HIỆU ỨNG TÂM LỰC (Tỳ Kheo Thích Duy Lực)

 TRƯỜNG HỢP HIỆU ỨNG CỦA TÂM LỰC
Nhà khí công thường tổ chức trường hợp đông ngưòi tập trung tâm lực để trị bệnh, là hiện tượng của ý niệm cảm ứng, tập trung ý niệm của nhiều người để bài trừ bệnh khí, gọi là "khí trường".
Khí trường giống như điện trường, hoặc gọi sinh vật trường, tức làn sóng tin tức trường.. mỗi người đều có tâm lực, phát ra thành khí, nhưng khí trường của cá nhân rất nhỏ, nếu tổ chức thành tập thể, hợp thành khí trường đại qui mô, thì oai lực của nó rất mạnh, lúc đó nhà khí công chỉ cần phát ý niệm tụ hợp tất cả khí trường của mọi cá nhân thành một khối năng lượng truyền cho người bệnh, thì đạt được mục đích trừ bệnh. Do đó người càng đông càng tốt, khí trường càng lớn càng mạnh.
Dùng ý niệm bắn ra năng lượng tin tức, với người thu nhận tin tức (bệnh nhân), lòng tin tưởng của mọi người càng nhiều càng tốt; nếu có ai không tin hoặc chống lại, bắn ra làn sóng tin tức kháng cự, sẽ làm cho hiệu ứng của khí trường.bị giảm bớt công hiệu.
Như thế, bất kể công lực của nhà khí công lớn hay nhỏ, ông ấy chỉ là người điều khiển tổ chức, chủ yếu là tập trung khí trường của mọi người, hợp thành một khối làn sóng tin tức có cường độ cao thì trị bệnh thấy có công hiệu liền. Thí dụ mọi người đều rất tin tưởng do người đó đứng ra tổ chức điều khiển khí trường, cũng có thể đạt được hiệu ứng khí trường rất linh nghiệm.
Theo nghĩa "linh nghiệm" này là linh ở trong cá thể mọi người, sở dĩ linh nhiều là do ý niệm tập trung, tập hợp ý chí lực của quần chúng, gom rút lại thành khối tinh hoa, ấy là hiện tượng công năng mãnh liệt của hiệu ứng khí trường. Theo đó suy biết, nghĩa chữ "linh" chẳng phải huyền bí, "linh" chỉ là khối công năng của tâm lực mọi người mà thôi.
 HIỆU ỨNG LINH NGHIỆM CỦA TÍN NGƯỠNG
Tất cả tôn giáo đều có tín đồ, do lòng thành kính của tín đồ có thể tạo ra một vị thần linh chí cao vô thượng, lại cũng có công năng của vị thần linh ấy thật sự hiện ra. Hiện tượng hiển linh có nhiều hình thức khác nhau, như sám hối, cầu nguyện, tụng kinh, niệm chú v.v… đều có thể xuất hiện những hiện tượng hiển linh, những công năng hiển linh này đôi khi cũng khiến người bất khả tư nghì, ấy gọi là "hiệu ứng tín ngưỡng", cũng là càng đông càng tốt.

HIỆU ỨNG NHẬP MA CỦA NHỮNG NGƯỜI MÊ TÍN
Kỳ thật hiệu ứng hiển linh chẳng những có thể xuất hiện trong hoạt động tôn giáo, còn xuất hiện trong hoạt động mê tín nơi dân gian đời xưa như cách thức các thứ hoạt động "cầu cơ", "mời linh cô", "mời dĩa thần"… đều thuộc ý niệm tổ hợp khí trường, tụ tập khí trường của nhiều người cũng được xuất hiện thần linh, "linh" này hoàn toàn xuất phát từ trong tâm của kẻ sùng bái, hoàn toàn thuộc về "thần nhân tạo".
Vậy bất cứ dùng danh hiệu nào để làm đối tượng sùng bái (như ông lên bà xuống…), chỉ cần nhóm người sùng bái đầy đủ tin tưởng thành kính, thông qua ý niệm hoạt động tổ chức khí trường, đều có thể hiển linh. Hiện tượng hiệu ứng này gọi là hiệu ứng nhập ma, xưa nay hiện tượng này luôn tồn tại, trải qua nhiều đời, cũng do thật sự có xuất hiện trạng thái công năng bất khả tư nghì, khiến người mê tín tẩu hỏa nhập ma, muốn thôi chẳng được.
 NGUYÊN LÝ DÙNG Ý NIỆM NĂNG DỜI VẬT
Thí dụ: Thuốc viên đựng trong chai
* Vật chất thật thể ® dùng ý niệm lực hư hóa ® thành vật chất hư thể ® ý niệm chuyển hóa lại ® thành vật chất thật thể.
* Mục tiêu của ý niệm ® bắn ra làn sóng tin tức ® làn sóng đến tột đỉnh ® ý niệm giảm bớt lại ® trở thành mục tiêu cũ.
* Tự xoay theo tốc độ thường ® gia tăng tốc độ tự xoay ® siêu tốc độ ánh sáng chuyển thành hư tử ® giảm bớt ý niệm tự xoay ® trở lại tốc độ thường.
* Hiển tánh chiếm không gian ® hiển chuyển thành ẩn ® hư tử ẩn bay, chẳng chiếm không gian ® giảm ẩn tăng hiển ® trở lại hiển tánh, chiếm không gian.
* Vật thể của không gian ba chiều ® dùng ý niệm lực tăng chiều ® vật hư tánh, thuộc bốn chiều ® ý niệm giảm chiều ® trở lại vật thể thuộc ba chiều.

Xem biểu đồ trên biết được ý niệm năng sanh ra hiệu ứng siêu việt không gian thời gian, kỳ thật là dùng ý niệm đem sự vật của không gian ba chiều vận động theo phép tắc vận động của không gian bốn chiều, tiêu trừ chướng ngại của vật chất thật thể, quá trình này gọi là ẩn hiển chuyển hóa. Người có công năng đặc biệt dù chẳng cố ý gia tăng tốc độ tự xoay của vật thể, nhưng trong ý niệm đã sẵn có ý niệm năng mãnh liệt soi trên vật mục tiêu, khi ấy vật mục tiêu bị kích thích, tự sanh ra phản ứng gia tăng tốc độ tự xoay, hiện ra công năng chuyển hóa.
Theo sự hiểu biết của khoa học hiện đại, tất cả vật chất trong vũ trụ đều do nhiều hạt nguyên tử tổ chức mà thành, mỗi mỗi nguyên tử do điện tử xoay vòng theo hạt tâm của nguyên tử mà thành, tốc độ tự xoay của mỗi nguyên tử bằng 1/3 – ½ của tốc độ ánh sáng, nếu tốc độ xoay vòng này bị ý niệm lực kích thích gia tăng tốc độ đến siêu tốc độ ánh sáng, thì nguyên tử thật tánh liền chuyển hóa thành nguyên tử hư tánh, như những vật thể do nhiều nguyên tử thật tánh hợp thành (thuốc viên hiển) ắt phải bị hóa thành nguyên tử hư tánh (thuốc viên ẩn), nó chẳng chiếm không gian. Theo lý luận khoa học vũ trụ, dùng ý niệm lực trong một niệm dời vật đến chỗ chỉ định, rồi giảm bớt tốc độ, phục hồi nguyên vật như cũ, thì hoàn thành một lần ẩn bay.
 SỰ SAI BIỆT CỦA CƠ ĐIỆN LỰC VÀ Ý NIỆM LỰC
Khoa học hiện đại xử dụng cơ điện lực đem hình ảnh và âm thanh quay thành phim, chuyển hóa thành làn sóng điện và làn sóng âm thanh, phát ra từ đài truyền hình, qua máy truyền hình tiếp thu rồi hiện ra hình ảnh và âm thanh như thật, dù diễn lại bao nhiêu lần cũng không thay đổi chất lượng tiêu chuẩn; còn xử dụng ý niệm lực, đem vật chất thật thể chuyển hóa thành vật chất hư thể thì chẳng phải lần nào cũng giống nhau và đạt được hiệu quả, vì do tinh thần có lúc khỏe mạnh hoặc yếu kém mà phát ra cường độ của ý niệm lực mạnh yếu khác nhau. Do đó có thể trong nhiều lần biểu diễn đôi khi lại có một lần thất bại. Nguyên nhân thất bại là do ý niệm lực chưa đủ mức độ thúc đẩy sự gia tăng tốc độ tự xoay của vật thể, để đạt đến siêu tốc độ ánh sáng thì thật tử chẳng thể biến thành hư tử, nhưng chẳng thể vì sự thất bại đó mà phủ nhận sự tồn tại của ý niệm năng.
 KỸ THUẬT KHÍ CÔNG CÓ THỂ PHỔ BIẾN KHÔNG ?
Theo sự phỏng đoán sơ bộ, hiện nay Trung Quốc có hơn 30 triệu người học khí công, trong đó có mấy triệu người đã được phần nào lợi ích, sau khi họ đã được lợi ích rồi thường nhắc đến vấn đề phổ cập hóa khí công học, hy vọng mọi người đều đắc được sự bổ ích của luyện tập khí công, ít nhất có thể mở mang trí huệ và dưỡng sinh, giữ gìn sức khỏe.
Theo quan điểm của chúng tôi, có thể trong mười năm tới sẽ từng bước phổ cập hoạt động khí công trong phạm vi toàn quốc. Kỳ thật chỉ cần tăng thêm một tiết khí công học trong các trường tiểu học, trung học và đại học, hoặc hòa nhập chung với môn thể dục cũng được, như vậy trải qua một chu kỳ mười năm, sự phổ cập hóa sẽ được hoàn thành.
 BA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VỀ KHÍ CÔNG HỌC :
Theo qui luật tiến hóa của loài người, ai cũng mong muốn giải thoát đạt đến tự do tự tại, tự nhiên sẽ đi tìm kiếm đường lối đề cao công năng của mình, do đó môn khí công học sẽ hình thành một phong trào sôi nổi. Nhưng làm sao được thỏa mãn nguyện vọng của mình ? Thông thường có thể chia làm ba giai đoạn, ấy là: Học – Ngộ – và kiểu in ấn (copy).
Quá trình học khí công chẳng phải dễ, bắt chước được động tác của thầy lại không nắm vững công năng của thầy, có người đã học năm, ba năm mà đối với khí công vẫn còn cảm thấy " chưa đắc khí, chưa đắc công". Vì khí công chẳng như toán học vật lý, môn học này thường chỉ có thể ý hội, chẳng thể ngôn truyền.
Do đó, phải bước vào giai đoạn thứ hai, nên nhà khí công lúc truyền thọ chú trọng dẫn dụ học viên dùng phương thức ngộ để tăng cường sự học.
Nếu ngộ vẫn chưa đủ lý tưởng thì bước vào giai đoạn thứ ba, sự truyền thọ sẽ xuất hiện trạng thái kỳ lạ: tức dùng cách "ban cho" (copy), giống như đem một bài văn chương dùng máy photocopy in lại trên tờ giấy trắng, chẳng sai một chữ. Người có công năng đặc biệt đem mật mã công năng trong bộ óc dùng ý niệm lực di chuyển toàn bộ công năng "in" trong bộ óc của học viên, như thầy đem công năng sở hữu của mình ban cho học trò, khiến họ có kỹ thuật điều khiển ý niệm như thầy, nếu thực hiện được như thế thì quá bất khả tư nghì. Thật ra, sự quán đảnh của Mật tông cũng có nội dung giống nhu copy, có thể gọi là "truyền thọ công pháp trong một niệm".
 MẬT MÃ TÂM LINH VỚI CƠ NHÂN
Mật mã sinh mạng ghi trong tâm linh, khác với cơ nhân di truyền, cái trước là mật mã tin tức thuộc hư tánh, cái sau là dấu hiệu cơ nhân khắc trên thể xác, là thật tánh.
Sửa đổi mật mã trong tâm linh là trực tiếp cải tạo nhân tố tư duy, đề cao thể sinh mạng lên một tầng lớp; còn cơ nhân chỉ sửa đổi thể xác trong sinh mạng, ấy chỉ cải tạo cơ thể từ giống này qua giống khác trong cùng một thứ lớp, chứ chẳng thể khiến sinh mạng nhảy lên thêm một lớp (siêu việt thêm một chiều).
Loài người do chẳng biết cách cải tạo mật mã tâm linh, nên đối với động vật hai chiều ba chiều, chỉ có thể cải tạo thể xác của chúng, mà chẳng thể khiến chúng từ sinh mạng cấp thấp nhảy lên hàng ngũ của sinh mạng cao cấp. Do đó chúng ta chẳng thể hiểu rõ thần tánh của động vật, mặc dù chúng ta đôi khi cũng làm chúa tể của chúng, khống chế sinh hoạt của chúng, nhưng chưa thể điều khiển mật mã tâm linh của chúng.
 MẬT MÃ TÂM LINH
Tin tức tâm linh theo hình thức mật mã phân chia thành nhiều loại, tâm linh của mọi người mỗi mỗi đều sẵn có dấu hiệu mật mã khác nhau, do đó sinh mạng có muôn ngàn sai biệt, mỗi mỗi có cá tính khác biệt.
Dù chẳng thể sửa đổi và điều khiển mật mã của người khác, nhưng có thể qua sự tu luyện để sửa đổi mật mã của chính mình. Vì nhiều người chẳng tin điều này, nên triết học phương Đông thường bị xem thành khu vực thần bí.
Nhưng đối với việc thần bí cũng cần nên tìm hiểu, như vật lý khoa học phát triển đến ngày nay, đối với sự vật trong vũ trụ ngày càng phát hiện nhiều hiện tượng không thể giải thích; vì không hiểu nên cảm thấy thần bí. Từ trên trời, dưới đất, cho đến công năng đặc biệt của nhà khí công v.v…những hiện tượng bất khả tư nghì thúc đẩy chúng ta nên thăm dò để tìm hiểu, nếu không thì nhiều vấn đề mịt mù chẳng thể giải đáp như những tai họa thiên nhiên với hoàn cảnh ô nhiễm v.v…khiến sự sinh tồn của loài người xuất hiện nhiều nguy cơ mà các nhà trí thức,chính trị và khoa học đang lo âu.
Vậy những hiện tượng thần bí khó hiểu cần nghiên cứu và giải quyết cấp bách mới được.

NGHIÊN CỨU CẦN PHẢI KIẾN LẬP LÝ LUẬN
Nghiên cứu chẳng phải điều tra, điều tra chỉ là cung cấp tài liệu, cũng như người phương Tây nghiên cứu dĩa bay, cứ lẩn quẩn trong giai đoạn điều tra lời báo cáo hư thật của người chứng kiến, tốn hao kinh phí đã nhiều, trải qua bốn mươi mấy năm cũng chẳng kết quả gì.
Do đó, chúng tôi đề nghị nếu thật muốn nghiên cứu tìm hiểu, chẳng những tiến hành điều tra, cần phải kiến lập lý luận từ đầu, sáng lập quan niệm mới, học thuyết mới, không hoàn toàn ỷ lại tri thức toán lý hiện hữu và quan niệm cũ.
Vũ trụ mênh mông, sự nghiên cứu phải bắt đầu từ đâu ? Từ nghiên cứu chính mình. Vì sinh mạng của chính mình là sự thật thần bí số một trong vũ trụ, câu hỏi "Ta là ai?" ai có thể giải thích cho rõ ràng ? Cái "TA" này chẳng phải hoàn toàn chỉ là thể xác của chúng ta, còn có phần tinh thần tâm linh chúng ta còn chưa biết, vùng sâu tâm linh có bao nhiêu việc thần bí đang xuất hiện các nơi, nhưng sự nhận thức của chúng ta đối với bản chất của những sự vật đó còn quá kém!
Cũng như hình ảnh trong gương chỉ là biểu tượng bề ngoài của chúng ta, là bề mặt của thể xác; giải phẫu sinh lý của chúng ta chỉ là vật thể chuyên chở sinh mạng chúng ta. Nên trước tiên chúng ta cần nghiên cứu chính mình; lúc nào được hoàn toàn thấu rõ bản lai diện mục của ta gọi là ngộ. một việc thấu thì tất cả đều thấu, sáng tỏ được thật chất của tâm linh thì đối với vật chất linh tánh của vũ trụ mỗi mỗi đều thông suốt cả.

CÁCH NGHIÊN CỨU TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH
Thông qua kỹ thuật khí công có thể hiểu được chính mình. Vì pháp khí công là pháp tìm cầu bên trong, từ nội bộ thân thể của mình tìm ra nghĩa lý giải thích sự thần bí của sinh mạng. Sinh mạng chẳng giống sinh vật học dùng giải phẫu thể xác để tìm hiểu, vì khi giải phẫu thể xác, tâm linh đã lìa khỏi, sự giải phẫu chỉ có thể nghiên cứu vật thể vận tải sinh mạng mà chưa thể tiếp xúc chủ nhân của sinh mạng.
Dùng kỹ thuật khí công giải phẫu sinh mạng của chính mình mới được nghiên cứu sâu vào, sáng tỏ nơi bí ẩn của sinh mạng và người chủ sinh mạng - Tâm linh. Việc này chẳng thể nhờ máy móc, phải dùng cảm ứng soi thấu nội bộ của tâm linh, dùng công năng của tâm linh tự nghiệm chứng, mới là chân thật tỉ mỉ cụ thể. Nhưng chỉ còn một điều không tiện, nghĩa là chẳng thể đem ra cho mọi người công khai thưởng thức, vì ngũ giác quan của con người đối với việc này chẳng có khả năng để cảm nhận, ấy cũng là quy luật vũ trụ.
Kỳ thật, khí công cũng có khuyết điểm, công năng của khí công dù phát triển đến cao tột, chỉ có thể phát hiện một bộ phận rất nhỏ của tâm linh. Sự phát hiện toàn diện của tâm linh gọi là Kiến tánh, chỉ có pháp Thiền trực tiếp do Phật Thích Ca truyền dạy mới có thể đạt đến. Thiền này hiện nay gọi là Tổ Sư Thiền, sự thật hành của pháp Thiền này rất giản dị nhưng lại rất khó tin. Theo tư tưởng của người hiện đại, đối với khí công dễ tin và dễ cảm nhận hơn; còn đối với Tổ Sư Thiền lại rất khó lãnh hội mà sanh khởi lòng tin chơn thật, sự tin tưởng giữa khí công và Tổ Sư Thiền với tỷ lệ có thể bằng triệu đối với một. Do đó chúng tôi chỉ nhấn mạnh về môn khí công học, mục đích là dễ phổ biến hơn.
 Theo truyền thống học thức của phương Tây chú trọng về đơn vị "điểm"; còn theo truyền thống học thức của phương Đông chú trọng về toàn diện. Người phương Tây đem toàn diện phân khoa thành nhiều đơn vị để học, mỗi người theo sở trường của mình chọn một môn nghiên cứu sâu vào một điểm, gọi là trí thức chuyên môn, ví như nghiên cứu đề tài sinh mạng (thể xác), đã đi sâu vào đến nhân tố di truyền DNA, cho đến mức cao độ của lượng tử học, phân tử học, nhưng họ thiếu sót cái nhìn toàn diện, dù tiến đến chỗ tột đỉnh cũng không rõ được tổng khái niệm của thể toàn diện. Cũng như nhà sinh vật học hiện nay vẫn chưa biết được tâm linh học là thế nào, chỉ biết về thể xác của sinh mạng, chẳng rõ được mật mã tâm linh của sinh mạng.
Theo truyền thống học thức phương Đông luôn dùng toàn diện quán, trường tư thục Trung Quốc đời xưa chẳng phân khoa, chẳng phân chia chuyên nghiệp, tài tử đời xưa phải gom đủ các thứ tài năng: cầm, kỳ, thi, họa, văn chương; phải học hết các sách Tứ Thư Ngũ Kinh, Kinh Dịch, y dược, thiên văn địa lý, và tơ tầm v.v… trên thể toàn diện nắm đủ tri thức của mọi ngành, nhưng hễ bề mặt rộng thì bề sâu không đủ, ấy cũng là khuyết điểm.
Do đó chúng tôi đề nghị kết hợp sở trường của Đông Tây phương, đem vật lý hiển tánh và triết lý ẩn tánh của toàn diện vũ trụ cùng đi song song, như sinh mạng, tinh thần, vật chất, y dược khí công, dĩa bay… lớn từ Thái dương hệ, ngân hà hệ của thiên thể, nhỏ từ điện tử, quang tử, vi phân tử, cho đến làn sóng tin tức (khái niệm thời gian chẳng chiếm không gian), tất cả đối lập đều thống nhất, tiến hành nghiên cứu cộng tánh và cá tánh về hoằng quán toàn diện của khoa học vũ trụ.
Việc nghiên cứu này cần tiến hành theo sự hướng dẫn của triết lý vũ trụ, chia lối cùng bước, để tránh khỏi sự ràng buộc của tư tưởng có giới hạn giữa hai phái duy tâm và duy vật.
Quá trình nghiên cứu của sự tổng kết hợp này trước tiên là mở rộng đường lối thông linh, ước mong siêu việt tâm lý học và khoa học hiện đại, xúc tiến một cuộc cách mạng về kỹ thuật khoa học đổi mới, sáng tạo môn khoa học thích ứng với không gian bốn chiều – Tức kỹ thuật khoa học vũ trụ vô cực. Kết quả thế nào, hãy để thời gian nghiệm chứng tánh ngộ của chúng ta.
Nói tóm lại, chúng ta kiến lập lý luận khoa học mới này, mục đích mong được giải tỏa phần nào nguy cơ về sự sinh tồn trong thế giới ba chiều như thiên tai, bão lụt, ô nhiễm, chiến tranh, đói khát, bệnh hoạn v.v…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét