: "Hãy đi và giết con thú này", đó là nguyên nhân thứ ba, người    ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết cảm thọ khổ ưu,    đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi    người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là    nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jìvaka    nếu người nào vì Như Lai hay đệ tử Như Lai giết hại sinh vật, người ấy    sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này". (Trung Bộ II.    371A)
"Này các Tỷ-kheo, nếu sát sanh được thực hiện, được    luyện tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, sẽ đưa đến loài bàng    sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ (sabbalahuso) của sát    sinh, là được làm người với tuổi thọ ngắn". (Tăng Chi III A. 230)
"Này Jìvaka, những ai nói như sau: "Vì Sa-môn Gotama,    chúng giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama, tuy biết vẫn dùng các    loại thịt được giết vì mình, được làm cho mình", những người ấy không    nói chính lời của Ta, chúng xuyên tạc Ta, không như chân, không như    thật. Này Jìvaka Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng:    Thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Ta nói ba trường hợp nầy thịt    không được thọ dụng. Này Jìvaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt    được thọ dụng: Không thấy, không nghe, không nghi (vì mình mà giết). Này    Jìvaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng". (Trung Bộ    II. 370)
"Này gia chủ, sát sanh, do duyên sát sanh tạo ra sợ hãi    hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai,    khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Từ bỏ sát sanh, không tạo ra sợ hãi hận thù    trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, không khiến    tâm cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ sát sanh làm lắng dịu sợ hãi hận thù    này". (Tăng Chi III B. 176)
"Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết". (Pháp Cú. 129)
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như    sau: "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát    sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến    hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Hôm nay, đêm này và ngày    này. Ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết    tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và    loài hữu tình. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực    hành ngày trai giới". (Tăng Chi III. 232)
"Bỏ trượng đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn". (Pháp Cú. 405)
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sinh,    từ bỏ sát sinh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh, đem (sự)    không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh, đem (sự) không hận thù cho vô    lượng chúng sinh, đem (sự) không hại cho vô lượng chúng sinh; sau khi    cho vô lượng chúng sinh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy    sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các    Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ,    được biết là lâu ngày, không bị những Sa-môn, Bà-la-môn có trí khinh    thường". (Tăng Chi III. A. 229)
*
* *
      * *
   TRÍCH DỊCH VỀ TĂNG GIÀ
      Khi đức Phật thành lập đoàn Tăng-già đầu tiên, Ngài chú    ý bận tâm nhất là chế đặt một số giới luật căn bản để bảo đảm một đời    sống thật sự hòa hợp nhất trí giữa các chúng Tăng. Do vậy, Ngài dạy sáu    pháp cần phải ghi nhớ hay sáu phép hòa kỉnh. Ngài khuyên các đệ tử của    Ngài sống với nhau trong tinh thần hòa hợp hoan hỷ với nhau như nước với    sữa, nhìn nhau với cặp mắt đầy thiện cảm. Khi các Tỷ-kheo ở Kosambi cãi    vã nhau, lời khiển trách của đức Phật thật nghiêm khắc và thẳng thắn.
Thiên chủ Ðế Thích có sự kính trọng lớn đối với chúng    Tăng, vì chúng Tăng tượng trưng cho thành phần "không chiến giữa giao    chiến, trầm tĩnh giữa dao gậy". Ðế Thích xem những hạng người này là    thắng trận hai lần, thắng trận đối với mình, thắng trận đối với người    khác, những người, khi bị mắng nhiếc, không mắng nhiếc lại.
Ðức Phật khuyên các Tỷ-kheo nên làm cho Pháp Luật khéo    giảng này được chói sáng với hạnh kham nhẫn và nhu hòa của mình; nên    sống đời sống thanh thoát và an tịnh, một đời sống thật sự hạnh phúc,    khi tâm tư của chư vị đạt được hòa bình, hòa bình trên chính mình, hòa    bình trên thế giới.
* * *
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo, có sáu    pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa    đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp nhất trí. Thế nào là    sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân hành đối với các vị    đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ,    tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến    không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ- kheo, Tỷ-kheo    an trú từ khẩu hành... an trú từ ý hành đối với các vị đồng Phạm hạnh,    cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương    ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận,    hòa hợp nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tài vật nhận    được đúng pháp, hợp pháp, cho đến những tài vật thâu nhận chỉ trong bình    bát, Tỷ-kheo không phải là người không san sẻ các tài vật nhận được như    vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các vị đồng Phạm hạnh có giới    đức. Pháp này... (như trên) ... đưa đến không tranh luận, hòa    hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các giới luật không có    vi phạm, không có tỳ vết, không có vẩn đục, không có uế tạp, giải thoát,    được người trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến Thiền định,    Tỷ-kheo sống thành tựu trong các giới luật ấy với các vị đồng Phạm hạnh    cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này... (như trên)... hòa hợp,    nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tri kiến, thuộc về bậc    Thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chân chánh diệt    tận khổ đau, Tỷ-kheo sống thành tựu tri kiến như vậy, cùng với các vị    đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ,    tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến    không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này,    cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa    đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí". (Trung Bộ I. 321 B)
"Này các Anuruddhà như thế nào các Ông sống hòa hợp,    hoan hỷ với nhau như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện    cảm?" - "Bạch Thế Tôn ở đây chúng con nghĩ như sau: "Thật lợi ích thay    cho ta! Thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng    phạm hạnh như vậy?" Bạch Thế Tôn, do vậy đối với các vị đồng phạm hạnh    này, con khởi lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ    khẩu nghiệp trước mặt và sau lưng,con khởi lên từ ý nghiệp trước mặt và    sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy chúng con nghĩ như sau: "Ta hãy từ bỏ tâm    của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này. Và bạch Thế Tôn,    con từ bỏ tâm của con và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch    Thế Tôn, chúng con khác thân nhưng giống như đồng một tâm". (Trung Bộ I.    206)
"Này các Tỷ - kheo, các Thầy nghĩ thế nào? Trong khi các    Thầy sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh    khí miệng lưỡi, trong khi ấy các Thầy có an trú từ thân hành đối với các    vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không? Các Thầy có an trú từ    khẩu hành đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng    không? Các Thầy có an trú từ ý hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả    trước mặt lẫn sau lưng không?" - "Bạch Thế Tôn, không". Như vậy, này các    Tỷ-kheo, các Thầy đã chấp nhận rằng, trong khi các Thầy sống cạnh tranh,    luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, trong    khi ấy không an trú từ thân hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước    mặt lẫn sau lưng, không an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng Phạm    hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, không an trú từ ý hành đối với các vị    đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Như vậy, này các kẻ ngu kia,    do biết gì, do thấy gì các Thầy sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh,    đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi, và các Thầy không tự thông    cảm nhau, không chấp nhận hòa giải. Như vậy, này các kẻ ngu kia, các    Thầy sẽ phải chịu bất hạnh, đau khổ trong một thời gian dài ". (Trung Bộ    I. 321A-321B)
(Ðế Thích):
"Chư Thiên chiến Tu-la,
Loài Người cùng gây chiến,
Không chiến giữa gây chiến.
Trầm tĩnh giữa đao gậy,
Không chấp giữa chấp trước,
Vậy ta kính lễ chúng ". (Tương Ưng I. 299 - 300)
Sakka vua các chư Thiên nói lên những câu kệ này:
"Người đầy đủ sức mạnh,
Chịu nhẫn người yếu kém,
Nhẫn ấy gọi tối thượng,
Thường nhẫn kẻ yếu hèn.
Sức mạnh của kẻ ngu,
Ðược xem là sức mạnh,
Thời sức mạnh kẻ mạnh
Ðược gọi yếu hơn sao?
Người mạnh hộ trì pháp,
Không nói lời phản ứng.
Bị mắng, nhiếc mắng lại,
Ác hại nặng nề hơn.
Bị mắng, không mắng lại
Ðược chiến thắng hai lần,
Thắng mình và thắng người ". (Tương ưng I. 280-281)"Bà-la-môn tịch tịnh,
Luôn luôn sống an lạc,
Không đèo bòng dục vọng,
Thanh lương, không sanh y,
Mọi ái trược đoạn diệt,
Tâm khổ não điều phục,
Tịch tịnh sống an lạc,
Tâm tư đạt hòa bình ". (Tương Ưng I. 265)"Như Lai, bậc Giác ngộ,
Thương xót mọi hữu tình,
Ai không chịu chấp nhận,
Tội lỗi được phát lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên chặt.
Ta không thích hận thù,
Ta nhận tội các Ông". (Tương Ưng I. 29)
*
* *
      * *
   LỜI DẠY VỀ CÁC HẠNG NGƯỜI THIÊN VỀ CHIẾN TRANH
VÀ HẠNG NGƯỜI THIÊN VỀ HÒA BÌNH.
   VÀ HẠNG NGƯỜI THIÊN VỀ HÒA BÌNH.
Nói một cách tổng quát, có    hai hạng người ở đời. Hạng người thiên về cãi lộn, ưa thích gây sự và có    xu hướng chiến tranh. Có hạng người thiên về sống hòa thuận, hoan hỷ    trong tình bạn và có xu hướng hòa bình.
   Trong hạng người đầu, có    thể phân loại hạng người độc ác, hạng người ngu si và hạng người sống    phóng đãng. Trong hạng người thứ hai được xếp loại hạng người hành    thiện, hạng người có trí, hạng người biết sống chế ngự điều phục.
   Ðức Phật đã phân loại rõ    ràng giữa thiện và ác khuyên tất cả đệ tử của mình không làm ác, làm các    hạnh lành và giữ tâm ý trong sạch. Ngài biết rằng làm ác thì dễ, làm    lành khó hơn, nhưng các đệ tử của Ngài phải biết lựa chọn giữa ác và    thiện, vì kẻ ác phải đi xuống địa ngục và chịu rất nhiều khổ đau; còn    bậc Thiện sẽ được lên cõi Trời và hưởng thọ hạnh phúc. Ngoài ra bậc    Thiện chói sáng như núi Tuyết với hành động thiện của mình. Còn kẻ ác    thời màn đen bao phủ như tên bắn đêm đen.
   Do vậy, đức Phật khuyên    chúng ta không nên làm bạn với kẻ ác, chỉ thân thiện với bạn lành. Ngài    nêu rõ rằng, nếu chúng ta muốn sống, chúng ta phải tránh ác như tránh    thuốc độc, vì một bàn tay không thương tích có thể cầm thuốc độc mà    không có hại gì. Pháp của bậc Thiện không mất, nhưng đi theo người làm    lành đến chỗ các hạnh lành dắt dẫn đến. Các hạnh lành đón chào người làm    lành khi đi từ thế giới này qua thế giới khác, như bà con đón chào người    thân yêu đi xa mới trở về.
   Như vậy, vấn đề đặt ra rất    rõ ràng và dứt khoát. Ác và thiện đều do tại mình tạo ra. Ác đưa đến cãi    nhau, gây hấn và chiến tranh. Còn thiện đưa đến hòa thuận, thân hữu và    hòa bình.
   * * *
   "Không làm mọi điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy ". (Pháp Cú. 183)"Dễ làm các điều ác,
Và các điều tự hại,
Còn việc lợi và tốt,
Thật tối thượng khó làm ". (Pháp Cú. 163)"Ác hạnh không nên làm,
Làm xong chịu khổ lụy.
Thiện hạnh ắt nên làm,
Làm xong, không ăn năn ". (Pháp Cú, 314)"Một số sinh bào thai.
Kẻ ác sinh địa ngục.
Người thiện lên cõi Trời,
Vô lậu chứng Niết-bàn ". (Pháp Cú. 126)"Người lành dầu ở xa,
Sáng tỏ như núi Tuyết,
Kẻ ác dầu ở đây,
Cũng không hề được thấy,
Như tên bắn đêm đen". (Pháp Cú. 304)"Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Sẽ chói sáng đời này,
Như trăng thoát mây che ". (Pháp Cú. 173)"Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân,
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân ". (Pháp Cú. 78)"Ít bạn đường, nhiều của,
Người buôn tránh đường hiểm,
Muốn sống, tránh thuốc độc,
Hãy tránh ác như vậy ". (Pháp Cú. 123)"Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc,
Không thương tích tránh độc,
Không làm, không có ác ". (Pháp Cú. 124)"Như xe vua lộng lẫy,
Cuối cùng bị hư già,
Thân này rồi sẽ già.
Chỉ có pháp bậc Thiện,
Khỏi bị nạn già nua.
Như vậy bậc Chí Thiện
Nói lên cho bậc Thiện ". (Pháp Cú. 151)"Khách lâu ngày tha hương,
An ổn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng". (Pháp Cú. 219)"Cũng vậy, các phước nghiệp,
Ðón chào người làm lành,
Ðời này đến đời kia,
Như thân nhân đón chào ". (Pháp Cú. 220)"Tự mình điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh.
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Ðều do tự chính mình,
Không ai thanh tịnh ai ". (Pháp Cú. 165)
*
* *
         * *
Ðức Phật thấy rõ thái độ    khác nhau của kẻ ngu và bậc trí đối với thế giới này. Kẻ ngu tham đắm,    si mê và trở thành nô lệ cho thế giới này. Nhưng người trí không có đắm    say, không có luyến ái, và xử sự như người chủ nhân đối với đời. Nhưng    lời tuyên bố của đức Phật, sợ hãi, thất vọng tai họa chỉ khởi lên cho    người ngu, không khởi lên cho người trí, là một cảnh cáo nghiêm khắc cho    tất cả chúng ta. Rồi đức Phật tiếp đến tuyên bố rằng người ngu xử sự một    cách khiến cho tự ngã trở thành kẻ thù. Và khi danh vọng đến với kẻ ngu,    kẻ ngu phải chịu bất hạnh và đau khổ. Bậc trí có hành động khác hẳn. Bậc    trí tinh cần giữa những người phóng dật, tỉnh thức giữa những người mê    ngủ, bước tới như con ngựa phi, bỏ sau những kẻ ngu si yếu hèn. Bậc trí    chinh phục Ma và Ma quân, uốn nắn tâm chánh trực, thực hành Thiền định,    kiên trì tinh tấn và nhờ vậy hưởng được hạnh phúc Niết-bàn. Với trí tuệ    của mình, bậc Trí chói sáng đời này gồm có những phàm phu mù quáng và    ngu si. Bậc Trí đứng thẳng như một hoa sen thơm hương và đẹp sắc, sanh    ra từ đống rác quăng bỏ trên đường lớn. Hạnh phúc Niết-bàn và hạnh phúc    Hòa bình chỉ đến với bậc Trí, không bao giờ đến với kẻ ngu.
   * * *
   "Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say ". (Pháp Cú. 171)
"Này các Tỷ-kheo, nếu có sợ    hãi gì khởi lên, chúng khởi lên cho người ngu, chớ không phải cho người    trí. Nếu có thất vọng gì khởi lên, chúng khởi lên cho người ngu, chớ    không phải khởi lên cho người trí. Nếu có tai họa gì khởi lên, chúng    khởi lên cho người ngu, chớ không phải cho người trí". (Trung Bộ III.    188)
   "Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã là kẻ thù.
Làm ác nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay". (Pháp Cú. 66)"Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đến kẻ ngu,
Vận may bị tổn hại,
Não đầu bị nát tan ". (Pháp Cú. 72)"Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê,
Người trí như ngựa phi,
Bỏ sau con ngựa hèn". (Pháp Cú. 29)"Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời.
Chiến thắng Ma, Ma quân,
Bậc trí thoát đời này". (Pháp Cú. 175)"Tâm hoảng hốt dao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên". (Pháp Cú. 33)"Người hằng tu Thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn,
Bậc Trí hưởng Niết-bàn,
Ách an ổn, vô thượng". (Pháp Cú. 23)"Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch đẹp ý người" (Pháp Cú. 58)"Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Ðệ tử bậc Chánh trí,
Sáng ngời với tuệ trí". (Pháp Cú. 59)
*
* *
         * *
Ðức Phật biết rõ tâm tư xu    hướng của chúng sanh. Ngài biết rằng người ngu si chuyên sống đời phóng    túng, buông lung, còn người có trí thời không phóng dật, như giữ gìn tài    sản quí. Do vậy Ngài khuyên người có trí với nỗ lực, không phóng dật,    khéo chế ngự, tự mình xây dựng một hòn đảo mà nước lụt không thể ngập    tràn. Ai trước kia sống phóng đãng nay sống không phóng dật sẽ chói sáng    đời này như trăng thoát mây che.
   Ðối với đức Phật, một người    chiến thắng ngàn quân địch ở chiến trường không thể so sánh với một    người đã tự chiến thắng mình, vì rằng tự chiến thắng mình là chiến thắng    tối thượng. Một người tự điều phục mình thường sống chế ngự. Và một tự    ngã khéo chế ngự và khéo điều phục trở thành một điểm tựa có giá trị và    đáng tin cậy, thật khó tìm được. Người nào ngồi nằm một mình, độc hành    không buồn chán, biết tự điều phục, người như vậy có thể sống thoải mái    trong rừng sâu. Người như vậy sẽ là bậc Ðạo Sư đáng tin cậy, vì rằng tự    khéo điều phục mình rồi mới dạy cho người khác khéo điều phục. Do vậy    đức Phật khuyên mỗi người hãy tự điều phục mình. Chỉ những người khéo tự    điều, những người không phóng dật mới biết con đường chấm dứt tranh    luận, cãi vã, gây hấn và biết sống hòa hợp, thân ái và sống hạnh phúc    trong hòa bình.
   * * *
   "Chúng ngu si, ác trí,
Chuyên sống đời phóng túng.
Người trí không phóng dật,
Như giữ tài sản quý". (Pháp Cú. 26)"Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự,
Kẻ trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn". (Pháp Cú. 25)"Ai trước sống buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Sẽ chói sáng đời này
Như trăng thoát mây che". (Pháp Cú. 172)"Dầu tại bãi chiến trường,
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng". (Pháp Cú. 103)"Tự thắng tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự". (Pháp Cú. 104)"Tự mình nương tựa mình,
Nào có điểm tựa khác.
Nhờ khéo điều phục mình
Ðược điểm tựa khó được". (Pháp Cú. 160)"Tự mình che chở mình,
Tự mình nương tựa mình.
Vậy hãy tự điều phục,
Như thương khách ngựa hiền". (Pháp Cú. 380)"Ai nằm ngồi một mình,
Ðộc hành, không buồn chán,
Tự điều phục một mình.
Người ấy sống thoải mái,
Trong rừng sâu thanh vắng". (Pháp Cú. 305)"Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay, tự điều phục". (Pháp Cú. 159)"Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván,
Bậc tự điều, điều thân". (Pháp Cú. 145)
*
* *
      * *
A: Anguttara Nikàya
Dhp: Dhammapada
E: English
M: Majjhima Nikàya
P: Pàli
S: Samyutta Nikàya
Tăng Chi: Tăng Chi Bộ Kinh
Trung Bộ: Trung Bộ Kinh
Tương Ưng: Tương Ưng Bộ Kinh
V: Việt Nam
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét