15 nguyên tắc thiền tập cho những người mới khởi sự tập thiền
Nữ thiền sư Ajahn Naeb
Uyển Minh dịch
Uyển Minh dịch
-ooOoo-
1.- Hành giả cần sửa soạn những gì để hành thiền?
Hành giả phải hiểu thấu đáo ý nghĩa của Vipassana Bhavana- phát triển tuệ giác, nghĩa là phải hiểu Danh và Sắc. Mục đích chính của sự phát triển tuệ giác là để hiểu hai yếu tố này. Danh (tâm hay trạng thái tâm) và Sắc (hình thể hay vật chất) phải đụợc hiểu thấu đáo để trí tuệ biết rõ được rằng chúng là đối tượng để hành thiền.
2.- Khi hiểu rõ Danh và Sắc, bạn có thể quán sát Danh và Sắc trong giây phút hiện tại.
Danh Sắc, được sử dụng như là những đối tượng thiền quán trong Thiền Minh sát, là những điều kiện tinh thần và vật chất đang xảy ra ngay trong thân thể của bạn. Như vậy Danh Sắc phải là những gì trong phút giây hiện tại. Bạn phải nắm được điều này cùng những yếu tố liên hệ bởi vì đấy là những tính chất hiển nhiên của Danh Sắc khi quán sát.
3.- Khi nhìn hay quán sát Danh Sắc, hành giả phải cảm nhận được Danh, cảm nhận được Sắc.
Danh Sắc phải luôn hiện hữu trong tâm hành giả và luôn là đối tượng để quán chiếu. Không có một thứ Danh Sắc cố định nhưng là những gì hiện tiền trong phút giây ta quán sát. Nếu ngay lúc đó chúng không nằm trong chánh niệm của bạn thì phải biết rằng theo Thiền Minh sát, bạn đã thất niệm, đã đi sai đường. Một khi chánh niệm được thiết lập lại thì Danh Sắc sẽ xuất hiện trở lại trong cảm thọ mới và đó là những Danh Sắc của khoảnh khắc đặc biệt này.Nếu lỡ đi sai đường thì đừng quá lo lắng mà chỉ bắt đầu quán trở lại Danh Sắc. Nhưng xin hãy nhớ là phải lấy chúng làm đối tượng quán chiếu, sử dụng chúng theo đúng nguyên tắc Chánh niệm (Satipathana).
4.- Trong lúc thiền tập, hành giả phải cẩn thận đừng khởi tâm mong cầu, tham đắm hay thắc mắc.
Ngay khi quán sát Danh Sắc hành giả lại khởi tâm muốn quán sát, sở hữu, thắc mắc, muốn nhìn thấy Danh Sắc hay muốn thấy chúng sanh khởi và hoại diệt, muốn Thiền Minh sát khởi lên, thì tất cả những tâm này không đúng mà cũng không ích lợi gì cả. Lại một lần nữa tâm đã đi lạc vào những chuyện vô ích và hành giả phải bắt đầu trở lại.
5.- Ðừng quán sát Danh Sắc cùng một lúc.
Khi quán sát Sắc pháp thì chỉ quán Sắc pháp. Khi quán Danh pháp thì chỉ quán Danh pháp. Ðừng bao giờ quán cả hai thứ cùng một lúc, chúng không được cùng là đối tượng thiền quán. Ðiều này ta phải luôn nhớ kỷ.
6.- Phải chú trọng đến các oai nghi.
Dù hành giả không cần bận tâm đến những tiểu oai nghi, nghĩa là những cử động nhỏ như quay đầu v.v..; nhưng trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi ta không được sửa đổi nếu thấy không cần thiết.
7.- Nếu muốn đổi oai nghi hay muốn cử động, hành giả phải biết rõ nguyên nhân hay lý do muốn sửa đổi oai nghi.
Lý do hay nguyên nhân này rất quan trọng. Và ta cần phải nhấn mạnh lần nữa là khi muốn đổi oai nghi dù ít hay nhiều, hành giả phải biết rõ nguyên nhân hay hiểu lý do trước khi sửa đổi.
8.- Ðừng sử dụng những oai nghi khác thường.
Hãy làm những oai nghi bình thường hay đơn giản, đừng dùng những oai nghi đặc biệt. Chúng ta phải tập làm quen với những vị thế bình thường khi ta đi, đứng, ngồi, nằm. Muốn dùng các oai nghi làm đối tượng thiền quán, ta phải dùng những oai nghi mà ta quen thuộc. Ðừng dùng những vị thế đặc biệt hay không bình thường bởi đó không phải là Vipassana. Vipassana sử dụng những gì bình thường hay quen thuộc. Ðó là những vị thế thoải mái, không cần thay đổi gì nữa. Ðiều cần thiết là phải biết và hiểu những oai nghi đang khi thiền quán. Dù ngồi hay nằm, chúng ta cũng phải chánh niệm và hoàn toàn biết rõ vị thế ta đang có. Ta dụng tâm y như đang quán sát chỉ một đoạn của cuốn phim đang được ngưng lại (trên màn ảnh). Khi đang quán sát các oai nghi, ta phải quán sát Sắc pháp- Rupa. Khi ngồi, ta ý thức thế ngồi là sắc chất. Khi đứng, ta ý thức thế đứng là sắc chất. Khi nằm ta ý thức thế nằm là sắc chất. Và khi đi, ta sẽ ý thức thế đi là sắc chất.Hành giả phải luôn luôn cẩn thận và phải nhận biết được Danh Sắc ngay khi hành thiền, nghĩa là thấy sắc chất ngồi, sắc chất đi, sắc chất đứng, sắc chất nằm; và đối với Danh cũng vậy, khi ta quán sát các trạng thái tâm.
9.- Ðừng chú ý quá tỉ mỉ đến các oai nghi.
Nhiều hành giả cố ý làm thái quá, ví dụ như đi rất chậm hay cử động quá chậm để lấy một cái gì. Làm như vậy sẽ khiến tư tưởng "muốn" phát sinh (muốn đi, muốn ngồi v.v...). Khuynh hướng làm quá mức trong khi hành thiền chưa được nhuần nhuyễn sẽ khiến cho việc hành thiền bị chi phối bởi tâm "muốn". Nếu tâm muốn khởi lên thì tâm này nằm trong "tham" (lobha). Mục đích của hành thiền là trừ tâm ô nhiễm- tham, sân, si nhưng nếu thiền quá tỉ mỉ thì lại tăng trưởng các ô nhiễm, bởi vậy tâm này không hữu ích khi hành thiền. Hành giả nếu có tâm này sẽ bị thụt lùi.
10.- Khi hành thiền, đừng làm bất cứ điều gì không cần thiết.
Nếu không cần thiết thì đừng nói quá hơn mức đòi hỏi.Nếu không cần thiết thì đừng nói chút nào cả.Nếu không cần ngồi thì đừng ngồi. Ði, đứng, nằm cũng vậy. Nếu không cần đổi oai nghi thì đừng đổi. Chỉ đổi khi thật cần thiết.
11.- Trước khi làm bất cứ điều gì, bạn phải hiểu lý do cần thiết rồi mới làm.
Trước khi đổi oai nghi hay trước khi làm bất cứ việc gì như là ăn, tắm. tiểu v.v... hay đi, đứng. nằm, ngồi, bạn phải thấu hiểu sự cần thiết của hành động. Nhận thức này rất cần để hành thiền được tiến triển. Nếu hành giả không cẩn thận về chuyện này, anh ta sẽ thấy là mình "muốn đi", hay đi và đứng mà không biết lý do tại sao mình lại muốn như vậy. Cũng vậy, khi đi thiền hành, hành giả nghĩ đến chuyện đứng lại và sẽ dừng lại. Những việc như thế này không nên để xảy ra khi đang hành thiền. Ðừng quên là bạn chỉ được làm những gì cần thiết. Khi bạn đứng lại, phải biết tại sao cần đứng lại rồi thì bạn có thể dừng lại. Bạn phải biết nguyên nhân, lý do của nhu cầu muốn dừng. là vì bạn cảm thấy mệt mỏi, nó buộc bạn phải ngừng chứ không phải chỉ là tâm hay ý muốn đứng lại.
12.- Ðừng nghĩ những gì bạn đang thực tập là để hành thiền.
Khi bạn sắp đi, đứng, nằm, ngồi, đừng nghĩ là bạn đứng để thiền, đi để thiền, ngồi để thiền, nằm để thiền. Ðừng có ý nghĩ rằng bạn muốn làm những điều này chỉ để hành thiền. Có thể bạn sẽ nghĩ việc này không cần thiết nhưng thực sự đây là điểm cần chú ý. Tôi sẽ giảng rõ trong một phần khác.
13.- Khi bạn quán sát oai nghi hay Danh Sắc, bất cứ một danh sắc nào. lúc đó đừng nghĩ là bạn muốn có tâm an lạc.
Khi quán sát danh sắc, đừng nghĩ bạn làm như vậy để đạt được sự an lạc hay định. Khi dán tâm trên một điểm cố định nào, đừng nghĩ bạn không thể hay sẽ không rời tâm khỏi chỗ đó, bạn để tâm cố định, không di chuyển hay thay đổi tâm khỏi ý niệm đang có. Ta đừng nên có tâm này.Hành giả không nên nghĩ như vậy khi đang nhìn ngắm hay quán sát. Một vài hành giả quán sát danh sắc nhưng tâm lại mong được an lạc nên cứ dính mắc ý tưởng này. Họ cứ mong sống hoài trong trạng thái đó và gạt ra ngoài mọi thứ khác. Ðây là một trạng thái Ðịnh mà ta không nên sử dụng. Có khi lại còn ý định hay mong muốn được thấy danh và sắc, được phát triển tuệ giác, được thấy các pháp sinh khởi từ những gì đang nhìn thấy, hoặc muốn thấy các pháp sanh diệt. Tất cả các tâm này đều không hữu ích.
14.- Khi hành thiền, tâm phải như khán giả đang ngồi xem kịch chứ đừng cố đạo diễn vở kịch.
Ý muốn bắt phải làm theo một phương thức hay khiến nó phát sinh theo cách này hay cách khác đều không ích gì trong Vipassana. Bạn phải làm sao để tâm như là khán giả đang xem kịch. Muốn được như vậy, tâm- citta phải ở con đường trung đạo. Nếu tâm không ở trung đạo, nó sẽ rơi vào tham, sân. Hễ tham, sân có mặt thì tuệ giác rất khó phát triển.
15.- Hành giả không nên khởi tâm mong đạt đến sự an lạc.
15 điểm này tuyệt đối rất quan trọng để hành giả hiểu thấu đáo hầu hành trì có kết quả.
Giải thích về 15 nguyên tắc thực hành
Sau đây là cuộc đối thoại tham vấn giữa Bà Thiền sư Neab (Upasika: Ưu-bà-di) và hai vị sư, Thầy Prasart và Thầy Soontorn ("Phra" là tiếng Thái, có nghĩa là Đại đức).
-ooOoo-
Ðiểm 1: Phải hiểu Danh trước khi thực hành thiền định
Phra Prasart: Xin hãy giải thích: "Cái gì là Danh, Cái gì là Sắc? Ngài nói: "Chúng ta phải hiểu Danh trước khi thực hành thiền định", đây là điểm tôi muốn được giải thích, về chữ Danh, Sắc mà Ngài dùng. Danh, Sắc là gì? Danh, Sắc ở đâu?
Upasika Naeb: Những thứ này xuất hiện khi bạn thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, hay khi đi, đứng, ngồi, nằm.
Phra Prasart: Tôi mới khởi sự hành thiền. Giả sử mắt tôi thấy Danh, Sắc. Nhưng lại không hiểu bằng mắt mà muốn học hỏi thấu đáo và hiểu thấu đáo Danh là gì? Sắc là gì? thì phải thực hành hay quán sát chúng theo phương thức nào?
Upasika Naeb: Mắt thấy sắc hay màu sắc. Những gì có thể thấy bằng mắt là Sắc pháp tự nhiên. Nhưng sự nhìn thấy hay tác động ngắm nhìn là Danh .
Phra Prasart: Qua lỗ tai, cái gì là Sắc, cái gì là Danh?
Upasika Naeb: Âm thanh là Sắc, nghe một cách tự nhiên hay tác động nghe là Danh
Phra Prasart: Qua lỗ mũi, cái gì là Sắc, cái gì là Danh?
Upasika Naeb: Mùi hương là Sắc, sự nhận ra mùi hương hay tác động ngửi là Danh.
Phra Prasart: Qua lưỡi, cái gì là Sắc, cái gì là Danh?
Upasika Naeb: Mùi vị là sắc, sự nhận ra mùi vị một cách tự nhiên hay tác động biết mùi vị là Danh.
Trong một pháp, khi một sắc pháp tác động vào mắt, bạn chỉ nhận ra màu sắc (nhạt hay đậm) khi nó đối chiếu với màu sắc khác.
Phra Prasart: Qua thân hay xúc chạm, cái gì là Sắc, cái gì là Danh?
Upasika Naeb: Qua thân hay xúc chạm, thân xúc chạm có cảm giác lạnh, nóng, mềm, cứng là Sắc, sự nhận thức tự nhiên hay tác động biết được lạnh, nóng, mềm, cứng là Danh. Tính chất lạnh, nóng, mềm, cứng tác động vào thân khi thân xúc chạm là Sắc; nhưng cảm giác đau đớn, bệnh hoạn vọp bẻ, ngứa, bao tử đau buốt và những cảm giác khác (thọ khổ trong thân) là Danh.
Nhờ thân này mà chúng ta biết được Sắc qua thân, Danh qua thân. Và nhờ những thứ này mà mọi pháp sẽ sanh khởi trong chúng ta vào thời điểm đó.
Phra Prasart: Nhưng qua tâm, cái gì là Danh, cái gì là Sắc?
Upasika Naeb: Qua tâm là trong những oai nghi chính và tiểu oai nghi. Oai nghi chính là đi, đứng, ngồi, nằm. Tiểu oai nghi là duỗi tay ra, nắm tay lại và những cử động nhờ nơi thân như là duỗi tay chân, đánh răng, đi tắm, ăn uống, tiểu tiện, đại tiện, cúi đầu, lắc đầu hay quay đầu. Ðó là Sắc pháp qua tâm vì tâm ra lệnh cho những hành động đó. Nhưng sự nhận biết tự nhiên hay tác động biết được mình ngồi, nằm, đứng, đi là Danh. Suy nghĩ, trầm tư, cảm thấy buồn ngủ, tâm nghĩ lan man, giận dữ, mong muốn hay tham dục v.v... cũng là Danh pháp qua tâm.
Nhờ tâm mà chúng ta biết được sắc "qua tâm" và Danh "qua tâm". Bạn phải nhận biết được như vậy trong bất cứ pháp nào khởi lên rõ ràng trong chúng ta vào thời điểm đó. Thể nghiệm qua thân cũng dùng phương pháp tương tự. Ðiều quan trọng là ta phải biết cái gì là Sắc, cái gì là Danh.
Ðiểm 2, 3: Quán sát và cảm nhận danh sắc - dùng bất cứ giác quan nào trong giây phút hiện tiền cho đến khi bạn hoàn toàn quen thuộc với nó
Phra Prasart: Bà nói chúng ta phải biết Danh và Sắc rõ ràng rồi tiếp tục ý thức được chúng trong giây phút hiện tại, luôn luôn trong giây phút hiện tại! Khi đã chấp nhận Rupanam (đối tượng của sắc), hay màu sắc là Sắc và cảm nhận cái thấy là Sắc, Bà lập lại là trước khi khởi sự, ta phải nhận biết Danh Sắc đúng đắn. Bà nói nhận biết được Danh Sắc qua mắt là như thế nào, xin hãy giải thích.
Upasika Naeb: Nhãn thức- thấy được sắc là sự xem xét, khiến cho "cái thấy" của thầy cảm nhận được đang thấy sắc. Ngay lúc thầy biết và cảm nhận là thầy đang thấy thì thầy sẽ ý thức là mình đang thấy sắc. Khi thầy ý thức mình đang thấy sắc, hay đang xem xét mình đang thấy sắc, thì thầy phải luôn cảm nhận tương tự .
Phra Prasart: Bà nói ý thức mình đang thấy sắc là nghĩa thế nào?
Upasika Naeb: Bởi vì hành động thấy là Sắc. Thầy phải ý thức là đang quán sát sự "thấy biết về sắc" (nhãn thức), mục đích là để loại trừ sự hiểu lầm về Ngã hay là Attha đã quỷ quyệt chen vào sự thấy, làm cho ta có cảm tưởng là Ta đang thấy. Hãy khoan đi xa hơn để quán sát Rupa mà phải tiếp tục quán sát sự thấy biết. Tại sao phải quán sát sự thấy biết? Bởi vì cái ta, cái ngã có thể len vào "cái thấy" (khiến ta có cảm tưởng là ta đang làm chủ hành động "thấy"). Bởi thế chánh niệm phải quán sát "sự thấy" để nhận biết rõ tình trạng này và từ bỏ đi cái "ngã" hay tà kiến (Atthannuditthi hay Sakkayaditthi: tưởng sai lầm về cái ta, ngã, cho là ta đang kiểm soát, vận hành sự quán sát hay thấy biết).
Phra Prasart: Atthannuditthi? Có nghĩa là ta đang thấy phải không?
Upasika Naeb: Ðúng vậy. Ta có cảm tưởng là ta làm chủ hành động thấy nhưng thực tế không phải vậy. Ta chỉ thấy Danh. Cho nên nếu muốn quán sát Danh, ta phải đưa sự thấy biết đó (nhãn thức) làm đối tuợng thiền quán. Vipassana là người quán sát (hay là ý thức). Hãy phát triển vô ngã.
Phra Prasart: Tôi đã hiểu rồi. Nhưng tôi có cần quán sát "sự thấy biết Danh pháp" để hiểu thực tại rằng "Tôi" không phải là sự thấy?
Upasika Naeb: Ðiều quan trọng hành giả cần phải hiểu ngay khi quán sát là chỉ có cảm nhận mà không có tư tưởng. Nếu có ý nghĩ "thấy được Danh pháp" thì nhất tâm sẽ sanh khởi và sẽ có Ðịnh. Như vậy chỉ nên có cảm nhận là đang nhìn Danh pháp. Tại sao chỉ có sự cảm nhận? Ta phải hiểu thật rõ điều này trước khi khởi sự. Sau này tôi sẽ giải thích rõ ràng hơn. Trước khi khởi sự hành thiền, hành giả phải hiểu rõ ràng, thấu đáo Danh và Sắc. Như tôi đã giải thích: cái thấy là Danh hay Sắc, điều này phải được hiểu rõ ràng để khi hành giả quán sát, anh ta biết là anh ta đang quán sát cái gì.
Ðây là điểm quan trọng: đừng đắm chìm trong tư tưởng. Khi thầy thấy một Danh hay Sắc nào thì đừng "nghĩ" (think) mà hãy "cảm nhận" (feel) đó là Danh hay Sắc. Cho nên thật là cần thiết để hành giả hiểu rõ trước khi khởi sự, rằng suy nghĩ và cảm nhận hoàn toàn khác biệt. Nếu điều này không được làm sáng tỏ thì vẫn chỉ là tư tưởng; và khi tập thiền bằng cách này thì tư tưởng không phải là thực tại hiện tiền.
Phra Soontorn: Tôi thật muốn hiểu rõ ràng tại sao "suy nghĩ" và "cảm nhận" lại khác nhau. Khi cảm nhận thì ta không cần suy nghĩ, có đúng vậy không?
Upasika Naeb: Thí dụ khi ta lặp đi lặp lại: "Buddho, Buddho" hay "Araham, Araham", đây chính là suy nghĩ. Củng như khi ta suy nghĩ xem thử những chuyện của thời xưa hay trong tương lai có xác thực hay không. Nhưng với "cảm nhận" thì ta thấy được thực tại của khoảnh khắc hiện tiền và "cảm nhận" không phải là "suy nghĩ". Cũng như thấy và nghe là cảm nhận chứ không phải là tư tưởng. Khi nghe, ta không cần suy nghĩ xem có nghe được không. Cũng như lúc đang ăn, ta cảm nhận là ta đang ăn, đang ăn cơm; ta không "nghĩ" là ta đang ăn cơm. Cảm nhận là đối tượng duy nhất vì lúc đó ta không suy nghĩ.
Trong Vipassana, nếu hành giả đang suy nghĩ thì anh ta đánh mất giây phút hiện tại và đối tượng hiện tiền. Vì khi quán sát, tâm trí sẽ lấy tư tưởng làm đối tượng và như vậy là không nắm bắt được đối tượng hiện tiền. Ngay khi suy nghĩ là tâm thầy đã đánh mất đối tượng hiện tiền và thay vào đó là đối tượng của tư tưởng, một đối tượng do tư tưởng tạo ra. Cho nên xin đừng suy nghĩ, chẳng hạn như: ta đang ngồi; bởi ta đã biết "ngồi" (oai nghi) là Sắc nên ta chỉ cảm nhận là ta thấy Sắc chất đang ngồi. Nếu ta suy nghĩ và cứ lặp đi lặp lại: "ngồi là Sắc" v.v... thì là ta đang "suy nghĩ" và như vậy là ta đã đánh mất cảm nhận về sự tạo tác của Sắc pháp ta đang nhận biết, nghĩa là Sắc pháp đang hiện tiền và sự cảm nhận đang hiện tiền. Ðiều này thật là vô dụng cho việc hành thiền Minh sát. Nhưng khi chúng ta phát triển Ðịnh hay đang lúc hành trì thì có thể làm như vậy bởi vì trong Ðịnh, tư tưởng chỉ nghĩ đến một đối tượng duy nhất, một điểm duy nhất mà không dời qua điểm khác. Nhưng trong Vipassana thì không làm như vậy được. Ta cần có đối tượng hiện tiền như nó đang chịu sự cảm nhận của ta vào giây phút đó .
Phra Soontorn: Tâm ta phải thấy được thực tại vào giây phút đó, đúng vậy không?
Upasika Naeb: Ðúng vậy, bởi vì những cử động và tạo tác là đối tượng của Vipassana. Hành thiền Minh sát Tuệ là xem xét, quán sát điều ta đang làm.
Phra Prasart: Suy nghĩ và cảm nhận! Làm sao mà có sự khác biệt giữa suy nghĩ và cảm nhận? Chúng ta có nên chỉ cảm nhận mà không tiến xa hơn để suy nghĩ hay sao?
Upasika Naeb: Trong lúc này, chỉ bằng cảm nhận thì ta mới có thể thấy Danh pháp, chỉ thấy mà thôi, chúng ta chỉ nhận biết là đang thấy Danh pháp. Chỉ có Chánh-niệm biết được thân ta đang làm gì, nghĩa là đang thấy. Trong lúc "thấy" đó, chúng ta phải sử dụng Danh pháp, cái Danh pháp đang "thấy" vì đây chính là đối tượng của Vipassana. Ðối tượng đó sẽ mang đến cho trí tuệ cái thực tại. Và chính trí tuệ này đang xem xét chứ không phải tư tưởng. Chúng ta hiểu được Vipassana nhờ phương pháp nhận ra trí tuệ chính là sự nhận biết.
Phra Prasart: Với tai, ta quán sát như thế nào?
Upasika Naeb: Với tai, ta quán sát Danh pháp "nghe" .
Phra Prasart: Danh pháp nghe, có phải là cảm nhận nghe, đúng không?
Upasika Naeb: Ðúng. Có âm thanh và có sự nghe. Khi thầy nghe là nghe âm thanh. Có những âm thanh và cảm nhận nghe. Nhưng ta không thể quán sát âm thanh. Cho nên ta hãy xem xét cảm nhận nghe, cũng y như thấy bằng mắt vậy. Ta phải lấy "sự nghe" làm đối tượng của Vipassana.
Phra Prasart: Còn mũi thì sao? Với mũi, ta quán sát thế nào?
Upasika Naeb: Với mũi, cái cảm nhận biết được mùi rất là rối rắm vì cảm nhận của chúng ta thường không rõ ràng nên ta hay lẫn lộn về mùi vị. Ta nghĩ là ta hôi thúi hay thơm tho. Ta có thể thơm hay thúi nhưng thực tế là sự thơm hay thúi là mùi hương của vật chất; tuy nhiên ta lại cho sự thơm hay thúi của vật chất là chính ta khiến ta bị thúi hay thơm. Bởi vậy khi quán sát bằng mũi, ta phải quán sát Sắc pháp "mùi", có nghĩa là quan sát sắc chất thúi hay thơm. Chúng ta không quán sát "cảm nhận thúi" hay "cảm nhận thơm" vì với mũi lại khác biệt với mắt và tai khi ta quán sát cảm nhận thấy và cảm nhận nghe. Cũng y như "cái ngã" khác biệt như thế nào? Ngã nằm ở đâu? "Chúng ta" ở đâu? "Tôi" ở đâu? Ðôi khi có những thứ chúng ta cho là Sắc nhưng thực sự lại là "ta" hay "ngã". Có khi ta lại cho Danh là "ngã". Như vậy mọi thứ tùy thuộc vào cảm nhận mà cảm nhận là Ngã.
Nếu cảm nhận lại cho Sắc là ngã thì ta phải quán sát Sắc. Nếu cảm nhận lại cho Danh là ngã thì ta lại quán sát Danh.
Phra Prasart: Với mắt, với tai ta cảm nhận "sự thấy", "sự nghe" như là "ngã", là "ta". Những cảm nhận này là Danh, vậy thì ta phải quán sát Danh. Chẳng hạn khi quán sát bằng mũi, ta thấy hôi hay thơm thì ta quán sát "Sắc pháp ngữi". Sắc pháp thúi hay thơm, bất cứ thứ gì chúng ta cho là "ngã".
Nhưng với lưỡi, chúng ta quán sát cái gì, quán sát Danh hay quán sát Pháp?
Upasika Naeb: Hãy lại quán sát Sắc, cũng y như với mùi hương. Với lưỡi, hãy quán sát Sắc pháp nếm. Ta phải cảm nhận đó là Sắc chất nếm, vậy là được rồi.
Phra Prasart: Chúng ta có phải quán chua và ngọt không?
Upasika Naeb: Ta chỉ quán Sắc pháp nếm hay chỉ quán Sắc pháp chua hoặc ngọt thì cũng tốt thôi. Cũng như khi ta quán sát sắc pháp mùi hương, ta có thể quán sát Sắc pháp mùi, hay là sắc pháp thúi hoặc thơm. Các việc quán sát này ta đều có thể làm được.
Phra Prasart: Sắc pháp chua, Sắc pháp ngọt, Sắc pháp thơm, Sắc pháp thúi! Có phải chúng đều là những tên gọi thôi không?
Upasika Naeb: Ðúng, chúng đều là những tên gọi, nhưng đó là thực tại, vì chúng có thực nên ta có thể sử dụng chúng.
Phra Prasart: Với mũi, ta dùng mùi hương làm đối tượng thiền quán. Với lưỡi, ta dùng mùi vị làm đối tượng thiền quán. Và phương pháp quán sát là chỉ biết Sắc pháp mùi hương và mùi vị. Nhưng với thân thể thì ta quán sát như thế nào?
Upasika Naeb: Với thân ta phải quán sát Sắc chất, cái cảm nhận khi thân thể xúc chạm, khiến ta cảm thấy lạnh, nóng, cứng, mềm. Ðó là sắc pháp. Nhưng ta lại hiểu là TA lạnh, ta nóng, ta mềm hay ta cứng; rồi đem tính chất lạnh, nóng, mềm, cứng của Sắc chất mà cho là ngã, là ta. Cho nên ta phải hiểu cái thực tế nóng, lạnh, mềm, cứng không có liên hệ gì đến ta nhưng chỉ là những điều kiện của vật chất. Khi bất kỳ sắc pháp nào xúc chạm hay đụng đến ta, ngay giây phút đó thầy phải nhận ra là thầy đang quán sát Sắc pháp lạnh hay đang nhìn, thấy Sắc pháp lạnh, Sắc pháp cứng v.v...
Phra Soontorn: Ngay lúc quán sát Sắc pháp, ta chỉ quán sát một Sắc pháp riêng biệt?
Upasika Naeb: Ðúng vậy.
Phra Soontorn: Trong một vài bài Kinh có nói, trong tiếng Pali, ba giác quan qua mũi, lưỡi và thân được cho vào chung một tên, đó là Mutam bởi sự cảm nhận đối tượng hiện tiền có cùng một đặc tính. Nếu Sắc pháp xúc chạm thần kinh nằm ở xa thì ta không có cảm nhận, nhưng nếu Sắc pháp đó đụng hay xúc chạm thầy thì thầy có thể biết nó rõ ràng. Như vậy, khi quán sát, thầy phải quán sát sắc pháp qua cả ba cửa: mũi, lưỡi, thân vì đối với những sắc pháp này mà ta nghĩ sai lầm là ta hôi, thơm, có mùi khét, mùi chua, chúng ta lạnh, nóng v.v... Còn về cảm nhận với mắt và tai (dittham, sutam) thì dù Sắc pháp màu và âm thanh đến từ xa và chạm vào thần kinh thầy, thầy cũng có thể cảm nhận rõ ràng rồi nghĩ lầm rằng TA thấy, TA nghe. Khi sự ngộ nhận nằm trong Danh pháp thấy và nghe thì ta phải quán sát Danh pháp. Ðức Phật dạy Phra Paheyu trên con đường đạt đến Pintapata rằng chỉ có 4 thức: thấy (dittham), nghe (sutam), Ngữi, nếm, xúc chạm (mutam) và ý thức (vinnanam); nhưng đôi khi với 4 thứ này Phật lại nói có 6, bởi vì Mutam được chia ra làm 3 thức qua mũi, lưỡi và thân thay vì chỉ có một.
Phra Prasart: Còn về những đặc tính của mùi hương, mùi vị, nóng lạnh, mềm cứng, chúng có khác nhau không?
Upasika Naeb: Nếu ta được phép quán sát tất cả trong Sắc thì tất cả đều là Sắc pháp.
Phra Soontorn: Bà dạy quán sát tất cả đều là Sắc pháp. Ðiều này có nghĩa là xếp đặt cho chúng là Sắc pháp nhưng không có nghĩa là mùi hương và mùi vị là một thứ.
Phra Prasart: Còn với tâm thì sao?
Upasika Naeb: Với tâm, luôn sử dụng bốn oai nghi .
Phra Prasart: Còn về định khi ngồi thì sao? Làm sao để được định khi đi, đứng, ngồi, nằm?
Upasika Naeb: Bốn oai nghi chính là đi, đứng, ngồi, nằm; tiểu oai nghi như là co, duỗi tay. Kinh Maha-satipatthana giảng giải làm thế nào để biết các tạo tác của thân. Khi thầy ngồi, thầy phải nhận biết rằng vị thế ngồi đang được cảm nhận để thầy biết là ta đang thấy Sắc chất ngồi. Thấy Sắc chất ngồi có nghĩa là thấy vị thế ngồi. Ðiều này là Sắc pháp, là chuyển động của Sắc pháp.
Phra Prasart: Tính cách của "thấy" là chú tâm hoàn toàn trên sự thay đổi (chuyển động) của oai nghi đó, có phải vậy không?
Upasika Naeb: Quán sát để biết oai nghi ngồi có thể gọi là: cảm nhận, biết, nhìn, thấy hay xem xét. Tóm lại, thấy biết rõ ràng, thấu đáo có nghĩa là thấy thân trong thân, thấy ngay trong tạo tác hay trong Sắc pháp. Ðiều quan trọng là thầy phải luôn luôn nhớ Danh và Sắc và theo dõi những cảm nhận của thầy. Thầy phải cảm nhận là thầy đang nhìn thứ Danh này hay Sắc kia.
Phra Soontorn: Mục đích quan trọng khi nhìn là thầy biết thầy đang nhìn Sắc pháp gì
Upasika Naeb: Ðúng rồi. Cũng như khi ta nhìn sắc pháp ngồi, sắc pháp nằm, Sắc pháp đứng, Sắc pháp đi, thầy phải biết không chỉ có một mà là nhiều Sắc pháp (điều này có nghĩa là có nhiều tạo tác, chuyển động và vận động khác nhau). Ðiều cụ thể là thầy có thể thấy tất cả điều này trong một Sắc pháp: vật chất ngồi và cũng cùng vật chất này lại đứng. Chẳng có gì khác nhau giữa vật chất nhưng ta không nên có tư tưởng này vì nó sẽ trở thành "ngã" (attha). Thầy không thể quan sát một đống "vật chất" mà phải tách biệt chúng ra. Một điều khác nữa, khi quán sát để chỉ biết có vị thế ngồi nhưng ta lại không cảm nhận được Sắc pháp ngồi là ta đã không loại trừ ý niệm "ngã" ra ý niệm ngồi.
Chúng ta hãy cảm nhận đang khi chúng ta nhìn ngắm. Sự cảm nhận khi nhìn thấy Sắc pháp ngồi hay Sắc pháp nằm cốt là để thấy được Sắc pháp này khác biệt và không cùng một thứ với những Sắc pháp khác. Ðiều này rất có ích để loại trừ sự dồn các vật chất thành một đống (lẫn l?n vào nhau, không phân biệt từng thứ).
Phra Prasart: Với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chúng ta biết rằng Niệm (sati) đang quán sát chỗ này, chỗ kia. Nhưng với các oai nghi, ta cảm thấy ta không thể nào thấy được ta phải ngồi ở đâu và ngồi như thế nào cho được thành công (Siddhi)?
Upasika Naeb: Ta chỉ nên biết những việc ta đang làm, biết những hành động và động tác của oai nghi hiện có (một hành động gồm nhiều động tác). Ðối với oai nghi, điều quan trọng là trước khi tập thiền ta phải hiểu rõ bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Thầy phải có được sự hiểu biết này để khi khởi sự tập thiền thì hành động và động tác được đồng nhất. Muốn được vậy thầy phải hiểu rõ trước khi nhập cuộc. Tuy nhiên, cảm nhận của thầy sẽ thay đổi phần nào để biết đây chỉ là Sắc chất ngồi .
Phra Soontorn: Sắc chất đứng, ngồi, nằm- ba Sắc chất này đều có đặc tính ở yên một chỗ, không có cử động. Chỉ trong Sắc chất đi là có sắc chất chuyển động. Ba Sắc pháp đứng, ngồi, nằm đều có một vị thế cố định nên ta chỉ cần nhận biết vị thế cố định đó. Nếu vậy thì kiến thức về tất cả oai nghi đều không cần thiết trong giai đoạn này. Ðó chỉ là sự cố định chứ không di chuyển từ điểm này qua điểm khác.
Upasika Naeb: Cố định vào một điểm là làm giới hạn điểm đó. Mà chúng ta không thể làm được điều này bởi luôn luôn có sự chuyển động (thay đổi). Thầy phải nhận biết mọi chuyển động bởi thầy không thể thiền tập nếu chỉ nhận biết và hiểu có một oai nghi ngồi hay bất kỳ oai nghi nào khác. Ðiều này không có nghĩa là ta phải giữ một oai nghi và một nhận thức cố định, nhưng chúng ta phải cảm nhận đây chỉ là Sắc chất ngồi.
Phra Prasart: Chúng ta vẫn phải để Niệm (Sati) làm chủ sao? Chúng ta phải có Niệm và cảm nhận đây chỉ là Sắc chất ngồi.
Phra Soontorn: Khi thầy đã thấy đúng Sắc chất ngồi thì sắc chất đứng và Sắc chất nằm cũng tương tự. Nhưng còn Sắc chất đi thì sao?
Upasika Naeb: Với sắc chất đi, chúng ta chú trọng đến chuyển động khi bước (nhấc chân lên phía trước). Nếu không bước thì cũng không đi, dù là chân có chuyển động. Khi quán sát Sắc chất bước hay đi, chúng ta hãy để Niệm cảm nhận sự chuyển động, sự bước đi. Sati không phải là nhận biết nơi gót chân hay ống chân, hay ở một phần đặc biệt nào cho dù là ta vẫn cảm biết nơi chân. Nếu không bước tới thì Sắc chất đi vẫn chưa xuất hiện.
Phra Soontorn: Sati là nắm bắt được ngay khi chân nhấc khỏi sàn nhà, có đúng vậy không?
Upasika Naeb: Ðiều này không cần thiết. Chúng ta chỉ cần nhận biết bước chân bình thường. Nhưng nếu vì sợ không nhận biết rõ chuyển động khi chân bước mà ta quá chú trọng đến những gì vượt mức bình thường thì chúng ta có thể đã hiểu sai lạc trước khi bắt đầu thiền tập. Nếu ta nhận biết rõ việc "bước" và "đi" trước khi thực hành thì khi khởi sự, ta sẽ thấy rất rõ chuyển động khi bước. Việc nhận biết rõ này cũng không có gì khác lạ, đó chỉ là cảm thọ mới rằng đây chỉ là "Sắc chất đi" (in the bank) trong tâm thức. Chúng ta sẽ không cảm nhận rõ điều này nếu chưa thực sự hiểu được Sắc chất-Rupa
Phra Prasart: Nghĩa là chúng ta chỉ cần hiểu Sắc chất đi là gì?
Upasika Naeb: Biết vậy cũng đủ rồi. Chúng ta chỉ cần có vậy. Nhưng sự xem xét hay nhận biết tinh tế ngay khi nhấc chân lên hay trong những chi tiết tỉ mỉ của bước đi, thì chỉ có người đại trí mới làm được. Tuy nhiên, ngay cả những bậc như vậy cũng không thể quán sát, chia chẻ một bước chân ra làm sáu phần, bởi điều này không cần thiết. Ngay cả việc chia làm ba phần cũng không ích gì, bởi ngay lúc bước đi, thầy chỉ cần quán xét có một bước đó. Người nào có khả năng quán một bước thành sáu phần thì cảm thọ có thể xuất hiện trong sáu phần đó; nhưng việc ta làm không phải để quán sát hay chia chẻ các phần ấy ra. Bậc Thánh trong giai đoạn này là những bậc A-la-hán như Phra Sariputta- Bà Xá Lợi Phất. Ngay trong bước đi bình thường có Niệm để theo dõi và nhận biết, Bà đã có thể thấy sự nhấc lên và hạ xuống đến sáu lần trong một bước nhờ Cavanacitta của Bà. Và đây là một bộ óc bén nhạy hơn chúng ta nhiều.
Phra Soontorn: Vấn đề là đừng quán sát một bước thành sáu phần.
Upasika Naeb: Ta không nên thử làm điều này vì ta không thể quán sát như bậc Ðại trí. Niệm của chúng ta chỉ để cảm nhận từng bước chân. Khi trí tuệ phát triển, ta có thể biết bất cứ phần nào hay bất cứ điểm nào nhưng điều này chỉ có được với trí tuệ tích lũy (Panna). Ta chỉ cần quán sát hay nhận biết từng bước một là đủ rồi.
Phra Soontorn: Ta chỉ cần thấy được động tác bước đi, chỉ vậy mà thôi, có đúng không?
Upasika Naeb: Ðúng rồi. Hãy quán sát động tác bước, chỉ động tác bước mà thôi.
Phra Soontorn: Nhưng còn Satisampajanna để tìm gặp thì nằm ở đâu?
Upasika Naeb: Ta sẽ bắt gặp cùng với động tác bước đi, cũng y như ta đã làm trước khi ta tập hành thiền. Ðây là điều quan trọng trong sự phát triển Thiền Minh Sát.
Ðiểm 4: Đừng quán sát với mục đích là mong muốn một điều gì.
Phra Soontorn: Ðiểm này là thế nào? Trong lúc quán sát, ta phải chú trọng để đừng nghĩ là chúng ta sẽ chỉ quán sát những gì ta muốn quán sát, như là muốn thấy sự nhấc lên và hạ xuống (của Danh và Sắc). Nếu chúng ta không muốn thấy sự nhấc lên và hạ xuống thì tại sao lại hành thiền, mục đích để làm gì?
Upasika Naeb: Nếu có sự mong muốn len vào trong việc hành thiền thì ta không thể nào sử dụng nó bởi "muốn" là tâm tham - Lobha (luyến niệm). Nếu ta không thể thấy những gì muốn thấy, và nếu ta không có được những gì ta muốn thì tâm sân - Dosa sẽ nỗi lên.
Phra Prasart: Nhưng nếu chúng ta thực tập Vipassana mà không mong cầu gì cả thì việc thực tập sẽ không tích cực mà bị sa lầy hoặc tiến chậm.
Upasika Naeb: Bởi vì thấy là phải "nhìn" chứ không phải vì "muốn thấy". Nếu chúng ta đang nhìn thì dù muốn hoặc không muốn nhìn, ta cũng phải thấy. Như vậy, nếu ta "muốn nhìn" thì phải biết là ta sẽ tăng trưởng ô nhiễm, phiền não (defilements) khi nhìn như vậy; cũng y như kilesa hay tâm mong muốn sẽ điều khiển sự nhìn ngắm và làm khuất lấp thực tại của giây phút hiện tiền. Bất cứ khi nào tâm tham muốn hiện lên, nó cũng khiến thầy cảm thấy dễ chịu, thông thường là như vậy. Bất cứ một đối tượng nào, cho dù là Sati - Niệm hay Panna - Trí tuệ mà thầy mong cầu đạt được đều làm cho thầy cảm thấy trạng thái này thật là dễ chịu hay trạng thái kia thật là hữu ích. Nhưng thực tế nó chẳng tốt lành gì vì đó không phải là sự nhận ra được lẽ vô thường, khổ,vô ngã. Bởi vậy bất cứ khi nào có tâm mong cầu thì cảm giác dễ chịu, thoải mái sẽ len vào và như vậy cảm giác khó chịu khi nhận thức được sự vô thường lại không hiện lên được.
Người bình thường khi làm điều gì thì tâm mong muốn đều len lỏi vào; và khi tâm mong muốn hiện ra hay muốn làm gì, chúng ta đều nghĩ việc đó là tốt nên khởi tâm mong cầu, có đúng vậy không? Người bình thường đều như vậy, nên khi ta tách rời sự mong cầu ra khỏi những cảm thọ trong từng trạng thái thì điều này rất khó. Ta phải có sự hiểu biết tốt và đúng đắn, ta phải sử dụng sự quán sát. Ðiều này rất quan trọng cho hành giả.
Phra Prasart: Hãy từ bỏ tất cả tâm mong cầu, dù là mong thấy được sự phồng xẹp. Chẳng ích chi cả!
Upasika Naeb: Ta hoàn toàn không thể sử dụng chúng được. Tại sao phồng xẹp lại không hữu ích? Chỉ là vì chúng ta mong cầu chúng. Vì khi mong muốn là ta nghĩ chúng quan trọng và tốt cho ta, có đúng vậy không?
Phra Prasart: Khi thực hành, hầu như ai cũng mong thấy được sự phồng xẹp vì họ nghĩ điều này rất tốt
Upasika Naeb: Ðiều thực sự không phải là thế. Nếu cứ tiếp tục như vậy, hành giả không thể đạt đến Thanh tịnh Ðạo, bởi tham dục (tanha - craving) và tà kiến ((ditthi - wrong view) Thanh tịnh Ðạo là có được sự thanh tịnh, không còn ô nhiễm. Có 7 giai đoạn sẽ hiện hữu trong tâm hành giả. Ta phải giữ mình đừng có tâm tham và tà kiến và phải xa lánh chúng. Kinh Mahasatipatthana (Đại niệm xứ) dạy rằng không nên nuôi dưỡng tham dục; ta có thể sử dụng lời dạy này để đạt đến Thanh tịnh đạo. Ðiều quan trọng là ta có ngồi với tâm mong cầu hay không, bởi vì khi ngồi và quán sát Sắc chất ngồi, ta cảm nhận như thấy được Sắc chất ngồi. Tất cả hành giả, khi quán sát "Sắc chất ngồi", họ nghĩ là họ sẽ quán sát với mục đích nhìn được điều này hay điều nọ là họ đều chìm đắm trong một trò tiêu khiển không nên có hoặc bị cấm. Thêm một điều khác nữa, là nếu không cần thiết thì đừng cử động. Nếu ta có những cử động không cần thiết thì tâm tham sẽ luôn khởi lên. Nhưng thường thì ta chỉ sử dụng những vị thế cần thiết, phải vậy không? Nhưng nếu vì cần thiết mà ta làm vậy thì cũng khó mà không bị ô nhiễm, bởi tất cả đều khởi đi từ sự mong cầu.
Phra Prasart: Như vậy nếu không cần thiết thì đừng sử dụng những oai nghi. Nhưng nếu ta không sử dụng chúng thì có nên từ bỏ những oai nghi này không?
Upasika Naeb: Không. Ta không thể từ bỏ chúng bởi ta cần sử dụng chúng vào thời điểm cần thiết. Nhưng ta phải luôn luôn ghi nhớ rằng ta sử dụng chúng chỉ vì ta cần chứ không phải vì ta muốn sử dụng chúng. Nếu không làm như vậy thì ta khó thể tránh khỏi bị ô nhiễm.
Ðiểm 5: Chúng ta không thể quán sát danh sắc cùng một lúc
Phra Prasart: Bà dạy ta không thể quán sát Danh và Sắc cùng một lúc mà phải quán sát riêng biệt. Tại sao lại phải như vậy? Mọi người đều bảo là họ quán sát Danh Sắc. Như vậy chúng ta sẽ quán sát cả hai cùng một lúc, ta có làm vậy được không?
Upasika Naeb: Chúng ta không thể quán sát Danh Sắc cùng một lúc. Nếu chúng ta không hiểu được lẽ thật thì cứ nghĩ hầu như ta có thể quán sát cả hai thứ cùng một lúc. Chẵng hạn như khi ta bước, ta cố quan sát cả hai thứ cùng một lúc bằng cách nghĩ rằng bước là Sắc còn nhận thức là Danh; hay ngồi là Sắc còn nhận thức là Danh; hoặc nằm là Sắc còn nhận thức là Danh. Ðiều này không thể được bởi khi thầy vừa nghĩ, vừa lập đi lập lại, lẩm nhẩm: "ngồi là Sắc" "biết là Danh" v.v... thì ngay lúc đó, đối tượng thiền định đã là Sắc, làm sao ta lại đưa Danh làm đối tượng được. Danh là tác nhân của Vipassana-Thiền Minh sát. Ðây là điểm ta đang tìm hiểu. Và đang khi Sắc là đối tượng để quán sát thì ta không thể biết Vipassana bằng cách cố gắng đi tìm hiểu tác nhân của nó là Danh, vốn không thể là đối tượng quán sát được vì nó không hiện diện đang lúc Sắc vẫn còn là đối tượng thiền quán .
Phra Prasart: Ðiều này có nghĩa là chúng ta không thể quán xét để biết cả hai thứ trong cùng một lúc. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu hai đối tượng riêng biệt nhau.
Upasika Naeb: Ðúng rồi. thầy sẽ đưa Sắc là đối tượng hay đưa Danh là đối tượng. Thầy phải lựa chỉ một thứ mà thôi; điều này tùy thuộc vào từng lúc, khi mà một trong hai thứ xuất hiện rõ ràng hơn trong tâm thầy.
Ðiểm 6: Phải cẩn trọng với các oai nghi
Phra Prasart: Trong điểm này Bà bảo là nếu ta sử dụng các tiểu oai nghi hay nếu ta đổi oai nghi nhưng lại không phải vì nhu cầu cần thiết thì đừng nên đổi hay sử dụng chúng. Xin hãy giải thích làm thế nào để ta quán xét, để nhận biết cái gì cần, cái gì không cần.
Upasika Naeb: Về mức độ cần thiết thì ta không thể phân định rõ ràng được bởi nó tùy thuộc nhu cầu hay mức đòi hỏi của từng người. Ta không thể nào ngồi yên trong một thời gian dài mà không động đậy, ta cũng cần nhúc nhích đôi chút. Tương tự như vậy, khi ngồi, nằm, đi, đứng, ta không thể nào nằm mãi mà thỉnh thoảng phải đổi vị thế.
Phra Prasart: Khi cần đổi vị thế, hành giả có thể có cảm tưởng muốn cố gắng đổi oai nghi một cách tốt đẹp (nghĩa là rất chậm và cẩn thận). Ta có thể sử dụng những cảm tưởng như vậy không?
Upasika Naeb: Ðừng nghĩ ta có thể đổi oai nghi theo cách đó. Bởi khi ta thay đổi hay cảm nhận nhu cầu nhu cầu muốn thay đổi, ta phải biết là ta đang khó chịu và ta đổi oai nghi vì cần phải đổi (để bớt đau hay bớt khó chịu), chúng ta không thể nào tiếp tục nếu không thay đổi.
-ooOoo-
Xem thêm (các bài PPCT viết):
Lưu ý quan trọng: Chúng ta theo đạo giác ngộ ra sự thật cho nên điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải làm là tìm ra cho được "giáo pháp nào sẽ đưa cho chúng ta đến cái giác ngộ thật sự", tức là chúng ta "tìm ra cho được những lời nào là lời dạy thật sự của Đức Phật, chứ không phải tìm ra hay bảo vệ cho được lời của ông này, bà kia hoặc là tông phái kia. Cái đó chính là tìm cái Thánh Cầu (Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh) và lánh xa cái Phi Thánh Cầu (là cái không đem lại giác ngộ).
Xem thêm (các bài PPCT viết):
Lưu ý quan trọng: Chúng ta theo đạo giác ngộ ra sự thật cho nên điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải làm là tìm ra cho được "giáo pháp nào sẽ đưa cho chúng ta đến cái giác ngộ thật sự", tức là chúng ta "tìm ra cho được những lời nào là lời dạy thật sự của Đức Phật, chứ không phải tìm ra hay bảo vệ cho được lời của ông này, bà kia hoặc là tông phái kia. Cái đó chính là tìm cái Thánh Cầu (Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh) và lánh xa cái Phi Thánh Cầu (là cái không đem lại giác ngộ).
Cho nên, các sư thầy (bất kỳ sư thầy nào) nếu tìm ra được những sai trái
của PPCT trong vấn đề "phương pháp và chánh kiến để đi đến giác ngộ
Niết Bàn" thì PPCT xin đón nhận lời chỉ dạy chân tình của bất kỳ ai nếu
có sự giải thích, chứng minh rằng PPCT sai (dù là một người mới tu hành 1
tháng hoặc tu 60 năm). PPCT không hoan nghênh những ý kiến không liên
quan đến giác ngộ mà trái lời Phật dạy (phải đúng là lời Phật dạy liên
quan đến phương pháp giác ngộ). Chúng ta tu theo lời Phật chứ chúng ta
không tu theo đạo tham ái (đạo này là đạo phản lại Tứ Diệu Đế, phản lại
lời Phật). Nếu chúng ta tu theo đạo tham ái (đạo không đem đến giác ngộ)
thì có lẽ chúng ta không cần bất kỳ tôn giáo nào cả, có rất nhiều nhà
hiền triết Tây Phương và Đông Phương để chúng ta học theo họ, hoặc chúng
ta có thể tập thiền yoga, tập thái cực quyền, tập khí công là các
phương pháp rèn luyện thân tâm hiệu quả cao. Tuy nhiên, phải biết rằng
giáo pháp giác ngộ chân thật của Đức Phật dạy là để vượt qua, chiến
thắng tất cả hữu và phi hữu để không còn phải gánh chịu bất kỳ sự khổ
đau nào dù là quá khứ, hiện tại, tương lai. Điều đó có nghĩa là chúng ta
vượt qua luôn cái thiện, để hướng đến cái cao hơn cái thiện và không bị
dính mắc vào cái thiện. Vì sao các bạn biết không? Cái thiện không tồn
tại lâu dài nên nó sẽ mang mầm móng đau khổ và sẽ bị hoại diệt. Nếu bạn
nào hiểu được điều này sẽ hiểu Phật và hiểu được hành động của PPCT.
Các bạn hãy suy nghiệm lời này để biết vì sao theo Đại Thừa Giả Mạo Lời
Phật là sai trái:
"Bạch Thế Tôn, đối
với chúng con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế
Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết ý nghĩa
lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì." (Kinh Tăng Chi, Chương Tám Pháp, Niệm, Cội Rễ Sự Vật)
Người ta đắc đạo Giác Ngộ
hay không là nhờ trung thành với lời dạy nguyên thủy của Đức Phật chứ
không phải tuân theo lời dạy của bất kỳ tông phái, tôn giáo nào mà không
đem lại Giác Ngộ Niết Bàn. - Đại Thừa - Kinh Niệm Phật Ba La Mật xuyên tạc Bát Chánh Đạo - Mừng ngày Phật đản rằm tháng 4
- Quà Chánh Pháp dành cho bất kỳ sư Đại Thừa nào nhân ngày Phật đản
- PPCT "chia sẽ" giác ngộ cho tất cả các thiền sư Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn
- PPCT "chia sẽ" giác ngộ cho tất cả các thiền sư Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn
- PPCT "chia sẽ" giác ngộ cho tất cả các thiền sư Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét