CHÁNH KIẾN - Ledi Sayadaw (Pháp Thông dịch)


CHÁNH KIẾN TƯỜNG GIẢI (Sammàtthi Dìpanì) -Ledi Sayadaw



Diṭṭhibandhanabandheyya,
Taṇhāsotena vāhite
Satte nāyaka tāresi
Bhagavantassa te namo .
Nhờ con thuyền Bát Chánh
Thiên, Nhơn Sư độ chúng
Rối ren trong biển ái
Trôi lăn trong biển ái
Kính đảnh lễ Thế Tôn.
(Nhờ con thuyền mang tên "Bát Chánh Đạo", bậc Đại Đạo Sư của chư Thiên, Phạm Thiên, và nhân loại đã cứu vớt những chúng sinh đang rối ren với muôn vàn tà kiến và trôi lăn vô định trong đại dương tham ái. Con kính thành đảnh lễ Đức Thế Tôn)
I. Ba Loại Tà Kiến
“Này các Tỳ khưu, có ba loại tà kiến, do đắm mê chúng, luận bàn chúng, và lấy chúng làm mục tiêu, một số sa môn và Bàlamôn đã rơi vào các cực đoan và trở thành những kẻ chủ trương vô hành kiến (akiriya diṭṭhi - người chủ trương quan điểm cho rằng không có quả báo của hành động hay nghiệp). Ba tà kiến này là gì? Đó là:
- Tiền định kiến (pubbekata-hetu-diṭṭhi)
- Tạo hóa kiến (issaranimmāna hetu-diṭṭhi)
- Vô nhân kiến (ahetu-apaccaya-diṭṭhi)
1. Tiền định kiến - Pubbekata-hetu-diṭṭhi. Quan điểm cho rằng mọi cảm thọ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại chỉ do nhân, do duyên các hành nghiệp mà họ đã làm trong những kiếp quá khứ mà thôi.
“Này các Tỳ khưu, có một số sa môn và Bàlamôn công bố và chấp giữ quan điểm sau: ‘Mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ lãnh trong kiếp hiện tại chỉ do nhân các hành nghiệp mà họ đã làm trong những kiếp quá khứ mà thôi.' Quan điểm này được gọi là Tiền định kiến - Pubbekata-hetu-ditṭṭhi.”
2. Tạo hóa kiến - Issaranimmāna-hetu-diṭṭhi. Quan điểm cho rằng mọi cảm thọ trong kiếp hiện tại là do một đấng tối cao hay Thượng Đế tạo ra.
“Này các Tỳ khưu, có một số sa môn và Bàlamôn công bố và chấp giữ quan điểm sau: ‘Mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại là do một đấng Phạm Thiên (Brahmā) hay Thượng Đế tạo ra.’ Quan điểm này được gọi là Tạo Hóa kiến - Issaranimmāna-hetu-diṭṭhi.
3. Vô nhân kiến - Ahetu-apaccaya-diṭṭhi. Quan điểm cho rằng “không có nhân, không có duyên” của mọi hiện hữu.
“Này các Tỳ khưu, có một số samôn và Bàlamôn công bố và chấp giữ quan điểm sau: ‘Mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại tự chúng có mặt chứ không do nhân sanh nghiệp (jana-kamma) và trì nghiệp (upatthambhaka-kamma)’. Quan điểm này được gọi là Vô nhân kiến - Ahetu-apaccaya diṭṭhi.”
II. Phản Bác Tiền Định Kiến
Trong Tăng Chi Kinh, chương Ba pháp, chúng ta có những lời dạy của Đức Chánh Biến Tri: “Này các Tỳ khưu, trong ba tà kiến này, một số sa môn và Bàlamôn chấp giữ và công bố quan điểm sau: ‘Mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại chỉ do nhân những hành nghiệp họ đã làm trong những kiếp quá khứ mà thôi.’
Ta đã đến họ và hỏi: “Này chư hiền giả, có thực là các vị chấp giữ và công bố quan điểm này: ‘Phàm mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ lãnh trong kiếp hiện tại là do nhân các hành nghiệp họ đã tạo trong những kiếp quá khứ không?’
Được hỏi như vậy, các sa môn và Bàlamôn ấy trả lời, ‘Vâng, đúng thế thưa tôn giả.’
Rồi ta nói với họ: Này các hiền giả, nếu sự tình là vậy, thời sẽ có những người, do nhân các hành nghiệp họ đã tạo trong những đời quá khứ mà sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẽ, dùng ngôn ngữ thô lỗ, nói chuyện phù phiếm, tham lam, sân hận và chấp giữ tà kiến.’
“Này các Tỳ Khưu, thực sự trong tâm của những người tin tưởng một cách quả quyết vào những hành nghiệp mà các chúng sinh đã làm trong đời quá khứ và chấp chặt quan điểm này, không thể nào khởi lên những tâm sở như ước muốn làm (chanda - dục) và tinh tấn (vāyama) để phân biệt những hành động nào cần phải làm và những hành động nào cần phải tránh.
“Này các Tỳ Khưu, thực sự trong tâm của những người không thể phân biệt một cách chính xác và chắc chắn giữa những hành động nào cần phải làm và những hành động nào cần phải tránh, và sống không có sự áp dụng chánh niệm và tự chế, không thể khởi lên đức tin chân chánh dẫn đến sự diệt trừ của các phiền não.
“Này các Tỳ khưu, đây là lời tuyên bố có căn cứ xác đáng thứ nhất phản bác lại những tín điều và kiến chấp theo tà đạo được đưa ra bởi các sa môn và Bàlamôn chủ trương mọi cảm thọ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại chỉ do nhân những hành nghiệp quá khứ của họ.”
III. Phản Bác Tạo Hóa Kiến
Đức Phật tuyên bố: “Này chư Tỳ Khưu, trong ba kiến chấp này, có những samôn và Bàlamôn chấp giữ và công bố quan điểm sau: ‘Mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại là do một đấng Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế tạo ra.’
Ta đi đến họ và hỏi: “Này các hiền giả, có thực là các vị chấp giữ và công bố quan điểm này: ‘Phàm mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại là do một vị Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế tạo ra không?'
Được hỏi như vậy các sa môn và Bàlamôn ấy trả lời: ‘Vâng, đúng thế thưa tôn giả.’
Rồi ta nói với họ: “Này các hiền giả, nếu sự tình là vậy, thời sẽ có những người, do sự sáng tạo của một vị Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế (mà) sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà hạnh trong các dục, nói lời chia rẽ, dùng lời thô lỗ, nói chuyện phù phiếm, tham lam, ác ý với người khác và chấp giữ các tà kiến.
“Này các Tỳ Khưu, thực sự, trong tâm của những người tin tưởng một cách quả quyết và độc nhất vào sự sáng tạo của một vị Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế như vậy, không thể khởi lên các tâm sở như ước muốn làm và tinh tấn để phân biệt những hành động nào cần phải làm và hành động nào cần phải tránh.
“Này các Tỳ Khưu, thực sự, trong tâm của những người không thể phân biệt một cách chính xác và chắc chắn giữa những điều nên làm và những điều nên tránh, và sống không có sự áp dụng (chánh) niệm và tự chế sẽ không thể khởi lên đức tin chân chánh dẫn đến sự diệt trừ của các phiền não.
“Này các Tỳ Khưu, đây là lời tuyên bố có căn cứ xác đáng thứ hai phản bác lại những tín điều và kiến chấp theo ngoại đạo được đưa ra bởi những sa môn và Bàlamôn chủ trương rằng mọi cảm thọ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại là do một vị Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế tạo ra.”
IV. Phản Bác Vô Nhân Kiến
Đức Phật tuyên bố: “Này các Tỳ Khưu, trong ba tà kiến này, có một số sa môn và Bàlamôn chấp giữ và công bố quan điểm sau: ‘Mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm, và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại tự chúng có mặt chứ không có sự can thiệp của sanh nghiệp hoặc trì nghiệp.’
Ta đi đến họ và hỏi: “Này các hiền giả, có thực là các vị chấp giữ và công bố quan điểm này: Phàm mọi cảm thọ lạc thuộc thân và tâm, mọi cảm thọ khổ thuộc thân và tâm và mọi cảm thọ bất lạc bất khổ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại tự chúng có mặt chứ không do sanh nghiệp và trì nghiệp, đúng không?
Được hỏi như vậy, các sa môn và Bàlamôn ấy trả lời: ‘Vâng, đúng thế thưa tôn giả.’
Rồi ta nói với họ: “Này các hiền giả, nếu sự tình là vậy, thời sẽ có những người, không do bất kỳ nhân nào, duyên nào mà sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẽ, dùng lời thô lỗ, nói chuyện phù phiếm, tham lam, ác ý với người khác, và chấp giữ các tà kiến.
Này các Tỳ Khưu, thực sự trong tâm của những người tin tưởng một cách quả quyết và độc nhất vào quan điểm "vô nhân, vô duyên" của mọi hiện hữu như vậy, không thể khởi lên những tâm sở như ước muốn làm (chanda) và tinh tấn (vāyama) để phân biệt giữa những gì cần phải làm và những gì cần phải tránh.
Này các Tỳ Khưu, thực sự trong tâm của những người không thể phân biệt một cách chính xác và chắc chắn giữa những gì cần phải làm và những gì cần phải tránh, và sống không có sự áp dụng chánh niệm và tự chế, không thể khởi lên đức tin chân chánh dẫn đến sự diệt trừ của các phiền não.
“Này các Tỳ Khưu, đây là lời tuyên bố có căn cứ xác đáng thứ ba phản bác lại những tín điều và kiến chấp theo ngoại đạo được đưa ra bởi các sa môn và Bàlamôn chủ trương mọi cảm thọ mà các chúng sinh thọ lãnh trong kiếp hiện tại tự chúng có mặt chứ không phải do sanh nghiệp và trì nghiệp.
V. Giải Thích Về Ba Tà Kiến
Trong thế gian này có ba ác tà kiến. Đó là:
1. Tiền định kiến - Pubbekata-hetu diṭṭhi.
2. Tạo hóa kiến - Issaranimmāna-hetu diṭṭhi.
3. Vô nhân kiến - Ahetu-apaccaya diṭṭhi.
Ba tà kiến này đã được giải thích sơ lược ở trên, và cũng đã được đức Chánh-biến-tri diễn giải trong Aṅguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh), Tīkanipāta, Dutīyapaṇṇāsaka Dutīya vagga, v.v…Trong một số bài kinh, tạo hóa kiến có khi được gọi là Tạo Hóa Tác Thuyết (issarakāraṇa-vāda - thuyết cho rằng một đấng Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế đã thực hiện hết mọi việc; hoặc issarakuttika-vāda (tà thuyết cho rằng một đấng Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế đã an bài tất cả những việc này). Đức Chánh-biến-tri đã bác bỏ cả ba tà thuyết trên thuận theo chân lý. Do đó, bần tăng sẽ giải thích ba tà thuyết này theo tuần tự với đầy đủ chi tiết và hoàn chỉnh hơn.
VI. Giải Thích Về Phản Bác Tiền Định Kiến
1. Quan Kiến Cho Rằng Nghiệp Quá Khứ Là Nhân Độc Nhất.
Chúng sinh thọ hưởng các thọ lạc thuộc thân và tâm, thọ khổ thuộc thân và tâm, và các thọ bất khổ bất lạc. Họ thọ hưởng những cảm thọ này liên quan đến sự hạ liệt, sự cao thượng, sự ngu dốt, và đến những ảnh hưởng được xem là lớn lao hay không đáng kể của họ. Những người chấp tiền định kiến chủ trương như sau: Độc nhất do các nghiệp mà những chúng sinh này đã làm trong các kiếp quá khứ làm nhân khiến họ thọ hưởng những điều như là vừa ý, không vừa ý, thỏa mãn hay không thỏa mãn của cuộc đời này. Tất cả những chuyện ấy chẳng phải do ai tạo, cũng chẳng phải do những hành động mà họ làm một cách siêng năng trong kiếp hiện tại này gây ra? Do kiến chấp này chối bỏ mọi kết quả của hành động mà con người làm trong kiếp hiện tại, nên nó đã lầm lẫn một cách phi lý và quá đáng. Vì vậy nó được gọi là một tà kiến.
Giả sử thuyết tiền định này là đúng thời những người sát sanh trong đời này chẳng qua cũng chỉ vì nghiệp quá khứ của họ thúc đẩy mà thôi. Hoặc giả, có những người, do thiện nghiệp đã làm trong đời quá khứ làm duyên mà trở thành các sa môn và Bàlamôn có giới hạnh. Thỉnh thoảng những vị samôn, Bàlamôn này phạm các điều ác cũng là do nghiệp quá khứ của họ. Và cũng có thể nói, những hành động sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói lời thô lỗ, nói chuyện phù phiếm, tham lam, nuôi dưỡng ác ý chống người khác, và tà kiến cũng là do những ác nghiệp quá khứ của họ thúc đẩy nốt.
Trong đời này, những việc như “nghe bậc hiền trí thuyết pháp” và “như lý tác ý” được xem là những điều kiện để trở thành người có trí và giới đức. Giả sử mọi thiện nghiệp và bất thiện nghiệp mà người ta làm trong kiếp hiện tại này chỉ do nghiệp quá khứ của họ làm nhân, thì những việc "nghe pháp" và "như lý tác ý" sẽ trở thành vô ích, không có kết quả gì hết, vì những người chấp theo tà kiến này tin rằng “để trở thành một người trí" hay “để trở thành một người ngu chỉ độc do nhân nghiệp quá khứ của họ chứ không do các nhân nào khác cả" (đây là chủ thuyết về người được Chúa chọn để cứu vớt, Doctrine of the Elect, do một số giáo phái chủ trương, ngày nay vẫn còn).
Thực sự, con người có thể trở thành sa môn hay Bàlamôn đức hạnh chỉ khi nào họ thực hiện những thiện nghiệp như ‘thân cận bậc trí’ và ‘nghe pháp’, chứ không có cách nào khác. Có lẽ chúng ta đã thấy những trường hợp như vậy trong cuộc sống hàng ngày rồi. Do Tiền Định Kiến chối bỏ giá trị của sanh nghiệp và trì nghiệp, nên nó cần phải được tuyên bố là một tà kiến.
2. Sự Vắng Mặt của 'Ước Muốn Làm' và 'Tinh Tấn'
Trong tâm của những samôn và Bàlamôn nhất quyết tin tưởng vào nghiệp quá khứ và chấp chặt quan điểm này, tức cho rằng chỉ có Tiền định kiến là quan kiến đúng đắn, còn người theo các quan kiến khác là sai lạc và vô ích, sẽ không thể khởi lên 'ước muốn làm' và 'tinh tấn' nhờ đó họ có thể phân biệt được đâu là việc cần phải làm và đâu là việc cần phải tránh, vì họ tin rằng mọi hành động hiện tại là do nhân nghiệp quá khứ chứ không phải do 'ước muốn làm' hay 'tinh tấn' mà con người ta vận dụng trong kiếp sống này.
Thực ra, chỉ khi người ta có thiện ý và tinh tấn đúng đắn họ mới có thể làm những điều nên làm và tránh những điều nên tránh, chứ không có cách nào khác hơn. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đã thấy rõ những trường hợp như vậy. Quan kiến do những người chủ trương bác bỏ mọi nhân hiện tại như là 'ước muốn làm' và 'tinh tấn', và chỉ tin vào nghiệp quá khứ, cần phải xem như một tà kiến.
3. Phạm Hạnh Có Thể Bị Hư Hoại Như Thế Nào?
Nếu ước muốn làm và tinh tấn để thực hiện những gì cần phải làm và tránh những gì cần phải tránh không khởi lên trong tâm của những người chấp theo tiền định kiến, thời do không thể nhận thức được đâu là thiện và đâu là ác, họ sẽ vẫn không thực hiện những thiện nghiệp cần phải thực hiện, ngược lại còn làm những bất thiện nghiệp lẽ ra phải tránh. Do không có chánh niệm và sự phòng hộ các căn, kiến chấp của họ không thể xem là samôn kiến chơn chánh được. Trong đời này, người ta thường dùng những từ có tính qui ước như 'samôn' để chỉ người đang cố gắng dập tắt mọi dục vọng, 'bàlamôn' để chỉ người đang sống một cuộc đời thanh tịnh, vô nhiễm và khổ hạnh, 'người giới đức' và 'người phàm', vì đây là những người đang thực hiện điều cần phải thực hiện và tránh điều cần phải tránh vậy. Những từ qui ước như 'người chánh trực', 'người đang sống sống một cuộc đời thanh tịnh, vô nhiễm' hoặc 'bậc chân nhân - sappūrisa' không thể đem áp dụng cho những người chấp theo tiền định kiến này được, vì đối với họ chẳng có gì khác giữa hành động nào cần phải làm và hành đông nào cần phải tránh, vốn là những thiện nghiệp đạo thường được các gia chủ, samôn và người có trí thực hành.
Thực sự, có những hành động cần phải tránh. Một số người không phải lúc nào cũng làm thiện nghiệp cần làm, và tránh những ác nghiệp phải tránh. Người như vậy được gọi là Pakatimanussa (phàm phu tục tử). Một số người, nhờ có chánh niệm và phòng hộ các căn, biết thực hiện những thiện nghiệp và tránh những ác nghiệp. Họ được gọi là 'samôn', 'bàlamôn', hoặc 'bậc chân nhân' (sappūrisa). Nếu một người phân biệt được giữa hai loại người này - người ác và người trí - họ được nói là có 'samôn kiến chơn chánh' hay 'bàlamôn kiến chơn chánh'. Vì Tiền định kiến chối bỏ mọi nhân hiện tại như chánh niệm, phòng hộ… và tin chắc vào nghiệp quá khứ của một người, nên chỉ có tri kiến của họ mới cần được xem là tà kiến. Đây là cách phản bác thứ hai.
4. Từ Tiền Định Kiến Có Khả Năng Trở Thành Kẻ Chấp Giữ Tri Kiến Cho Rằng Các Pháp Đều Không Có Nhân Hay Không Có Duyên.
Nếu thuyết Tiền Định (Pubbekata-hetu diṭṭhi-vāda) này được phân tích một cách kỹ lưỡng hay phân tích một cách cẩn thận với sự hiểu biết của bậc trí, người ta sẽ thấy rằng, theo tà kiến này, thì trong mọi lãnh vực của nghiệp chẳng có gì đáng để người ta làm ngoại trừ theo cách dễ nhất. Như thế nào? Chính là theo cách sau: Những người chủ trương tà kiến này bác hết mọi hành động lẽ ra cần phải làm trong đời hiện tại và cũng không tận dụng hết nghị lực mà những bậc giới đức phải vận dụng. Họ cũng bác luôn chức năng của tinh tấn và trí tuệ.
Họ chủ trương rằng những lợi ích liên quan đến đời hiện tại và những lợi ích liên quan đến đời tương lai do bậc trí tuyên thuyết chỉ là giả dối. Trong tâm của những người chấp theo tà kiến này tất nhiên không thể khởi lên ước-muốn-làm và tinh tấn để thực hiện những thiện nghiệp cần phải được người giới đức thực hiện. Như vậy, tà kiến này trở thành vô hành kiến (akiriya-diṭṭhi ­­– tà kiến cho rằng không có nhân của sự hiện hữu).
Do đó, những người chấp Tiền định kiến này sống ở đời thật là vô tích sự, họ chẳng khác gì một đống đồ phế thải, hay một mảnh gỗ vụn vô ích. Vì những lý do đã nêu, đức Phật Tối Thượng đã phản bác tà kiến này.
VII. Giải Thích Từ Kammassakā (Nghiệp Sở Hữu)
Ở đây, người ta có thể hỏi nhau: 'Này bạn, nếu thực sự Đức Phật Tối Thượng đã khéo phản bác Tiền định kiến như vậy, thì tại sao và vì lý do gì Ngài lại còn tuyên bố như sau trong kinh Subha?'
Kammassakā maṇavassatā kammadāyādā, kammayonī, kammabhandhū, kamma patissaraṇā kamma satte vipajjati yadidam hīna paṇīta bhāvāya.
Chỉ có thiện nghiệp và bất thiện nghiệp mà các chúng sinh đã làm là tài sản riêng của họ, luôn đi kèm với họ bất cứ nơi đâu trong vòng sanh tử luân hồi này.
Tất cả chúng sinh là kẻ thừa tự của nghiệp. Chỉ có nghiệp là quyến thuộc thực sự của họ. Chỉ có nghiệp là nơi nương nhờ thực sự của họ. Bất cứ thiện nghiệp hay ác nghiệp nào mà họ đã làm bằng, thân, khẩu và ý, chính nghiệp ấy phân biệt họ với người khác trên phương diện cao thượng và thấp hèn, tốt và xấu, và họ trở thành kẻ thừa tự của nghiệp ấy.
Sau đây là những câu trả lời cho câu hỏi trên.
1. Những người chủ trương thuyết Tiền định cho rằng mọi lạc khổ mà các chúng sinh cảm thọ trong kiếp hiện tại độc chỉ do nghiệp quá khứ của họ làm nhân, làm duyên mà thôi. Họ bác bỏ mọi nhân hiện tại, như tinh tấn và trí tuệ. Do thuyết Tiền định này không chấp nhận các nhân hiện tại, nên nó được gọi là ekapakkhahīna-vāda – Thuyết loại bỏ một phía, đó là loại bỏ nghiệp hiện tại.
2. Những người chấp vào thuyết Tạo hóa chủ trương rằng mọi lạc, khổ mà các chúng sinh cảm thọ trong kiếp hiện tại là do một đấng Phạm Thiên tối cao hay Thượng Đế tạo ra. Họ không chấp nhận cả nghiệp quá khứ lẫn nghiệp hiện tại của các chúng sinh, vì thế thuyết này được xem như ubhayapakkhalūna-vāda – Thuyết loại bỏ cả hai phía, đó là loại bỏ cả nghiệp quá khứ lẫn hiện tại của các chúng sinh.
3. Những người chấp vào thuyết Vô nhân thì chủ trương rằng mọi lạc, khổ mà các chúng sinh cảm thọ trong kiếp hiện tại tự chúng có mặt, và bác bỏ hết mọi nhân. Do thuyết này bác hết mọi nhân của hiện hữu, nó được gọi là sabbahīna-vāda – Thuyết bác bỏ tất cả, đó là, bác bỏ bất kỳ loại nhân nào.
Trong ba tà thuyết này, Đức Phật Tối Thượng, do muốn phản bác thuyết Tạo hóa và thuyết Vô nhân, nên tuyên bố:
Kammassakā māṇavasattā kammadāyādā” (Chỉ có những thiện và bất thiện nghiệp mà các chúng sinh đã làm là tài sản riêng của họ và luôn đi kèm với họ, dù có trôi lăn trong nhiều sanh hữu hay đại kiếp)
Cách Giải Thích Khác:
Trong một thái độ chung chung, Đức Phật tuyên bố 'Kammassaka sattā kammadāyādā' chứ không có tính cách đặc biệt như 'pubbekata kammassakā sattā pubbekata kammadāyādā'. Ở đây, kammassakā có nghĩa là cả nghiệp quá khứ lẫn hiện tại của các chúng sinh. Nếu chúng ta diễn đạt đúng theo cách này, thì 'kammassakā' sẽ có nghĩa 'nghiệp quá khứ và hiện tại của các chúng sinh'.
VIII. Ba Lĩnh Vực Chính
Ở đây bần Tăng sẽ giải thích về nghiệp quá khứ và hiện tại. Có ba lĩnh vực chính:
1. Kammasādhanīya-ṭhāna (lãnh vực hoạt động của nghiệp)
2. Vīriyasādhanīya-ṭhāna (lãnh vực hoạt động của tinh tấn)
3. Paññāsādhanīya-ṭhāna (lãnh vực hoạt động của trí tuệ)
Lĩnh Vực Hoạt Động Của Nghiệp (Kammasādhanīya-ṭhāna)
Lĩnh vực này được chia làm hai phần.
A. Lĩnh Vực Hoạt Động Của Nghiệp Quá Khứ Những dị thục quả sau là do nhân và duyên nghiệp quá khứ của các chúng sinh, và gọi là lĩnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ.
1. Tái sinh trong cảnh giới an vui hay trong cảnh giới khổ qua một trong bốn loại kiết sanh (paṭi-sandhi) (có 4 loại tái sanh: Hóa sanh, Thấp sanh, Noãn sanh, Thai sanh)
2. Tái sanh trong một gia đình cao quý hay trong một gia đình hèn hạ, dù ở trong cảnh giới an vui.
3. Có hay không có một căn (giác quan) nào, chẳng hạn như mắt, tai, v.v…
4. Đầy đủ trí tuệ, hay thiếu trí vào sát na tục sinh (tức là người tam nhân hay nhị nhân vào lúc tục sinh).
5. Dị tật hay không dị tật.
Những hành động mà các chúng sinh thực hiện trong kiếp hiện tại không thể tạo ra những kết quả này. Khi đã sinh vào cõi an vui nhờ thiện nghiệp quá khứ của mình, người ta không thể biến đổi thân tướng hiện có thành thân tướng của cõi khổ nhờ vào những nghiệp hiện tại như tinh tấn và trí tuệ được, trừ khi thân tướng của cõi an vui này tan hoại (tức vào lúc thân hoại mạng chung).
Cũng vậy, khi một người đã sinh vào cõi khổ do nghiệp quá khứ, họ không thể biến đổi thân tướng của họ thành thân tướng của cõi an vui, nếu không có sự tan hoại của thân thuộc cõi khổ này. Không một ai, dù là người, Chư Thiên, Phạm Thiên hay Thượng Đế, nhờ vào nghiệp hiện tại như tinh tấn và trí tuệ, có thể phục hồi được thị lực của một người mà nhãn căn của họ ngay từ lúc thụ thai đã bị hư hỏng do bất thiện nghiệp quá khứ (tức không thể làm cho người mù bẩm sinh thấy được).
Lại nữa, khi nhãn căn của một người có được do nghiệp quá khứ đã bị tiêu hoại hoàn toàn bởi một nguyên nhân hiểm nghèo nào đó trong kiếp hiện tại, thì không thể có người nào, không thể có chư Thiên nào, Phạm Thiên hay Thượng Đế nào phục hồi được thị lực đã mất của người ấy bằng trí tuệ và tinh tấn đã được họ luyện tập trong kiếp hiện tại này. Nguyên tắc này cũng đúng đối với các giác quan khác, như nhĩ căn, tỷ căn, v.v… vốn có mặt do nghiệp quá khứ của các chúng sinh.
B. Lĩnh Vực Hoạt Động Của Nghiệp Hiện Tại
Trước tiên bần Tăng sẽ giải thích rõ nghiệp hiện tại (Paccupanna kamma) là gì. Nói vắn tắt, tất cả mọi thân hành, khẩu hành và ý hành mà các chúng sinh thực hiện trong cuộc sống hiện tại vì hạnh phúc hay khổ đau của họ đều là nghiệp hiện tại cả. Nói rộng hơn, có những hoạt động như canh nông, chăn nuôi gia súc, buôn bán. Cũng có những ngành học, như các loại nghệ thuật và nghề thủ công khác nhau. Ngoài ra còn có những ngành nghệ thuật như: địa lý (bhūmi-vijjā), tướng số (aṅgavijjā), thiên văn (nakkhatta-vijjā), trí văn (sutamayapaññā), trí tư (cintāmaya paññā); và trí tu (bhāvanāmaya pañña).
Những hoạt động nghệ thuật, thủ công và trí đã đề cập ở trên được gọi là nghiệp hiện tại. Ngoài những hoạt động đã nói trên, cũng có vô số những hoạt động bất thiện, ngu dốt và dễ duôi làm băng hoại cuộc sống và tài sản, tổn hại sức khỏe, bôi nhọ thanh danh, tác hại đến đạo đức, và ngăn che tiến bộ tinh thần. Tất cả những hoạt động này là nghiệp hiện tại. Do đó trong kiếp hiện tại thực sự có rất nhiều loại hoạt động khác nhau, một số trong đó có lợi và số khác bất lợi. Hai loại hoạt động này nằm trong lãnh vực hoạt động của nghiệp hiện tại. (paccuppanna-kammasādhanīyaṭhāna).
Phương Pháp Giải Thích Kết Hợp (Missaka-naya).
Nghiệp quá khứ chia ra làm ba:
- Đại nghiệp (mahanta)
- Trung nghiệp (majjhima)
- Tiểu nghiệp (appaka)
Nghiệp hiện tại cũng phân ra làm ba loại:
- Trưởng phần (vuddhibhāgiya - nghiệp đưa đến sự phát đạt của một người)
- Trụ phần (ṭhitibhāgiya - nghiệp giữ cho một người được ổn định)
- Thối phần (bānabhāgiya - nghiệp đưa đến sự suy thoái của một người)
1. Mahantātīta-kammamūlakatika - Ba loại người do đại nghiệp quá khứ của họ tạo điều kiện
Do đại nghiệp quá khứ làm duyên, một số người được tái sinh trong những gia đình vua chúa, gia đình giàu sang. Trong số đó, có những người thực hiện nghiệp trưởng phần (nghiệp hiện tại đưa đến sự phát đạt). Họ sẽ phát đạt về của cải vật chất và quyền lực thế gian. Từ địa vị ban đầu, họ đi lên chứ không tụt xuống địa vị thấp hơn.
Một số người thực hiện nghiệp hiện tại trụ phần (nghiệp hiện tại giữ họ ở mức bình thường). Tài sản và danh vọng của họ sẽ đứng yên tức là từ địa vị bình thường ban đầu của họ, họ không đi lên cũng không xuống thấp hơn.
Một số người thực hiện nghiệp thối phần (nghiệp hiện tại khiến cho tài sản và địa vị của họ suy sụp). Do nghiệp này tài sản và danh vọng của họ bị tổn thất; họ không thể giữ được địa vị của họ ở mức bình thường, huống nữa là cải thiện địa vị của mình.
2. Majjhimātita-kammamūlakatika - Ba loại người do trung nghiệp quá khứ tạo điều kiện
Do trung nghiệp quá khứ làm duyên, một số người được tái sinh trong những gia đình giàu có trung bình. Trong số đó, những người thực hiện nghiệp hiện tại tăng trưởng sẽ phát đạt về tài sản và danh vọng trong kiếp hiện tại.
Những người thực hiện nghiệp hiện tại trụ phần sẽ giữ được địa vị bình thường của họ không có bất kỳ một sự tiến bộ hay thối giảm nào về tài sản mà chỉ đứng yên một chỗ.
Những người thực hiện nghiệp hiện tại thối phần sẽ tổn thất tài sản và danh dự của họ, đã không thể giữ được mình trong địa vị bình thường, còn nói chi đến việc tăng trưởng (địa vị).
3. Appakākatīta - kammamūlakatika - Ba loại người do tiểu nghiệp quá khứ tạo điều kiện
Do tiểu nghiệp quá khứ làm duyên, một số người tái sinh trong những gia đình người nghèo khó. Trong số này, những người thực hiện nghiệp hiện tại trưởng phần sẽ tăng trưởng tài sản của họ.
Người thực hiện nghiệp hiện tại trụ phần giữ được địa vị bình thường của họ không tăng cũng không giảm.
Người thực hiện nghiệp hiện tại thối phần chẳng những không thể giữ được ngay cả địa vị bình thường của họ, mà lại còn trở nên nghèo khó hơn.
Như vậy, hai lĩnh vực hoạt động chính của nghiệp, lĩnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ (atīta kammasādhanīya-thāna) và lĩnh vực hoạt động của nghiệp hiện tại (paccuppana-kammasādhanīyathāna) có liên quan với nhau trong việc quyết định sự tiến hóa hay thối đọa của con người.
Lĩnh Vực Hoạt Động Của Tinh Tấn Và Trí Tuệ (Vīriyasādhanīya paññāsādhanīyaṭhāṇa)
Nhiệm vụ của Tinh Tấn (Vīriya) và Trí Tuệ (Paññā) giúp cho sự hoàn tất của hai nghiệp hiện tại. Ở đây, nếu tinh tấn và trí tuệ càng lớn, thì đại nghiệp (mahanta-kamma) sẽ càng lớn. Nếu tinh tấn và trí tuệ ở mức trung bình, chúng sẽ tạo ra trung nghiệp. Còn nếu tinh tấn và trí tuệ yếu, chúng chỉ có thể tạo ra tiểu nghiệp. Vì thế, khi hai loại lãnh vực hoạt động của nghiệp là lớn, thời lãnh vực hoạt động của tinh tấn và trí tuệ cũng sẽ trở nên lớn như vậy.
Liên Hệ Giữa Nghiệp Quá Khứ Và Hiện Tại Với Tinh Tấn Và Trí Tuệ
Đối với những chúng sinh còn lang thang trong vòng tử sinh luân hồi, nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại là những nhân chính trong việc tác thành hạnh phúc và khổ đau mà các chúng sinh ấy cảm thọ trong kiếp hiện tại. Những nhân khác như thời gian (kāla), nơi chốn (desa), v.v… là các nhân phụ. Do đó, khi giải thích nghiệp quá khứ và hiện tại, Đức Phật tuyên bố, 'Kammassākā mānava sattā kammadāyādā' [Chỉ có những thiện nghiệp và bất thiện nghiệp mà các chúng sinh đã làm là tài sản hay sở hữu của họ, luôn luôn đi với họ, dù họ có thể lang thang trong nhiều sanh hữu hay đại kiếp (kappa)].
Khi Đức Phật giải thích các nhân chính, lời giải thích ấy cũng liên quan đến các nhân phụ. Vì thế khi ngài tuyên bố 'Kammassakā, v.v…' và giải thích rõ hai loại nghiệp - nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại - bằng cách ấy ngài muốn nói rằng hai nghiệp chính này được tạo điều kiện bởi những nhân, như 'thân cận bậc trí', 'nghe pháp' và 'hành pháp (dhamma)'. Khi Đức Phật Toàn Tri tuyên bố 'Kammassakā, v.v…' lời tuyên bố ấy cần phải xem như có cả sự giải thích về các yếu tố (chính và phụ) của nó vậy.
Những người như thanh nên Subha tới gặp Đức Phật và kể cho ngài nghe những tà kiến của họ về nghiệp quá khứ. Đối với những người này Đức Phật giải thích nghiệp quá khứ theo như Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt và Đại Nghiệp Phân Biệt của Trung Bộ.
Những người như thanh niên Siṅgāla đến gặp Phật và kể cho ngài nghe những tà kiến của họ về nghiệp hiện tại. Với những người này, đức Phật đã giải thích nghiệp hiện tại trong kinh Thi Ca La Việt thuộc Trường Bộ Kinh, hay kinh Vāseṭṭha thuộc Kinh Tập (Tiểu Bộ).
Trong Aṭṭha-nipāta và những bài kinh khác thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật Toàn Tri đã đưa ra những lời giải thích về cả hai loại nghiệp: quá khứ lẫn hiện tại.
Đối với những người không hiểu rõ những lợi ích của tinh tấn và trí tuệ, Đức Phật đã giải thích về những lợi ích của tinh tấn và trí tuệ trong cả trăm bài kinh khác nhau.
Nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại, vốn tạo ra những cảm thọ lạc mà các chúng sinh thọ hưởng, không thể có mặt nếu không có chức năng của tinh tấn và trí tuệ. Vì thế khi Đức Phật giải thích nghiệp quá khứ và hiện tại, chúng ta cần nhớ rằng trong lời giải thích ấy kể như đã gồm cả tinh tấn và trí tuệ.
Tinh tấn và trí tuệ hiện hữu chỉ để cho những nghiệp ấy thành hình, hay nói khác hơn, chỉ vì sự thành tựu của những nghiệp ấy. Lời này là đúng, vì nếu không có những hành động cần phải tinh tấn, thời tinh tấn sẽ làm nhiệm vụ ở chỗ nào? Và nếu không có những điều khả tri, lúc ấy trí sẽ biết cái gì? Do đó cần lưu ý rằng ở chỗ nào Đức Phật giải thích tinh tấn và trí tuệ, lời giải thích của Ngài cũng bao hàm luôn hai nghiệp do tinh tấn và trí tuệ ấy tạo ra, và ngược lại.
Tóm lại, những lợi ích mà các chúng sinh thọ hưởng được kể như sau:
- Lợi ích trong kiếp hiện tại - diṭṭhadhammikattha
- Lợi ích trong các kiếp vị lai - samparāyikattha
- Lợi ích siêu thế - paramattha.
Tam tạng (Tipiṭaka) hay những lời dạy của đức Phật được thiết lập trên ba lợi ích này. Khi Đức Phật thuyết giải những lợi ích mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại, chúng ta nên nhớ rằng nghiệp hiện tại đã được tường giải trong những Tạng (Pitakas). Khi Ngài thuyết giải về những lợi ích mà các chúng sinh sẽ thọ hưởng trong kiếp tương lai, chúng ta cũng nên nhớ rằng nghiệp quá khứ cũng đã được giải thích trong các Tạng ấy. Trong một số bài pháp, ngài thuyết về Uẩn (khandhā), Xứ (āyatana), Giới (dhātu), Đế (saca), và Duyên-khởi (paṭiccasamuppāda) liên hệ với giáo lý Không tánh – suññatadhamma (doctrine of unsubstantiality). Chúng ta cũng nên lưu ý rằng khi Đức Phật Toàn Tri thuyết giải những điều này, lời giải thích của ngài đã bao hàm trong đó những lợi ích siêu thế vốn là những sự thực tuyệt đối. Những lợi ích siêu thế này cũng có liên quan đến lợi ích hiện tại (diṭṭha dhamikattha) và lợi ích tương lai (sampārayikattha). Do đó chúng ta cần nhớ rằng khi Đức Phật thuyết giải Pháp liên quan đến Không tánh (suññata) trong Tam Tạng, gồm cả nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại, thì toàn bộ Tam Tạng đều y cứ trên nghiệp quá khứ và hiện tại. Vì những lý do ấy, bậc trí nên biết rằng khi Đức Phật tuyên bố: 'Kammassakā sattā, kammadāyādā', bằng cách đó Ngài cũng muốn nói 'Ñāṇa vīriyassaka sattā, ñāṇavīriyadāyaka' (Trí tuệ và tinh tấn là tài sản của chúng sinh, các chúng sinh là kẻ thừa tự của trí tuệ và tinh tấn) vậy.
IX. Giải Thích Về “Kammassakā, v.v…”
1. Kammassakā : Bây giờ bần tăng sẽ giải thích tóm tắt câu 'Kammassakā satta, kammadāyādā, kammayonī, kammabandhū, kammappaṭissaranā'.
'Attano idanti sakam ' - vật gì của riêng ai thì đó là tài sản của riêng họ.
'Kamma eva sakam ete santi kammassakā - chỉ có nghiệp là tài sản của các chúng sinh. Do đó mới gọi 'kammassakā' (nghiệp là tài sản của chúng sinh).
Điều này được giải thích như sau: Người ta gọi vàng bạc, của cải, và châu báu họ thâu thập được là tài sản của họ, vì họ đang đề cập đến những tài sản ấy, và những thứ ấy thuộc về họ chứ không phải người khác. Trong thực tế, ngay cả như vậy, họ cũng không thể gọi những tài sản này là của riêng họ chỉ vì chúng thuộc về họ. Vì sao? Vì họ chỉ có thể hưởng được những tài sản ấy trong kiếp hiện tại, và khi chết rồi họ sẽ phải bỏ lại đằng sau mọi tài sản ấy, không thể mang chúng sang kiếp sau được. Ngay trong kiếp hiện tại cũng vậy, chẳng phải chỉ một mình con người đề cập đến tài sản của họ, mà 'nước', 'lửa', 'vua chúa', 'phường trộm đạo', và 'những kẻ thù' cũng có liên quan (hay có một sự liên hệ nào đó) đến những tài sản của họ theo cách hủy diệt chúng. Thực sự, chỉ có những thiện nghiệp và bất thiện nghiệp mà con người làm mới là những tài sản riêng của họ, vì những nghiệp này đi kèm theo dòng hữu phần của họ, có thể là trong hàng trăm, hàng ngàn đời sẽ tới, hay hàng trăm, hàng ngàn đại kiếp sẽ tới, và liên quan đến họ, chứ không phải ai khác, dù cho có hay không có 'nước', 'lửa', 'vua chúa', 'phường trộm đạo', hoặc 'kẻ thù'. Khi Đức Phật tuyên bố 'Nghiệp là tài sản của các chúng sinh - Kammassakā sattā' là muốn đưa ra một sự giải thích như vậy. Lời giải thích này cũng đúng với đoạn kế tiếp 'Kammadāyādā - các chúng sinh là kẻ thừa tự của nghiệp'.
2. Kammadāyādā: 'Kammassādāyam ādiyantīti kammadāyādā' (các chúng sinh thừa hưởng hết mọi nghiệp mà họ đã làm trong những kiếp quá khứ và hiện tại. Vì thế họ được gọi là những kẻ thừa tự của nghiệp vậy).
Những người thừa hưởng từ nơi cha mẹ vật gì thì gọi là người thừa tự của cha mẹ. Song, trong nghĩa chân thực, những người thừa hưởng của cha mẹ này không thể gọi là người thừa tự. Vì sao? Vì những vật như vàng bạc, của cải, châu báu chỉ tồn tại nhất thời. Do đó, người thừa hưởng những thứ tạm bợ này không thể gọi là người thừa kế chân thực và đích xác được. Trong thực tế, các chúng sinh chỉ thừa hưởng những thiện nghiệp và bất thiện nghiệp mà họ đã làm. Như vậy họ là kẻ thừa tự nghiệp riêng của họ mới đúng.
3. Kammayoni: 'Kammameva yoni etesanti kammayoni' (các chúng sinh là người nối dõi những nghiệp riêng của họ). Ý nghĩa cũng giống như trên.
4. Kammabandhū: 'Kammamevabandhu yesanti kammbandhū' (chỉ có nghiệp là quyến thuộc đích thực của các chúng sinh'.
Mọi người ai cũng có quyến thuộc và bè bạn, tuy nhiên, những người này không thể gọi là bè bạn chơn thực và đích xác được, vì họ cũng chỉ tồn tại nhất thời thôi. Do đó, chỉ một mình nghiệp là quyến thuộc thực sự của các chúng sinh.
5. Kammappaṭissaraṇā - 'Kammameva paṭissaraṇam yesanti kammappaṭissaraṇā' (chỉ có nghiệp là nơi nương nhờ đích thực của các chúng sinh) dù cho là thiện nghiệp hay bất thiện nghiệp được các chúng sinh này làm bằng thân, khẩu, hoặc ý, thì họ cũng sẽ trở thành kẻ thừa tự của nghiệp đó.
Con người nương tựa vào các đấng thần thánh nào, thì các đấng ấy được gọi là nơi nương tựa của họ. Đối với những người nương tựa vào thần Vishnu, thì Vishnu là chỗ nương tựa của họ. Đối với người nương tựa vào Rāma (hóa thân của Vishnu), thì Rāma là nơi nương tựa của họ. Đối với những người nương tựa vào Tam bảo, thì Tam bảo là nơi nương tựa của họ.
Cái gọi là các vị thần như Vishnu, Rāma sở dĩ được gọi là nơi nương tựa (quy y ) bởi vì người ta quy y với họ và trông cậy vào họ, tuy nhiên những đấng ấy không thể là nơi nương tựa đích thực được, vì bản thân họ cũng không thường. Thực sự, chỉ có những nghiệp mà các chúng sinh đã làm và luôn luôn đi kèm với dòng hữu phần của họ trong suốt quá trình luân hồi này, chứ không phải một đấng thần linh hay Thượng Đế nào cả, là chỗ quy y chơn thực duy nhất của họ. Lời này là đúng sự thực. Người quy y với Đức Phật, họ làm vậy là để có được phước thiện, cũng như để có được những nghiệp tương ưng trí (paññā-paṭisamyutta-kamma). Trong thực tế, chỉ có những phước nghiệp (puññā-kamma) và nghiệp tương ưng trí (paññā-kamma) mà các chúng sinh tạo dựng được khi quy y nơi đức Phật mới là nơi nương nhờ đích thực của họ mà thôi.
6. Kammassakā, v.v… trong tương quan với nghiệp hiện tại.
Trong đời sống hàng ngày, ai cũng phải mưu sinh bằng cách làm những nghiệp (nghề) như buôn bán, canh tác, v.v… Những nghiệp hiện tại này chính là sở hữu của họ, nên gọi là 'kammassakā - nghiệp sở hữu'. Vì họ thừa hưởng nghiệp hiện tại này, nên họ được gọi là kẻ thừa tự của nghiệp (kammadāyādā). Vì nghiệp hiện tại là những nhân căn để của 'các phương thức tái sinh' nên chúng được gọi là 'nghiệp mẫu thai hay thai tạng - Kammyoni'. Vì những nghiệp hiện tại này là quyến thuộc của họ, nên được gọi là 'nghiệp thân thích' - Kammabandhū'. Vì nghiệp hiện tại là nơi nương nhờ của họ, nên mới gọi là 'nghiệp y tồn - Kammapaṭissavaṇā'.
Khi Đức Phật thuyết giải về nghiệp như một pháp căn bản, sự thuyết giải ấy bao hàm luôn những giải thích về các nhân phụ như thân cận các bậc thiện tri thức (kalyāṇimitta), gần gũi các bậc trí tuệ (panḍitasevanā) và thực hành pháp (dhammapaṭipatti), tất cả những điều này dẫn đến sự thành tựu của nghiệp.
Sự giải thích có tính cách khoa học: Khi tuyên bố 'Nghiệp là sở hữu của các chúng sinh, các chúng sinh là kẻ thừa tự của nghiệp - kammassakā satta, kammadāyādā', Đức Phật cũng có ý muốn nói như sau: “Những thiện và bất thiện nghiệp một khi đã được thực hiện bởi một người nào đó trong cuộc đời của họ, nghiệp ấy có thể sẽ chín muồi (cho quả) sau một quãng thời gian, có khi hàng trăm, hàng ngàn kiếp, hoặc có khi cả một kiếp của quả đất hay thậm chí lâu hơn. Như vậy thiện nghiệp vốn sẽ cho lạc quả dị thục và bất thiện nghiệp sẽ cho khổ quả dị thục ấy luôn luôn đi kèm theo dòng hữu phần của một chúng sinh.”
Chính vì thế chúng ta nên biết quý trọng 'thiện hạnh' hơn cả sinh mạng của mình và giữ gìn nó thật chu đáo. Còn về 'ác hạnh', ta phải biết ghê sợ nó hơn sợ chết và cố gắng tránh tạo ác nghiệp.
X. Bác Thuyết Tạo Hóa (Issaranimmāna)
1. Khái Niệm Về Một Đấng Sáng Tạo
Giáo thuyết chủ trương nhất phần thường, nhất phần vô thường (ekaccasassata-vāda) đã được đề cập trong các kinh như: kinh Phạm Võng (Brahmajāla sutta, thuộc Trường Bộ), kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh (Brahmanimantana sutta, thuộc Trung Bộ), và trong Tương Ưng Phạm Thiên của Tương Ưng Bộ, xem vị Đại Phạm Thiên, người đầu tiên cư ngụ trong cõi sơ thiền, là một chúng sinh tối thượng hay Thượng Đế sáng tạo để giải thích cho thuyết Tạo Hóa này.
Những người chấp tà kiến ấy chủ trương như sau: 'Quả thực chúng sinh này, vị Phạm thiên này, đấng Đại Phạm Thiên này, vị chiến thắng này, người không thể bị kẻ khác chiến thắng, chắc chắn là bậc biến nhãn (all-seeing), toàn năng (all-powerful), bậc cai trị, bậc sáng tạo của tam giới (gồm Okasalaka: Hư không giới; Sattaloka: Hữu tình giới; Sankharaloka: Hữu vi giới), đấng tối thắng, đấng quyền năng, đấng đã thực hành sự an định, cha đẻ của tất cả chúng sinh đang là và sẽ là. Và Ngài đã sáng tạo ra chúng ta.'
Thuyết Tạo hóa có mặt trong thế gian này do một số các vị Samôn và Bàlamôn tin vào thuyết nhất phần thường, nhất phần vô thường (ekaccassasata-vāda), một kiến chấp đã được các vị Phạm Thiên sau khi hết phước trong cõi Phạm Thiên, rơi xuống cõi nhân loại và Chư Thiên (devas), và họ có thể nhớ lại tiền kiếp của mình, chủ trương. Thuyết Tạo hóa này đã được giảng giải rõ trong kinh Phạm Võng. Trước khi Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện, tà kiến này đã được nhiều người Bàlamôn chủ trương. Khi Đức Phật xuất hiện, Ngài bác hết tất cả mọi tà kiến, và tà kiến về thuyết Tạo hóa này đã không còn có cơ hội phát triển ở Ấn Độ.
Những người tin tưởng vào sự sáng tạo của một đấng Thượng Đế được gọi là issaranimmāna-vādi – thần hóa luận giải. (Ba cách phản bác thuyết Tạo hóa này cũng giống như trường hợp phản bác tiền định kiến vậy.)
2. Chỉ Có Nghiệp Là Tài Sản Riêng Của Con Người
Những người chấp vào thuyết Tạo hóa hoàn toàn loại bỏ chánh kiến (đã giải thích trong đoạn 'Kammassakā sattā kammadāyādā - Nghiệp là tài sản của các chúng sinh, chúng sinh là kẻ thừa tự của nghiệp’) Mặc dù họ loại trừ chánh kiến này, song họ không biết rằng họ đã vô tình lọt vào phạm vi của 'nghiệp sở hữu - kammassakā' và 'nghiệp thừa tự - kammadāyādā'. Điều này là đúng. Những người tin tưởng nơi sự sáng tạo của một đấng siêu nhiên hay Thượng Đế cũng trở thành 'chủ nhân ông của nghiệp' và 'kẻ thừa tự của nghiệp'. Vì sao? Bần tăng sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Đối với lãnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ, những người chủ trương thuyết tạo hóa mưu sinh bằng việc canh tác đất chẳng hạn. Chỉ do hành động canh tác đất này, họ đã trở thành chủ nhân ông tài sản của họ - tức những nghiệp do chính họ làm. Điều đó có nghĩa rằng họ có những tài sản dưới dạng 'canh tác'. Một số khác mưu sinh bằng việc mua bán. Chính do hành động mua bán này, họ trở thành chủ nhân ông tài sản của họ - nghiệp mua bán do họ thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng họ có những tài sản dưới hình thức của hành động mua bán. Số khác mưu sinh bằng việc phục vụ cho chính phủ. Chính do những hành động phục vụ chính phủ này, họ trở thành chủ nhân ông những tài sản của họ - là hành động phục vụ chính phủ do họ thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng họ có những tài sản dưới hình thức 'phục vụ chính phủ'. Đối với các lãnh vực hoạt động khác, như các ngành nghệ thuật, khoa học, v.v…, nguyên tắc này cũng có giá trị tương tự.
Có số người tin tưởng nơi một Thượng Đế quyền năng và nương tựa nơi vị này. Song họ chỉ có thể có được tài sản và danh vọng khi nào bản thân họ cố gắng làm một ngành nghề nào đó. Ngược lại, chỉ do có đức tin nơi Thượng Đế quyền năng, ắt hẳn họ không thể có tài sản và danh vọng như vậy được.
Có những người chẳng những không tin mà còn bác bỏ sự hiện hữu của Thượng Đế. Những người này cũng phải làm việc để mưu sinh, nhờ vậy có được của cải và danh vọng. Do đó, người có trí hiểu rằng chỉ có những hành động do chính con người thực hiện mới cho họ của cải và vinh quang chứ không có một đấng Thượng Đế nào có thể cho họ bất cứ điều gì cả.
3. Các Chúng Sinh Được Cứu Độ Bởi Nghiệp Riêng Của Họ Như Thế Nào?
Những người tin tưởng vào Thượng Đế, qui y nơi Thượng Đế, có đức tin nơi Thượng Đế và sùng kính Thượng Đế suốt cuộc đời. Họ tin rằng chỉ có ai tin vào Thượng Đế, khi chết mới được ngài cứu độ, còn ai không tin nơi ngài sẽ không được ngài cứu.
Ở đây, rõ ràng là chỉ những ai tin tưởng vào Thượng Đế, có đức tin và qui y nơi ngài thì sẽ được ngài cứu độ, chứ không phải người khác. Sự giải thích của những người tin thuyết Tạo hóa thực đã quá rõ ràng. Vì thế, một điều hiển nhiên rằng chỉ có những nghiệp của họ, dưới hình thức 'tin tưởng vào Thượng Đế', 'qui y nơi Thượng Đế' và 'sùng kính Thượng Đế' mới có thể cứu được họ, còn bản thân đấng Thượng Đế quyền năng kia không thể cứu họ. Ý nghĩa này hoàn toàn rõ ràng.
4. Giải Thích Thêm
Trong thế gian này, tất cả mọi người, dù tin hay không tin vào Thượng Đế, đều phải theo đuổi những công việc làm ăn khác nhau để tự mưu sinh. Trong ‘lãnh vực hoạt động của nghiệp hiện tại’, chẳng có sự khác biệt nào dành cho bất kỳ ai. Như vậy, với mắt trần chúng ta thấy rằng mọi người ai cũng phải làm việc để mưu cầu sự sống, và chính điều này đã làm cho họ trở thành ‘chủ nhân ông của nghiệp riêng của họ dưới hình thức những nghiệp (hành động có chủ ý) trong đời hiện tại.’
Đối với lãnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ cũng vậy, không có sự khác nhau nào cả. Với nhãn quan của mình, chúng ta thấy rằng do nghiệp quá khứ của mỗi người tạo điều kiện, ai cũng phải làm việc để duy trì sự sống. Có lẽ chúng ta chưa hề thấy một lợi lạc nào khác có được do sự trung gian của Thượng Đế mà không có sự hoạt động của nghiệp, hoặc quá khứ hoặc hiện tại cả.
5. Cái Ác Ngự Trị Thế Gian
Trong thế gian này có những loại chúng sinh như: người cao thượng, người thấp hèn, người giàu sang, người nghèo khó, người sống lâu, người đoản thọ, người ít bệnh, người nhiều bệnh, người đẹp đẽ, người xấu xí, người đạo đức, người vô luân, người có học, người vô học, người độc ác, trộm cắp, đạo tặc, người phong hủi, người mù lòa, người điếc, người câm, người giết mẹ, người giết cha, người sát nhân, người có tính hay táy máy (cắp vặt), người có thói quen tà dâm, người nói dối, người nói chia rẽ, người nói độc ác, người ưa nói chuyện phù phiếm, người tham lam, người sân hận, người chấp thủ tà kiến. Như vậy, cuộc đời này, người ngay thẳng có rất ít, còn người đê tiện, hèn hạ lại rất nhiều.
6. Chánh Kiến Của Những Người Tin Vào Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
Những người tin tưởng vào nghiệp quá khứ và hiện tại, cũng như tin vào những dị thục quả của nghiệp sẽ có chánh kiến như sau: Đối với lãnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ, các chúng sinh do đã thực hiện được những thiện nghiệp trong đời trước, bây giờ họ hưởng dị thục quả dưới hình thức trở thành người cao thượng; và những chúng sinh do đã thực hiện những bất thiện nghiệp trong kiếp quá khứ, họ phải chịu quả dị thục dưới dạng trở thành người hạ liệt. Lại nữa, đối với lãnh vực hoạt động của nghiệp hiện tại, do những chúng sinh này làm việc siêng năng trong kiếp hiện tại, họ trở thành người cao thượng, còn những chúng sinh kia do thực hiện những ác hạnh, nên họ trở thành những loại người hạ liệt,v.v…
XI. Phản Bác Vô Nhân Kiến (Ahetuka)
1. Quan Niệm Về Sự Vô Nhân Của Hiện Hữu
Những người chấp vô nhân kiến chủ trương như sau: ‘Mọi việc trong đời này, chẳng hạn như sự hư hỏng hoặc sự thanh tịnh của các chúng sinh, đã được tiền định trước bởi số phận, chứ không phải do nghiệp quá khứ hay hiện tại, cũng chẳng phải do tinh tấn và trí tuệ.’ Và tất cả những điều này đã được giải thích trong chương nói về sự phản bác Thuyết Tiền định (pubbekata). Hay nói cách khác, họ chủ trương rằng mọi việc trong thế gian này tự nó có mặt chứ chẳng phải do nhân, do duyên nghiệp quá khứ, hay do nhân do duyên sinh nghiệp và trì nghiệp chi cả. Các hiện tượng tâm lý và vật lý khác nhau của hiện hữu được định danh theo qui ước như tự ngã, cá nhân, đàn ông, đàn bà, thú vật v.v… chỉ là trò chơi của sự may rủi không lối thoát, chứ không phải là kết quả của các nhân và duyên. Chúng tự có mặt theo lối riêng của chúng mà không phải do một đấng sáng tạo tạo ra, hay do nhân và duyên sanh nghiệp và trì nghiệp nào làm nên. Những điều như 'giàu', 'nghèo', 'tự mãn', 'phá hoại', 'độc ác', 'thông minh' v.v… tự chúng có mặt và không phải do bất kỳ một nhân hoặc duyên nào cả. Ba cách phản bác Vô nhân kiến cũng giống như ba cách trong trường hợp của Tiền định kiến vậy.
2. Không Nghiệp Nào Có Thể Tự Sanh
Trước khi đức Chánh Biến Tri xuất hiện, Vô nhân tà kiến này đã được các ngoại đạo sư như Guṇakassapa chủ xướng. Trong thời kỳ đức Phật, ‘Thuyết Vô Nhân’ của hiện hữu dựa trên thuyết định mệnh này đã được Makkhali-GosālaAcelaka của Ấn Độ giảng dạy. Những người chủ trương Vô nhân kiến loại bỏ quan niệm ‘các chúng sanh là chủ nhân ông của nghiệp’ (Kammasakata) vốn là lời dạy của Đức Phật. Mặc dù họ loại bỏ quan niệm này, song họ không biết một thực tế là chính họ, bằng cách đó, đã trở thành những người chấp theo ‘Nghiệp Sở hữu kiến’ - Kammasakata. Nếu, theo tà kiến này, mọi hiện tượng tâm vật lý của hiện hữu chỉ là trò chơi của sự may rủi không lối thoát chứ không phải là kết quả của các nhân và duyên, thì sẽ không có gì khác biệt giữa ‘lãnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ’ và ‘lãnh vực hoạt động của nghiệp hiện tại’. Cũng như sẽ không có gì khác nhau giữa người phạm tội nhỏ hay người phạm trọng tội, giữa người hành xử ác độc với người hành xử có trí, vì mọi hành nghiệp đều không phải là kết quả của nhân - duyên, mà chúng tự hiện hữu hoặc như một qui luật chung chung vậy thôi.
3. Các Đặc Tính Khác Của Nghiệp, Trí (Ñāṇa) và Tinh Tấn (Viriya)
Theo thuyết Vô nhân này, mọi ước-muốn-làm, tinh tấn, và hành nghiệp sẽ được xem là vô ích và không đem lại kết quả gì, vì cho dù một người có thực hiện những hành động cao thượng đến đâu chăng nữa, họ cũng chẳng có được một dị thục quả đặc biệt nào. Và nếu họ cứ giữ thái độ biếng nhác, không làm gì cả thì cũng thế mà thôi. Trong thực tế, những pháp như Ý chí, Trí tuệ và Tinh tấn này chẳng phải không giá trị và kết quả. Đó là những pháp (dhamma) chắc chắn sẽ cho những dị thục quả. Vì rõ ràng là tính chất lớn hay nhỏ của nghiệp hiện tại tùy thuộc vào mức độ của ước - muốn - làm (dục), tinh - tấn, cũng như trí - tuệ mà con người vận dụng.
Do sự đa dạng của nghiệp mà có muôn màu muôn vẻ dị thục quả. Liên quan đến vấn đề này, những người có trí sẽ giữ vững chánh kiến và tin rằng trong lãnh vực hoạt động của nghiệp hiện tại, những hành động dẫn đến ‘tự mãn’, ‘hủy diệt’, ‘giàu có’ hoặc ‘nghèo nàn’ mà các chúng sinh kinh nghiệm trong kiếp hiện tại được gọi là ‘các nhân căn để’. Việc này là hoàn toàn rõ ràng trong đời hiện tại, và trong đời tương lai cũng thế, ước - muốn - làm, tinh - tấn và trí - tuệ tạo ra sự giàu sang, nghèo hèn, tự mãn và hủy diệt của các chúng sinh. Không có thiện hạnh và ác hạnh nào mà không tạo ra kết quả. Thực sự, chúng sẽ tạo ra các dị thục quả thích hợp. Vì những tâm sở này không phải vô sinh mà chắc chắn sinh quả. Đối với lãnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ cũng thế, các chúng sinh, do tính chất đa dạng của nghiệp quá khứ làm duyên, sẽ có những loại dị thục quả khác nhau trong những kiếp tương lai của họ, không khác.
4. Xác Định Nhân Do Thấy Quả
Chẳng hạn, do thấy các loại cây cối và hoa trái khác nhau, chúng ta có thể xác định rằng chúng có những loại hạt giống khác nhau. Cũng vậy, do thấy những địa vị khác nhau của các chúng sinh, như tự mãn, hủy hoại, giàu, nghèo v.v… chúng ta có thể phán đoán được các loại nghiệp sai biệt mà họ đã phạm trong những đời quá khứ.
Đức Như Lai biết tất cả những điều này. Ngài đã thấu triệt và thấy rõ sự vận hành của nghiệp trong các lãnh vực hoạt động ở quá khứ cũng như hiện tại, và những dị thục quả của chúng, như giàu, nghèo hay những thăng trầm của cuộc đời. Vì những lý do ấy ngài có thể phản bác thuyết vô nhân của ngoại đạo.
XII. Giải Thích Thêm về Kammassakā-Vāda
1. Ba Nhân hay Duyên
Đoạn 'Kammasakā…' (các chúng sinh là chủ nhân của nghiệp) đã được giải thích tường tận trong chương nói về sự phản bác Tiền định kiến rồi. Ở đây, bần tăng sẽ chỉ giải thích những điều nào chưa được giải thích ở chương đó mà thôi. Chúng ta biết, có những người làm nông nghiệp, canh tác đất đai. Để cho việc canh tác của họ có được kết quả hay bị hư hoại, cần phải có các nhân, hay các điều kiện. Đó là:
1. Hetu (nhân)
2. Paccaya (duyên hay điều kiện hỗ trợ)
3. Sambhāra (tư lương hay điều kiện cấu thành).
Trong ba nhân này,
- Hạt giống và người canh tác là các nhân chính (hetu)
- Chất mầu mỡ hay dưỡng chất (oja) hàm chứa trong đất canh tác ấy là duyên hay điều kiện hỗ trợ (paccaya)
- Những yếu tố sau là các nhân hay điều kiện cấu thành (sambhāva): mưa, hệ thống thoát nước, sông lạch nuôi dưỡng cánh đồng, mây, gió, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, cộng với việc thực hành giới mà người dân trong xứ sở ấy thọ trì.
2. Ví Dụ Cụ Thể
Ở đây, nếu thóc giống chắc và tinh ròng, việc canh tác sẽ thành công và có được một vụ mùa như mong đợi. Nếu ngay từ ban đầu hạt giống không được tinh ròng hay phẩm chất kém, việc canh tác sẽ không thành công và một vụ mùa thất thu sẽ là kết quả. Cho dù hạt giống có chắc và đầy đủ vỏ lụa chăng nữa, việc canh tác chỉ có thể được xem là thành công khi người canh tác biết khi nào thì vỡ đất, cày bừa, ươm mạ, trồng lúa, và làm tất cả những gì cần thiết cho việc canh tác. Mặc dù người canh tác đã làm tất cả những gì được đòi hỏi cho việc trồng trọt rồi, song một lượng mưa thích hợp mới đem lại một vụ mùa tốt đẹp, còn một lượng mưa tồi sẽ đem lại một vụ mùa tồi, và nhất là dẫn đến sự hủy hoại của việc canh tác. Cho dù mưa thuận gió hòa, song nếu không có hệ thống thoát nước hay bờ đập để dẫn nước vào ruộng khi cần và xả nước ra khi những cánh đồng ngập úng, việc canh tác cũng không thành công mà còn có khả năng bị tiêu hoại. Đối với những cánh đồng được dẫn thủy nhập điền bằng nước sông cũng vậy, người canh tác phải biết khi nào thì dẫn nước vào và khi nào thì không. Nếu không vụ mùa sẽ bị tiêu hoại. Nước trong sông còn tùy thuộc vào lượng mưa đổ xuống các vùng núi non, cao nguyên. Nếu không có mưa trên thượng nguồn hay cao nguyên, nước sông cũng không thể tăng lên được. Còn mưa thì chỉ có thể rơi xuống khi các nhân và duyên cần thiết đủ đầy; ngược lại cũng chẳng có mưa.
3. Nghiệp Và Ví Dụ Trên
Ở đây, chúng ta thấy rằng chỉ vấn đề canh tác thôi cũng đã có hàng ngàn nhân duyên cho sự thành công hay tiêu hoại của nó.
Những điều đề cập ở trên chỉ là sự giải thích tóm tắt những gì đang thực sự xảy ra trong thế gian.
4. Quả Báo Chính Và Quả Báo Phụ
Nghiệp quá khứ tạo ra lạc khổ của các chúng sinh trong kiếp kế có thể có hai loại quả - đó là quả báo chính và quả báo phụ.
5. Nghiệp Hiện Tại Và Hai Loại Quả
Trước tiên, bần tăng sẽ giải thích về nghiệp hiện tại trên phương diện này. Chẳng hạn, một người học một ngành nghệ thuật lớn hay một nghề thủ công. Khi chưa xong khóa học, anh ta phải chịu đựng biết bao nhiêu thứ khổ phát sinh do việc học nghề này. Tuy nhiên, đôi lúc anh ta cũng gặp chút ít lạc hay hạnh phúc trong thời gian học của mình. Khi thành tài, anh ta sẽ kiếm được nhiều tiền, hoặc có thể có được một địa vị cao trong chính phủ. Khi ấy anh ta sẽ có được hạnh phúc và giàu có. Do người này là người khéo học, quyến thuộc và bè bạn của anh ta cũng có thể hưởng được các loại lạc nhờ anh ta.
6. Kết Quả Phụ
Như trên chúng ta thấy, cái khổ mà một người phải trải qua trước khi hoàn tất khóa học, và những lợi ích mà thân quyến và bè bạn của anh ta hưởng được nhờ tài năng của anh ta không phải là những kết quả chính của việc học tập, mà chỉ là những kết quả phụ.
7. Kết Quả Chính
Trong bất cứ một ngành nghệ thuật hoặc một nghề thủ công nào cũng vậy, sau khi hoàn tất việc học tập, nếu một người thành công, họ có thể sẽ kiếm được tài sản lớn hay sẽ hưởng được một địa vị xứng đáng trong chính phủ hoặc hưởng được các thứ lợi lạc khác. Những điều ấy mới là kết quả chính của việc học tập của anh ta.
8. Ác Nghiệp Và Hai Loại Quả
Tương tự, đối với ác nghiệp cũng có hai loại quả như vậy. Chẳng hạn, một người giết một người khác, những người thù ghét người đã chết này có thể ca ngợi kẻ sát nhân và tỏ lòng kính trọng hắn, hoặc có thể tặng cho hắn một số tiền hay hiện vật có giá trị tương đương. Ngược lại, thân quyến của người quá cố sẽ căm giận kẻ sát nhân, họ có thể sẽ giết hắn để trả thù, hoặc vận chuyển bánh xe công lý để cho kẻ sát nhân này phải nhận án tử hình. Những quả nghiệp dị thục của kẻ sát nhân, tức ác nghiệp giết một người còn sống, được gọi là những kết quả phụ.
Kẻ sát nhân ấy, vào lúc thân hoại mạng chung, sẽ phải tái sinh vào những cõi khổ kể như dị thục quả của ác nghiệp giết người của hắn, và chịu đựng muôn vàn đau khổ. Đây là kết quả chính của hắn.
Nếu kẻ sát nhân, do thiện nghiệp quá khứ làm duyên, được tái sinh làm người, thì dù sinh ở đâu, hắn cũng sẽ bị đoản thọ (chết non), đa bệnh, và gặp oan trái với những người thù địch. Đây là kết quả chính của nghiệp giết người trong kiếp hiện tại của hắn.
Do hành động giết người này, quyến thuộc của hắn ta sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Đấy chỉ là những kết quả phụ. Đối với trường hợp của thiện nghiệp cũng thế, nguyên tắc này có giá trị tương tự.
Lại nữa, quả phụ còn được phân làm hai loại:
- Loại có hiệu lực vào lúc can dự vào hành động,
- Loại có hiệu lực khi nghiệp tương xứng thành thục trong kiếp tương lai.
Trong hai loại này, dị thục quả xảy ra vào lúc phạm một nghiệp thường không ‘cân đối’. Người chịu quả báo phụ của một thiện nghiệp có thể cảm thọ khổ, trong khi người chịu quả báo phụ do một ác nghiệp có thể cảm thọ lạc hay được hạnh phúc. Song khi nghiệp tương xứng đã chín muồi trong một kiếp tương lai nào đó, thì quả báo phụ lại ‘cân đối’, vì ác nghiệp lúc đó sẽ cho quả dị thục khổ và thiện nghiệp sẽ cho quả dị thục lạc không sai chạy.
9. Quả Báo Chính
Quả báo chính xảy ra một cách chắc chắn, vì thiện nghiệp sẽ cho một dị thục quả thiện chứ không cho một dị thục quả bất thiện; còn ác nghiệp sẽ cho một dị thục quả ác chứ không cho một dị thục quả thiện được. Quả báo chính xảy ra trong dòng hữu phần của người làm hành động (người tác nghiệp) chứ không phải trong dòng hữu phần của một ai khác. Sau khi cảm thọ quả báo chính của nghiệp mình làm, nếu người này chết, quả báo chính cũng tiêu sạch không để lại chút phản ứng nào của nó.
10. Quả Báo Phụ
Trong trường hợp của quả báo phụ, nó có thể xảy ra trong dòng hữu phần của những người khác. Vì thế ngay cả khi người tác nghiệp chết, phản ứng của quả báo phụ vẫn còn, hoặc đem lại điều tốt hoặc đem lại điều xấu cho những người khác.
Bần Tăng sẽ giải thích điều này rõ ràng hơn. Giả sử một chúng sinh có giới đức và năng lực, đã làm tất cả các ba la mật trong những kiếp trước, bây giờ tái sinh vào bào thai của một người nữ nào đó. Kể từ lúc thụ thai đứa trẻ phi thường ấy, cha mẹ đứa trẻ sẽ được thành mãn trong mọi công việc và tài sản, tôi tớ cũng gia tăng. Nếu đó là một gia đình hoàng tộc, thì những vị cố vấn tài trí và những binh tướng gan dạ chắc chắn sẽ có mặt. Địa phương nơi đứa trẻ tái sinh sẽ được mưa thuận gió hòa, dân cư trong vùng cũng an cư lạc nghiệp. Nói chung, xứ sở này sẽ trở nên thịnh vượng. Đây là phản ứng của quả báo do chúng sinh giới đức và có năng lực ấy đem lại.
Liên quan đến điều này kinh Pháp Cú có nói:
Dullabho purisājañño
Na so sabbattha jāyati,
Yatta so jāyatī dhīro
Tam kulam sukham edhati
(DP. 193)
Thánh nhân thật hiếm thay!
Chẳng phải đâu cũng có,
Nơi nào bậc trí sanh
Gia tộc ấy được lạc.
11. Nghiệp Hiện Tại Và Quả Báo Phụ
Ở đây, bần Tăng sẽ giải thích sự việc này bằng một ví dụ. Nếu một người có khả năng, bằng vào sức mạnh, tài sản hoặc kiến thức kỹ thuật của mình, kiến tạo những mảnh đất có thể trồng trọt được, xây dựng hoa viên, hồ nước, giếng ăn, đập nước, kênh lạch, và những con đường v.v…, những công trình kiến tạo này sẽ tồn tại trong một thời gian dài và đem lại lợi ích cho rất nhiều người, đồng thời nhờ những công trình ấy mà nhiều người có thể sẽ gặt hái được lắm lợi lạc.
12. Nghiệp Quá Khứ Và Quả Báo Phụ
Như chúng ta đã thấy quả báo phụ của nghiệp hiện tại với chính nhãn quan của mình, trong trường hợp lãnh vực hoạt động của nghiệp quá khứ cũng vậy, nhiều người có thể nương tựa vào con người đức hạnh phi thường này. Ngược lại, do phản ứng của ác nghiệp mà một chúng sinh đã làm trong kiếp quá khứ, nhiều người cũng phải chịu những nhọc nhằn, khổ sở.
Như vậy, bậc trí tin rằng mỗi chúng sinh ai cũng có nghiệp quá khứ và hiện tại cùng với những quả báo chính và phụ của chúng.
Trên đây là lời giải thích tóm tắt cách nghiệp quá khứ và hiện tại cho những loại dị thục quả khác nhau như thế nào.
XIII. Giải Thích Về Thân Kiến (Attā-Diṭṭhi)
1. Các chúng sinh phải lang thang trong những cõi sống vui và khổ do thân kiến như thế nào?
Các loại tà kiến khác nhau, các loại ác pháp khác nhau và các loại nghiệp khác nhau nằm ngầm trong và đi kèm theo dòng hữu phần của các chúng sinh còn đang lang thang trong vòng tử sinh luân hồi. Do những tâm sở bất thiện này, mà những điều sau có mặt rất rõ rệt.
1. Bốn cõi thấp (cõi khổ), và
2. Các loại hành nghiệp bất thiện khác nhau.
Do những tâm sở xấu xa này mà các chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong các cảnh giới sinh tồn khác nhau. Không nói quá đáng đâu, ngay cả những con heo, con chó, v.v… thuộc bốn cõi thấp trong quá trình luân hồi có thể sẽ trở thành các vị Đại Phạm Thiên. Đôi khi chúng sẽ sinh vào các cảnh giới Phạm Thiên cao hơn, chẳng hạn như Quang Âm Thiên (ābhasara), Biến Tịnh Thiên (subhakiṇha), Quảng Quả Thiên (vehapphala) và những cõi vô sắc. Mặc dù chúng có cơ hội được tái sinh trong những cõi Phạm Thiên cao vời này, khi mà thọ mạng của chúng đã tận hoặc khi phước của chúng đã hết, chúng cũng phải tái sinh lại vào bốn cõi thấp. Đây là đường lối của thế gian.
Bộ Phân Tích có nói:
Ukkhittā puññatejena,
Kāmarūpagatim gatā,
Bhavaggatampi sampattā
Puna gacchanti duggatim.
Do các thiện nghiệp làm duyên, các chúng sinh sẽ tái sinh vào dục giới, sắc giới, và ngay cả cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ (neva-saññā-nā saññāyatana) thuộc cõi vô sắc. Dù cho là vậy, khi thọ mạng của chúng đã mãn, hoặc khi phước của chúng đã cạn, chúng cũng phải tái sinh vào bốn ác đạo.
Vì những tâm sở ác tà kiến và ác nghiệp ấy luôn luôn đi kèm theo dòng hữu phần của các chúng sinh, cho dù họ có thành các vị Đại Phạm Thiên, họ cũng chỉ là hàng phàm nhân (puthujjanas), và là những cư dân của cõi thế gian. Cũng như những viên đá hay những mũi lao ném lên trời, cuối cùng rồi sẽ rơi xuống đất trở lại do lực hấp dẫn như thế nào, thời các chúng sinh có thể phải tái sanh vào bốn cõi thấp cũng vậy. Khi dòng hữu phần của họ chứa chất đầy những tâm sở y như địa ngục, thì họ sẽ là những chúng sinh đang đi về hướng các địa ngục (tạm thời); khi những tâm sở độc ác đi kèm với dòng hữu phần, họ là những chúng sinh có tâm địa độc ác, chắc chắn sẽ làm các ác nghiệp; khi họ tồn tại trong cõi mà ác nghiệp có rất nhiều, họ là những cư dân của cõi đó; khi họ tồn tại trong cõi mà hầu hết các chúng sinh không có ‘tuệ nhãn’, họ là những cư dân của cõi đó.
Thế nào là cõi ác nghiệp có nhiều (kaṇha-bhūmi) và thế nào là cõi các chúng sinh bị mù quáng do ngu dốt, không có ‘tuệ nhãn’ (andha bāla-bhūmi)? Những tà kiến (pāpa diṭṭhi), ác pháp (pāpa-dhamma) và bất thiện nghiệp (pāpa-kamma) đã đề cập ở trên hiển hiện rõ ràng trong hai cõi này - kaṇha bhūmi và andha-bāla bhūmi. Câu hỏi kế tiếp: Vì sao ngay cả các vị Đại Phạm Thiên cũng hiện hữu trong hai cõi này? Vì họ có thân kiến hay thường kiến 'Tôi là, Tôi là'.
2. Sức Mạnh Của Thân Kiến
Căn nguyên của mọi tà kiến, mọi bất thiện tâm sở và mọi ác nghiệp là attā-diṭṭhi (thân kiến). Bao lâu những tà kiến này (pāpa-diṭṭhi) còn tồn tại trong dòng hữu phần của một chúng sinh, thời tà kiến, tà pháp (pāpa-dhamma) và tà nghiệp (pāpa-kamma) cũng sẽ tồn tại ở đó. Hễ những tà kiến này còn kèm theo dòng hữu phần của họ, họ sẽ được gọi là ‘người hướng về địa ngục’, ‘người làm điều ác’, ‘cư dân của cõi ác nghiệp thịnh hành’, và ‘cư dân của cõi các chúng sinh bị mù lòa vì si mê - andha-bāla’. Một khi thân kiến diệt, cả ba tà kiến này cũng sẽ bị dập tắt cùng với các loại ác pháp.
Những người không thể diệt trừ thân kiến sẽ trở thành kẻ thừa tự của pāpa-diṭṭhi (tà kiến). Như thế nào? Bởi vì khi một người còn có thân kiến chắc chắn sẽ không thể loại trừ vô vàn tà kiến, tà pháp và tà nghiệp mà họ đã chấp giữ trong nhiều đại kiếp hay nhiều kiếp sống trong vòng tử sinh luân hồi vậy.
Dù cho những chúng sinh mà dòng hữu phần của họ được kèm theo bởi thân kiến này có tái sinh vào cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng nữa, những tà kiến, tà pháp và tà nghiệp ấy cũng vẫn cho họ những dị thục quả tương xứng và tất nhiên sẽ kéo họ vào những cõi thấp hơn.
Bao lâu con người không thể loại bỏ thân kiến này, họ sẽ phải trở thành những nạn nhân của tà kiến, tà pháp và tà nghiệp, trong các kiếp tương lai của họ. Và trong bất kỳ kiếp sống nào mà họ sinh ra, họ vẫn sẽ chấp nhận tất cả những tà kiến nào mà họ gặp, thực hiện các loại ‘ác hạnh’ nào họ có cơ hội thực hiện, và phạm vào những trọng nghiệp như giết cha, giết mẹ, v.v…
Trong kiếp hiện tại cũng vậy, thường những ai có thân kiến thì sẽ có khuynh hướng chấp nhận tà kiến, nuôi dưỡng các bất thiện tâm sở và làm những điều ác.
3. Thuyết Tạo Hóa Phát Sinh Do Thân Kiến Thế Nào?
Thực sự, Thuyết Tạo-hóa (issaranimmāna) có mặt trong cuộc đời là do thân kiến này. Chính do thân kiến (aṭṭā diṭṭhi) mà Đại Phạm Thiên (Māha Brahmā) vốn không biết mình từ đâu đến và khi nào thì sẽ rời khỏi Phạm Thiên giới này nghĩ mình là thường hằng, bất biến, vĩnh cửu, không phải chịu sự đổi thay, và tồn tại như một đấng vĩnh hằng. Vị Phạm Thiên này tự nhủ: ‘Ta là đấng Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, bậc chiến thắng, bậc không ai có thể chiến thắng, bậc biến nhãn, đấng quyền năng, bậc cai trị, sáng tạo chủ, đấng tối thắng, đấng toàn năng, đấng đã hành (và đạt đến) an định, cha của tất cả chúng sinh đang là và sẽ là.’ Thỉnh thoảng vị này hiện ra nơi các cõi Phạm Thiên có thọ mạng ngắn hơn và nói: ‘Ta là vĩnh hằng; Ta là toàn năng; Ta tạo ra tất cả các người.’
Khi các vị Phạm Thiên kia nghe những lời ấy, họ tin tưởng ông ta và như vậy trở thành những người chấp giữ thuyết Tạo hóa này. Phạm Thiên còn vậy, nói gì đến những chúng sinh tái sinh nơi các cõi chư Thiên và nhân loại! (Những người chủ trương thuyết tạo hóa này từ đó xem ông ta như đấng sáng tạo của họ. Tóm lại, xuất phát từ những lời của vị Đại Phạm Thiên đó mà tà kiến này có mặt trong cuộc đời vậy.
4. Không Có Hạnh Phúc Thực Sự Khi Còn Thân Kiến
Bao lâu con người không thể loại trừ thân kiến (attā-diṭṭhi), dù cho họ có trở thành một vị Đại Phạm Thiên tự xưng là đấng sáng tạo chăng nữa, họ cũng sẽ không tài nào thoát ra khỏi sự trói buộc của tà kiến, tà pháp, tà nghiệp, vốn đã nảy sinh trong dòng hữu phần của họ trong những kiếp quá khứ, đang khởi lên trong kiếp hiện tại và cũng sẽ hiện hữu trong những kiếp tương lai của họ, và chắc chắn họ sẽ phải tái sinh vào những cõi thấp trong đời sau.
Như vậy họ chỉ là cư dân của những cõi đa nghiệp chướng (kaṇha-bhūmi), cũng như cá và rùa phải cư trú trong đại dương. Vì họ không có ‘tuệ nhãn’ nên họ cũng còn là những cư dân của cõi mà các chúng sinh bị mù lòa do si mê (andha-bāla bhūmi).
Hiện tại những chúng sinh phải tái sinh vào các cõi thấp do bất thiện nghiệp quá khứ mà họ đã tạo, song bất luận ai trong họ cũng có thể, trong một kiếp tương lai nào đó, trở thành một vị Đại Phạm Thiên tự xưng mình là Thượng Đế toàn năng, khi thiện nghiệp quá khứ của họ chín muồi. Như vậy, chúng ta cần phải nhớ rằng, nếu attā-diṭṭhi (thân kiến) còn ngủ ngầm trong dòng hữu phần của các chúng sinh, họ không thể nào tìm được hạnh phúc chơn thực trong khi còn đang lang thang trong vòng tử sinh luân hồi, và chắc chắn cũng sẽ không thể tìm được lối thoát ra khỏi vòng trầm luân ấy.
XIV. Những Lợi Ích Xuất Phát Từ Việc Đoạn Diệt Hoàn Toàn Thân Kiến
1. Không Còn Tái Sinh Vào Địa Ngục
Khi người ta có thể tẩy trừ thân kiến vốn là căn nguyên của tà kiến, thì những hiện tượng tâm lý đã từng đi kèm theo dòng hữu phần của họ trong quá khứ, đang đi kèm trong kiếp hiện tại và sẽ đi kèm với dòng hữu phần của họ trong các kiếp tương lai này, sẽ bị hủy diệt hoàn toàn.
Lúc ấy họ sẽ trở thành kẻ thừa tự của những thiện nghiệp mà họ đã làm trong quá khứ, đang làm trong hiện tại, và sẽ làm trong kiếp tương lai. Một khi các chúng sinh này đã loại bỏ được thân kiến, thì mọi tà kiến, mọi bất thiện tâm sở và ác nghiệp dẫn họ vào bốn ác đạo sẽ diệt cùng với thân kiến ấy. Họ không còn phải tái sinh trong bốn ác đạo, và chắc chắn sẽ thoát khỏi sự kềm kẹp của chúng trong các kiếp sống tương lai. Vì họ không còn tạo tác những ác nghiệp, nên họ sẽ vĩnh viễn thoát khỏi mọi điều ác.
2. Chứng Đắc Niết Bàn
Sự dập tắt hoàn toàn của mọi phiền não bao gồm tà kiến, tà pháp, v.v… và sự dập tắt hoàn toàn của ác nghiệp với các uẩn hữu vẫn còn được gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn (sa-upādisesa-nibbāna) hay cảnh giới siêu thế, cảnh giới của các bậc thánh.
3. Không Còn Chết
Hữu Dư Y Niết Bàn - trạng thái diệt tận mọi phiền não, như tà kiến, v.v.. với các uẩn hữu vẫn còn (nghĩa là còn thân ngũ uẩn nhưng tâm phiền não đã diệt), không bao giờ bị hư hoại, tiêu hủy hay thối đọa, trong các kiếp tương lai. Trạng thái này là thường hằng và vĩnh cửu; nó không bao giờ thay đổi, không bao giờ hư hoại, không bao giờ mất đi; và không bao giờ diệt vong. Trạng thái này không có ‘sát na hoại’, nên được gọi là bất tử (amata).
4. Không Tạo Tác
Những ai đạt đến trạng thái dập tắt mọi phiền não và căn nguyên phát sinh thân kiến - attā diṭṭhi - như vậy sẽ thấy rằng trạng thái tận diệt này không bao giờ bị hủy hoại trong tương lai. Những tà kiến, tà pháp và tà nghiệp sẽ không thể nào khởi lên trong tâm họ trở lại. Trạng thái không còn tạo tác những ác nghiệp mà vốn sẽ dẫn họ vào các cõi khổ này sẽ chẳng bao giờ bị hủy hoại, cũng không bao giờ bị hư hao. Và họ sẽ chẳng còn phải tái sinh nữa.
Sự dập tắt của mọi phiền não này là bất tử giới (amata-dhātu - trạng thái không còn tử-sinh) hay còn gọi là vô vi giới (asaṅkhāta-dhātu).
5 . Những Cõi Bậc Nhập Lưu Sẽ Tái Sinh
Kể từ lúc thân kiến bị dập tắt trong tâm của những người đã đạt đến Hữu Dư Y Niết Bàn (sa-upādisese-nibbāna), là họ đã vượt qua giai đoạn phàm phu (puthujjana) và không còn nằm trong lãnh vực của phàm nhân nữa. Từ đây họ bắt đầu hiện hữu trong cảnh giới của các bậc thánh và trở thành cư dân của cảnh giới (siêu thế) ấy.
Những người đã đoạn trừ hoàn toàn thân kiến này sẽ chỉ luân chuyển giữa các cõi nhân-thiên tối đa là bảy lần nữa trong vòng luân hồi và cuối cùng thì đạt đến Niết Bàn. (Ghi chú: Ở đây đang nói về bậc Thánh Nhập Lưu - sotapanna)
Tuy nhiên, đối với một số vị thánh Nhập Lưu sẽ tái sinh vào các cõi Phạm Thiên, hay những vị đang luân chuyển trong các cõi Phạm Thiên thì không có sự hạn định này, vì họ đã trở thành hạng uddhāgāmi-puggalā (những chúng sinh sẽ sống qua những tầng phạm thiên cao hơn). Họ có thể trải qua các cõi Phạm Thiên trong hàng trăm, hàng ngàn hoặc hàng trăm ngàn kiếp và đại kiếp; song họ sẽ không bao giờ phải sinh vào bốn ác đạo, cũng như không bao giờ luân chuyển trong các cõi nhân-thiên (dục giới).
Do thiện nghiệp trong quá khứ và hiện tại của họ làm duyên, các bậc thánh này sẽ tiến triển qua những cõi an vui. Trong tương lai cũng vậy, họ chỉ thực hiện những thiện nghiệp và không bao giờ nghĩ đến việc làm các ác nghiệp. Thân kiến, vốn là căn nguyên của tà pháp và ác nghiệp, đã được họ dập tắt hoàn toàn.
Các bậc Thánh đã xua tan thân kiến này sẽ trở thành kẻ thừa tự của nghiệp hiện tại. Họ có những thiện nghiệp để đưa họ đến cõi sống an vui và chắc chắn chỉ có đi đến cõi đó mà thôi. Vì họ đã thành tựu những pháp cao quý, nên họ trở thành các bậc đáng tôn quý. Vì họ hiện hữu trong cảnh giới, nơi đây thiện nghiệp thuần tịnh có nhiều, nên họ trở thành những cư dân của cảnh giới ấy. Vì họ có ‘tuệ nhãn’ nhờ đó họ có thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế, nên họ là các bậc thánh. Trong tương lai, dù còn phải dong duỗi bất kỳ kiếp sống nào, họ cũng sẽ có đầy đủ trí tuệ của bậc thánh (ariya-paññā). Vì họ đã vượt qua giai đoạn của phàm nhân chưa thể xua tan thân kiến, nên họ trở thành thánh nhân - những cư dân của cảnh giới siêu thế.
Trong thời kỳ đức Phật có rất nhiều gia chủ (người cư sĩ) ở Sāvatthi, Benares, Vesāli, Rājagaha (những kinh thành mà đức Phật đã đi qua trong thời kỳ hoằng pháp) trở thành bậc Thánh Nhập Lưu (sotāpana) sau khi đã xua tan thân kiến (attā-diṭṭhi).
Kinh điển ghi chép rằng Phạm Thiên Vương Sanankumāra đã có lần bộc lộ cho biết là có vô số bậc thánh trong thế gian này.
Tất nhiên, những người đã đắc nhập lưu trong thời kỳ Đức Phật bây giờ vẫn còn đang sống trong sáu cõi trời dục giới. Các vị Tu-đà-hoàn này được gọi là ‘uddham sota-puggala’ (những vị đang hướng lên các cõi cao hơn - Thượng lưu thiện thú nhân), và sẽ không bao giờ tái sinh vào một cảnh giới thấp hơn.
Có thể nói, mười ngàn thế gian trong cõi thọ sanh (jāti-khetta), có hàng tỷ tỷ, số lượng không thể tính được các vị chư thiên Tứ Đại Thiên Vương là bậc nhập lưu. Trong năm cõi trời dục giới khác và các cõi Phạm Thiên như Phạm Chúng Thiên (brahmaparisajjā) chẳng hạn, số lượng các vị Tu-đà-hoàn nhiều không tính kể. Các vị này được gọi là uddhagāmi-puggalā (Thượng lưu thiện thú nhân) sẽ không bao giờ tái sinh vào một cõi thấp hơn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét